Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Dâu tằm tơ (phần II ) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.49 KB, 6 trang )

Dâu tằm tơ (phần II )
Lịch sử ngành dâu tằm
Trung Quốc là nước có nghề trồng dâu nuôi tằm sớm nhất trên thế giới,
sau đó dâu tằm mới được phát triển và lan rộng đến các vùng khác trên
thế giới. Cách đây 4-5 nghìn năm người Trung Quốc đã biết nuôi tằm và
thuần hoá giống tằm, cuốn Biên niên sử
[cần dẫn nguồn]
đã đề cập tới dâu tằm
vào triều vua Châu Vương (2200 trước Công nguyên)
[cần dẫn nguồn]
. Tơ lụa
thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quí tộc, nó thể hiện sự
thuần phục của dân đối với vua. Bí mật của ngành dâu tằm tơ được người
Trung Quốc giữ kín rất lâu, phải gần 1000 năm sau ngành nghề này mới
được để lộ và lan truyền sang các nước
lân cận bằng Con đường tơ
lụa
[cần dẫn nguồn]
.
Theo một số tài liệu khác cho rằng
nghề dâu tằm được lan truyền sang
Triều Tiên vào khoảng năm 1200 trước
Công nguyên, sau đó là Nhật Bản thế
kỷ thứ 3 trước Công nguyên, Ấn Độ
giữa thế kỷ 2 trước Công
nguyên.
[cần dẫn nguồn]

Theo các nhà lịch sử phương
Tây
[cần dẫn nguồn]


, cây dâu được trồng phát triển ở Ấn Độ thông qua Tây
Tạng vào khoảng năm 1400 trước Công nguyên và nghề trồng dâu, nuôi
tằm bắt đầu ở vùng châu thổ sông Hằng. Theo các nhà lịch sử Ấn Độ, nơi
nuôi tằm đầu tiên ở đây là thuộc vùng núi Hymalaya. Khi người Anh đến
Ấn Độ, do buôn bán tơ lụa mà nghề dâu tằm được phát triển và lan rộng
sang vùng khác như Mysore, Jamu, Kashmir.
Ả Rập do nhập trứng tằm và hạt dâu từ Ấn Độ nên cũng là một trong
những nơi sớm có nghề dâu tằm.
Vào thế kỷ 4, nghề dâu tằm được thiết lập ở Ấn Độ như là trung tâm của
châu Á và tơ lụa được xuất khẩu tới Roma (Ý), nhưng đến thế kỷ 6 người
Roma đã học được kỹ nghệ sản xuất tơ và tơ đã được sản xuất ở châu Âu,
người Roma đã hoàn toàn chiếm lĩnh trong lĩnh vực sản xuất này. Từ Ý,
dâu tằm được phát triển tới Hy Lạp, Áo và Pháp.
Ở Áo, dâu tằm được phát triển mạnh vào thế kỷ 9-11, ở Pháp trồng dâu
nuôi tằm được bắt đầu từ năm 1340. Ngành dâu tằm của Pháp được thành
lập vào cuối thế kỷ 17 và phát triển tới giữa thế kỷ 18. Trong thế kỷ 19,
dâu tằm Pháp bị dịch tằm gai (Nosema) và bệnh đã lan truyền sang châu
Âu và Trung Đông. Do đó ngành dâu tằm đã bị khủng hoảng do bệnh
dịch này. Năm 1870 Louis Pasteur đã phát hiện ra bào tử gai là nguyên
nhân gây bệnh và ông đã đưa ra cách loại trừ bệnh dịch này, do vậy mà
ngành dâu tằm đã thoát khỏi khủng hoảng và nay được tiếp tục được mở
rộng phát triển. Vì lợi ích kinh tế đem lại nên ngành dâu tằm tơ được
nhiều nước quan tâm.
Các loại tằm
Có 4 loại tơ tằm tự nhiên, loại sản xuất nhiều chiếm 95% sản lượng trên
thế giới đó là tơ của tằm dâu và mục tiêu chính của tơ là tơ tằm dâu.
Ngoài ra còn có loại khác đó là tơ tằm thầu dầu lá sắn, tơ tằm tạc, tơ tằm
sồi.
Tằm dâu được con người khai thác trên 4.000 năm, tất cả các giống được
nuôi hiện nay thuộc loài Bombyx mori L, nó được phân ra từ gốc tằm

Mandarina có tên khoa học Bombyx mandarina (Moore).
Tằm dâu sau này được phân chia và xác định giống có nguồn gốc: Nhật
Bản, Trung Quốc, châu Âu, Ấn Độ trên cơ sở phân bố địa lý hoặc gọi
theo tính hệ như: độc hệ, lưỡng hệ, đa hệ hoặc gọi giống thuần chủng,
giống lai (lai đơn, lai kép).
Tằm thầu dầu lá sắn có 2 loài Philosamia niconi (Hutt) hoặc Philosamia
cynthia (Drury) thuộc loại tằm nhỏ ăn lá thầu dầu và lá sắn. Nó tạo ra tơ
thô, kén không thích hợp cho ươm tơ, do đó nó thường được dùng để nấu
và kéo sợi.
Tằm tạc thuộc loại tằm dại có nhiều giống:
[cần dẫn nguồn]

 Tằm tạc Trung Quốc: Antheraea pernyi có sản lượng lớn trên thế
giới.
 Tằm tạc Tasa: Antheraea mylitta (Dury).
 Tằm tạc Nhật Bản: Antheraea yamamai (Querin) cho tơ xanh.
 Tằm tạc Ấn Độ: Antheraea assamensis, ăn lá cây tạc (Terminalia)
và một số cây tạc khác, giống tằm độc hệ hoặc lưỡng hệ kén có thể
ươm tơ giống như tằm dâu. Có tầm quan trọng thứ 2 thế giới
Tằm dâu (Bombyx mori-Linnaeus) là loài côn trùng biến thái hoàn toàn,
vòng đời trải qua 4 giai đoạn phát dục khác nhau: trứng, tằm, nhộng,
ngài. Mỗi giai đoạn phát dục đều có một vai trò quan trọng trong đời sống
con tằm.
 Giai đoạn tằm: là giai đoạn ăn lá dâu để tích luỹ dinh dưỡng, cơ thể
tằm trong giai đoạn này lớn lên rất nhanh, tằm sắp chín (đủ dinh
dưỡng) lớn gấp 8.000-10.000 lần so với tằm mới nở.
 Giai đoạn ngài: là giai đoạn trưởng thành con đực và con cái tìm
nhau để giao phối và ngài cái đẻ trứng.
 Giai đoạn trứng: đối với trứng tằm đa hệ thì sau khi con cái đẻ
trứng 8-10 ngày, ở 25 °C trứng sẽ nở thành tằm con. Đối với trứng

tằm lưỡng hệ và độc hệ thì sau khi đẻ trứng đi vào trạng thái ngủ
nghỉ và bắt buộc trứng phải qua lạnh. Vì đây là đặc tính di truyền
của tằm lưỡng hệ và độc hệ được hình thành trong điều kiện giá
lạnh của vùng ôn đới, sau 4-5 tháng lạnh của mùa đông thì trạng
thái ngủ nghỉ (hay còn được gọi là hưu miên) bị phá vỡ và trứng
được nở ra tằm con. Người ta
đã lợi dụng đặc tính này của
trứng tằm để bảo trứng lâu
dài. Đi với nó là các phương
pháp đánh thức ngủ nghỉ
bằng các biện pháp nhân tạo.
Đặc điểm trứng tằm: hình bầu dục,
nhỏ, dẹt, bên ngoài có vỏ cứng, tuỳ
theo giống mà trứng có hình dạng
khác nhau, trứng tằm độc hệ lớn
nhất, sau đến là trứng lưỡng hệ,
trứng tằm đa hệ là bé nhất, trứng có màu trắng sữa hoặc hơi vàng, trên
mặt trứng có nhiều lỗ khí.
Tầm quan trọng kinh tế, xã hội, môi trường
Sợi tơ tằm được tôn vinh là "Nữ Hoàng" của ngành dệt mặc dù sản lượng
sợi tơ sản xuất ra thấp hơn nhiều so với các loại sợi khác như: bông, đay,
gai nhưng nó vẫn chiếm vị trí quan trọng trong ngành dệt, nó tô đậm
màu sắc hàng đầu thế giới về mốt thời trang tơ tằm.
Dâu tằm vẫn là một nghề phát triển ở các nước phát triển như: Nhật, Nga,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ
Còn ở các nước đang phát triển, như Việt Nam, dâu tằm là một nghề rất
quan trọng nhất là ở các vùng nông thôn. Trồng dâu nuôi tằm đem lại
hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với các cây trồng khác, vì sản phẩm
dâu tằm có giá trị cao, vòng quay lứa tằm ngắn chỉ có 20 ngày. Đồng
thời, cây dâu tằm có thể trồng được ở những vùng có điều kiện đất đai

xấu và khí hậu khắc nghiệt mà vẫn sinh trưởng phát triển tốt, cho sản
lượng lá dâu cao để cho tằm ăn và thu nhập dâu tằm đem lại thường cao
hơn các cây trồng khác. Ở vùng nhiệt đới, trồng dâu tằm không chỉ đáp
ứng thu nhập quanh năm mà nó còn giải quyết nhiều lao động nhàn dỗi
tại nông thôn. Mặt khác, trồng cây dâu tằm còn làm tăng độ che phủ xanh
trên các bãi đất trống (đất hoang) tham gia vào điều hòa tiểu khí hậu môi
trường vùng đó.
Cây dâu
 Phân bố: Cây dâu ưa khí hậu mát và khoẻ nên mọc được ở nhiều
vùng đất, mọc nhiều ở vùng nhiệt đới, còn vùng ôn đới thì mọc vào
mùa hè.
 Đặc tính sinh học: Là cây lâu năm thân gỗ, sống lâu năm, tuổi thọ
8-12 năm, cho năng suất từ năm thứ 2 đến năm thứ 8. Nếu đất tốt,
chăm sóc tốt tuổi thọ 50 năm. Thân cành nhiều nhựa không gai,
trên thân cành có nhiều mầm, mầm đỉnh, mầm nách, khi cắt tỉa
mầm có khả năng cho bật mầm. Lá hàng năm rụng vào mùa đông.
Rễ ăn sâu và rộng 2-3 m, nhưng phân bố nhiều ở tầng đất 10-30 cm
và rộng theo tán cây.
 Sinh thái cây dâu: Nhiệt độ thích hợp 25-32 °C còn trên 40 °C hoặc
dưới 12 °C hạn chế sinh trưởng. Là cây ưa ánh sáng.
 Đất và dinh dưỡng trong đất: Cần đất tơi xốp, giữ ẩm, giữ nhiệt,
tầng canh tác dầy, đất không quá chua hoặc quá mặn, mực nước
ngầm thấp. Các dinh dưỡng cần thiết: Đạm (N), Lân (P
2
O
5
), Kali
(K
2
O), Canxi (Ca).

 Tùy theo điều kiện thời tiết trong năm mà quá trình sinh trưởng
phát dục trải qua 2 thời kỳ: thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng (khi
gặp điều kiện thuận lợi) và thời kỳ ngủ đông (khi nhiệt độ thấp cây
ngừng sinh trưởng).
Tằm dâu
 Tằm là một loài côn trùng biến thái hoàn toàn vòng đời trải qua 4
giai đoạn phát dục: Trứng, tằm, nhộng (kén), ngài.
 Tằm dâu căn cứ vào số lứa nuôi trong một năm mà người ta phân
ra: tằm độc hệ, tằm lưỡng hệ, tằm đa hệ.
 Sinh tháicủa tằm dâu: thích hợp với nhiệt độ 25-26 °C, 70-85%,
thích ánh sáng mờ đều hoăc tối, cần không khí thông thoáng.
 Các bệnh hại tằm dâu: đó là các bệnh tằm gai, bệnh tằm do virus,
bệnh tằm do vi khuẩn, bệnh tằm vôi, nhặng hại tằm, Bệnh ngộ độc
tằm.
 Để phòng trừ bệnh tằm: cần thiết phải có các biện pháp Phòng trừ
tổng hợp bệnh tằm .
Tơ kén
 Kén tằm là vỏ bọc bên ngoài của nhộng tằm do những sợi tơ tạo
nên từ chất protein trong tằm chín giúp chống đỡ điều kiện ngoại
cảnh và kẻ thù tự nhiên.
Cách đây hàng nghìn năm người ta đã khám phá sản xuất sợi tơ tằm từ
kén tằm: đó là kén tằm bị mềm đi trong nước nóng và các sợi tơ có thể
được kéo ra, sợi to mảnh, chắc dai, và đồng nhất có thể sản xuất ra vải
đẹp và bền.
Kén tằm có phẩm chất tốt không nhất thiết phải có kích thước lớn mà cần
mẩy, nhiều tơ, ít áo kén, dễ kéo tơ và kén phải đồng dạng về hình dạng và
kích thước.
Kén tằm tốt do các yếu tố: giống và chăm sóc khi tằm chín bỏ lên né (mật
độ, nhiệt độ, ẩm độ, thông thoáng, ánh sáng).
Đặc điểm chủ yếu kén ươm: màu sắc, hình dạng kén, kích thước, độ

cứng, nếp nhăn, trọng lượng kén, trọng lượng vỏ và tỷ lệ vỏ.
 Sợi tơ tằm (tơ đơn) là sợi tạo nên kén tằm, nó gồm 2 sợi nhỏ tiết ra
từ cặp tuyến tơ của tằm chín và dán chặt vào nhau, được bao phủ
bởi 1 lớp keo (sericin - có thể biến động từ 28-30% tuỳ theo giống
tằm, nó làm cho sợi to thô ráp và cứng, khi kéo tơ bị người ta tẩy
sạch).
Đặc điểm chủ yếu của tơ: chiều dài tơ đơn và độ mảnh tơ. Sợi tơ có thể
hút ẩm, bị ảnh hưởng bởi nước nóng, axit, bazơ, muối kim loại, chất
nhuộm màu.
Chất lượng sợi tơ được đánh giá theo cấp độ: A, 2A, 3A, 4A, 5A, 6A.
Ngoài ra chất lượng tơ được đánh giá thấp hơn sẽ là: B, C, D, E
Lịch sử đánh giá kiểm nghiệm chất lượng tơ: Năm 1915 cuộc thi về dâu
tằm do hội Dâu tằm Châu Mỹ. Trong các năm 1921 và 1927 hai uỷ ban
kiểm nghiệm tơ được thiết lập ở Trung Quốc và Nhật Bản. Năm 1927-
1928, hai hội nghị quốc tế được tổ chức ở Ycohama, Nhật Bản và New
York Mỹ với các nước tham gia như: Nhật Bản, Trung Quốc, Ý, Pháp và
các nước tiêu thụ nhiều tơ ở Châu Mỹ và Anh thống nhất phương pháp
kiểm nghiệm và xếp loại tơ.
Ở Việt Nam tiêu chuẩn này được áp dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1980.

×