Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Di tích lịch sử chùa Bái Đính - bản đồ Ninh Bình doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.08 KB, 6 trang )

Đại tượng Phật bằng đồng ngoài trời nặng 100 tấn kỷ lục Việt Nam
Hơn 1000 năm về trước, tại Ninh Bình đã có ba triều đại Vua nối tiếp nhau
ra đời: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý. Ba triều đại phong kiến này đều rất
quan tâm đến đạo Phật và coi đạo Phật là Quốc giáo; cho nên tại Ninh Bình có
rất nhiều chùa cổ, trong đó có chùa Bái Đính, trên núi Đính.
Quần thể chùa Bái Đính gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được
xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh
mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư nên nó được xem là
một phần của Cố đô. Kiến trúc hoành tráng, đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc
truyền thống phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt Nam thời nay.
Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng. Chùa Bái Đính
được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á.
[2]
Ngay cả khi đang xây dựng, chùa Bái Đính đã thu hút rất đông du khách về
tham quan, chiêm bái.
[3]
Thông tin về khu chùa và các sự kiện liên tục được
đăng tải trên báo chí với các chủ đề nóng như: Chuyện "không tin nổi" về ngôi
chùa Bái Đính tráng lệ,
[4]
“Hạ Long trên cạn” và ngôi chùa lớn nhất Đông Nam
Á,
[5]
chùa Bái Đính - Ngôi chùa sở hữu nhiều kỷ lục nhất Việt Nam,
[6]
Bái Đính
- “Lục nhất” Việt Nam,
[7]
Để chùa Bái Đính trở thành di sản văn hóa thế giới,
[8]


Chùa Bái Đính, công trình Phật giáo cấp quốc gia của VN,
[9]
Ngôi chùa lớn
nhất Đông Nam Á đang được hoàn thiện,
[10]
Lên núi Bái Đính, xem chùa lớn
nhất nước Nam,
[11]
Lễ rước ngọc xá lợi Phật lớn nhất VN,
[12]
Quốc vương
Campuchia thăm chùa Bái Đính,
[13]
Chùm ảnh chùa Bái Đính tráng lệ,
[14]
Ùn ùn
thăm chùa lớn nhất Đông Nam Á
[15]
, Đầu năm, du khách mê mẩn Chùa Bái
Đính
[16]

Khu Chùa Bái Đính cổ
Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách điện Tam Thế của khu chùa
mới khoảng 800 m về phía đông nam men theo sườn núi Đính. Khu chùa này
nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà tiền
đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao
Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn
rồi đến động tối thờ mẫu và tiên. Nơi đây nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố
nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh,

sinh Thần.
[17]
Năm 1997 chùa được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa - cách
mạng cấp quốc gia. Mặc dù khu chùa có lịch sử hình thành từ thời Đinh với
đền thờ Cao Sơn trấn tây Hoa Lư tứ trấn nhưng chùa Bái Đính cổ có nhiều chi
tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý.
Hang sáng, động tối
Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng
tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là hang sáng
thờ Phật và Thần, bên trái là động tối thờ Mẫu và Tiên. Phía trên cửa hang sáng
có 4 chữ đại tự "Minh Đỉnh Danh Lam" khắc trên đá do Lê Thánh Tông
[18]
ban
tặng có nghĩa là: “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Khi lên vãn cảnh chùa trên
đỉnh Bái Đính, vua Lê Thánh Tông đã tạc một bài thơ tứ tuỵêt chữ Hán được
dịch như sau:
[19]
Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
Che chở kinh thành tự thuở xưa
Nhân kiệt, địa linh nên vượng khí
Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.
Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng
phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối hang sẽ dẫn tới một cửa hang sáng
và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền
thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m
là tới động Tối. Động Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao,
có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền
bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có
hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng.
Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống.

Các vị Tiên được thờ ở nhiều ngách trong động.
Đền thờ thánh Nguyễn
Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là
một thiền sư, pháp sư tài danh được vua phong Quốc sư và nhân dân tôn sùng
gọi là đức thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách quê hương đức thánh
Nguyễn Minh Không 4 km. Tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa
bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra các hang động đẹp liền
dựng chùa thờ phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân.
Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào
núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.
Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà
Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm
thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu
tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn
minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo,
để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng
tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của
ông thể hiện nên cái không khí của Phật Giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự
hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và
phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc,
mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.
Đền thờ thần Cao Sơn
Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây xưa
là đền thờ thần Cao Sơn, vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm. Đinh Bộ Lĩnh từ
thưở còn hàn vi đã được mẹ đưa vào sống cạnh đền sơn thần trong động. Khi
Đinh Tiên Hoàng Đế dựng kinh đô Hoa Lư cũng cho xây dựng 3 ngôi đền để
thờ các vị thần trấn giữ ở 3 vòng thành mà dân gian gọi là Hoa Lư tứ trấn. Theo
đó, thần Thiên Tôn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Đông, thần Quý
Minh trấn giữ cửa ngõ vào thành Nam và thần Cao Sơn trấn giữ cửa ngõ vào
vòng thành phía Tây. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc

gần giống với đền Thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang
ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là
một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở
Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình). Vị thần này có công phù trợ quân Lê
Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ
và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong
Thăng Long tứ trấn.
Theo như thần phả của đền núi Hầu (xã Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình)
thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân,
khi đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây
thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang
lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã
dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế
lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ
[20]
. Thần Cao Sơn cùng với
thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây,
đông và nam của cố đô Hoa Lư.
Giếng ngọc
Giếng ngọc của chùa Bái Đính cổ nằm gần chân núi Bái Đính. Tương
truyền đây là nơi thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy nước để sắc thuốc chữa
bệnh cho dân và chữa bệnh cho Vua Lý Thần Tông. Giếng xây lại hình mặt
nguyệt, rất rộng, có đường kính 30 m, độ sâu của nước là 6 m, không bao giờ
cạn nước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông,
có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam
đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam”, ngày
12 tháng 12 năm 2007.
Sự kiện lịch sử
Tên gọi chùa Bái Đính mang ý nghĩa là hướng về núi Đính, nơi diễn ra các
sự kiện oai hùng trong lịch sử Việt Nam. Núi chùa Bái Đính chính là nơi Đinh

Tiên Hoàng Đế lập đàn tế trời cầu mưa thuận gió hòa, sau này tiếp tục được
vua Quang Trung chọn để làm lễ tế cờ động viên quân sĩ trước khi ra Thăng
Long đại phá quân Thanh.
[21][22]
Thế kỷ XVI núi Đính là địa bàn tranh chấp giữa
2 tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh với nhà Mạc, khi mà chính quyền nhà Mạc
chỉ kiểm soát được vùng lãnh thổ từ Ninh Bình trở ra. Núi chùa Bái Đính cũng
là một di tích cách mạng thuộc chiến khu Quỳnh Lưu, nơi lãnh đạo Đảng tuyên
truyền cách mạng tới nhân dân.
Chủ trì thiết kế kiến trúc chùa Bái Đính là Giáo sư, Kiến trúc sư Hoàng
Đạo Kính - Phó Chủ tịch Hội kiến trúc sư Việt Nam, nguyên Giám đốc Trung
tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương (Viện Bảo tồn di tích Việt Nam).
[23]

Chùa Bái Đính mới (Bái Đính tân tự) có diện tích rộng 80 ha, nằm phía bên kia
núi so với chùa cổ và ở phía tây cố đô Hoa Lư. Đây là một công trình lớn gồm
nhiều hạng mục, kiến trúc chính: điện Tam Thế, điện Pháp Chủ, điện Quan
Âm, Bảo Tháp, Tháp Chuông và các công trình hạ tầng, phụ trợ, khu học viện
phật giáo, khu đón tiếp được xây dựng trong nhiều giai đoạn khác nhau.
Kiến trúc chùa nổi bật với những hình khối lớn, hoành tráng mang đậm
dấu ấn kiến trúc Việt Nam như sử dụng nguyên vật liệu chính ở địa phương (đá
xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm Điều khác
biệt nhất ở kiến trúc chùa Bái Đính thể hiện ở vòm mái màu nâu sẫm cong vút
hình đuôi chim phượng, nó không giống với nét thẳng thô của chùa Trung
Quốc. Các chi tiết trang chí kiến trúc chùa cũng mang đậm dấu ấn của các làng
nghề truyền thống nổi tiếng ở Việt Nam. Chùa Bái Đính khi xây dựng được gọi
là "đại công trường" với 500 nghệ nhân
[24]
gồm rất nhiều tổ thợ đến từ những
làng nghề nổi tiếng như mộc Phú Lộc, trạm khắc đá Ninh Vân, đúc đồng Ý

Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng các nghệ nhân này được sử dụng
các vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Bình, ngói men Bát Tràng
để tạo ra nét thuần Việt trong kiến trúc chùa Bái Đính.
Điều đặc biệt ở công trường xây dựng chùa Bái Đính là không gian nơi
đây luôn mở. Ngay từ khi xây dựng với đại tượng phật còn đặt ở ngoài trời đã
thu hút rất đông các đoàn người hành hương chiêm bái. Du khách có thể đi bất
cứ nơi nào để quan sát các bộ phận công trình đang hình thành.
Đặc điểm kiến trúc
Về vật liệu, hệ thống cột và kèo ở cổng Tam Quan, hành lang La Hán và
điện Quan Âm được làm bằng gỗ tứ thiết, các công trình lớn hơn làm bê tông
giả gỗ. Tất cả các mái sử dụng ngói men Bát Tràng, kiến trúc ba tầng mái cong
vút hình đuôi của chim phượng.
Về bố cục các kiến trúc chính như cổng Tam Quan, tháp chuông, điện
Quan Âm, điệp Pháp Chủ, điện Tam Thế lần lượt có chiều cao đỉnh mái là 16.5
m, 22 m, 14.8 m, 30 m, 34 m với diện tích bên trong là 560 m², 225 m², 730 m²,
2060 m² và 2370 m².
Về các đối tượng suy tôn, cổng Tam Quan với hai tượng Hộ pháp (ông
thiện và ông ác) bằng đồng cao 5.5 m, nặng 12 tấn và 8 pho tượng Kim Cương.
Hành lang La Hán gồm 234 gian nối liền với hai đầu Tam Quan, có chiều dài
1052 m và chiều cao sàn nâng dần theo độ dốc của sườn đồi là nơi bố trí 500
tượng La Hán bằng đá xanh Ninh Bình nguyên khối cao tới 2.5 m, nặng
khoảng 4 tấn. Mỗi vị La Hán có một dáng vẻ khác nhau để miêu tả sự sống trần
thế. Tháp chuông có 3 tầng mái, mỗi tầng mái có 8 mái ghép lại, tổng cộng là
24 mái với 24 đầu đao cong vút lên, bên trong treo một quả chuông nặng 36 tấn
được cấp bằng xác nhận kỷ lục: “Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam". Phía
dưới quả chuông đồng này là một chiếc trống đồng lớn nặng 70 tấn nằm trên
nền tháp chuông, và tiếng chuông của chùa Bái Đính vang xa đến đâu thể hiện
sử phổ độ của Phật lên chúng sinh đến đó. Các điện chính là nơi thờ Phật. Điện
Quan Âm gồm 7 gian với gian giữa của điện đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát
nghìn tay nghìn mắt để thể hiện sự bao quát cứu vớt và phổ độ chúng sinh của

Phật bà trên thế gian. Tượng Phật bà được đúc bằng đồng nặng 80 tấn, cao 9.57
m được công nhận là pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng lớn nhất ở
Việt Nam. Điện Pháp Chủ có 5 gian, gian giữa đặt pho tượng Phật Pháp Chủ
bằng đồng cao 10 m, nặng 100 tấn. Được xác nhận kỷ lục ”Pho tượng Phật
Thích Ca bằng đồng lớn nhất Việt Nam”. Trong điện còn treo 3 bức hoành phi
và 3 cửa võng lớn nhất Việt Nam. Điện Tam Thế tọa lạc ở trên đồi cao so với
mặt nước biển là 76 m, dài 59.1 m, rộng hơn 40 m. Trong điện Tam Thế đặt 3
pho tượng Tam Thế Phật (quá khứ, hiện tại và tương lai) bằng đồng cao 7.2 m,
nặng 50 tấn. Được xác nhận kỷ lục: “Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng
đồng lớn nhất Việt Nam”.
Những kỷ lục
Chùa Bái Đính được báo giới ca ngợi là một ngôi chùa nổi tiếng với những kỷ
lục. Tính đến ngày 6/6/2009 ngôi chùa này đã có 6 kỷ lục được công nhận.
Những kỷ lục của chùa Bái Đính
[25][26]
được xác lập gồm:
1.
Tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á: tượng Phật Tổ 100 tấn
trong điện Pháp Chủ.
[27]
2.
Chuông đồng lớn nhất Việt Nam: Đại hồng chung nặng 36 tấn trong
Tháp Chuông.
3.
Khu chùa rộng nhất Việt Nam: tổng 539 ha (riêng chùa cổ 27 ha, chùa
mới 80 ha)
[28][29]
.
4.
Khu chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam: 500 vị bằng đá xanh

cao khoảng 2m.
5.
Khu chùa có giếng ngọc lớn nhất Việt Nam.
6.
Khu chùa có số cây bồ đề nhiều nhất Việt Nam: 100 cây bồ đề được chiết
từ cây bồ đề Ấn Độ
[30][31]
.

×