Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Động vật không xương sống ( phần 7 ) Đặc điểm chung của động vật da gai pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.86 KB, 5 trang )

Động vật không xương sống ( phần 7 )
Đặc điểm chung của động vật da gai
Đối xứng cơ thể: Cơ thể động vật da gai trưởng thành và ấu trùng khác
nhau về đối xứng, ấu trùng có đối xứng 2 bên còn trưởng thành
có đối xứng toả tròn, thường là bậc 5. Định hướng cơ thể không phải
là “đầu - đuôi” mà là “cực miệng - cực đối miệng” nằm trên trục đối
xứng.
Cũng từ sai khác nhau về kiểu đối xứng giữa trưởng thành và ấu trùng mà
thấy được sự đối xứng toả tròn của trưởng thành chỉ là biến đổi thứ sinh
bắt nguồn từ đối xứng hai bên của tổ tiên. Tính chất đối xứng toả tròn của
động vật da gai trưởng thành thể hiện ở cấu tạo ngoài và sự sắp xếp của
các nội quan. Các tấm xương, các gai, hệ chân ống trên bề mặt cơ thể
được sắp xếp thành 10 vùng dạng múi (ở các lớp Cầu gai, Hải sâm) hay
dạng cánh (ở các lớp Sao biển, Đuôi rắn), trục đối xứng đi qua lỗ miệng,
10 vùng này được chia thành 5 vùng phóng xạ (radius) có chứa chân ống
nên được gọi là vùng chân ống (ambulacral zones) và 5 vùng gian phóng
xạ (interradius zones) không chứa chân ống nên được gọi là vùng gian
chân ống (interrambulacral zones). Ở tư thế bình thường, trục cơ thể theo
hướng thẳng đứng, lỗ miệng nằm ở phía dưới, hậu môn nằm phía
trên hay ngược lại. Ở lớp Hải sâm là một trường ngoại lệ, trục cơ thể
nằm ngang.
Thành cơ thể cấu tạo bởi 3 lớp:
Lớp tế bào biểu mô ngoài cấu tạo một tầng, có tiêm mao vận động để tạo
nên dòng nước đưa thức ăn và ô xy cung cấp cho cơ thể và thải chất cặn
bã ra ngoài. Trong lớp biểu mô này còn có các tế bào tuyến tiết chất nhầy,
chất dính, chất độc hay chất phát sáng.
Lớp mô liên kết tạo thành 3 tầng khác nhau là tầng cơ trong cùng, tầng
mô liên kết ở giữa và tầng biểu mô có bộ xương giáp với biểu mô ngoài.
Về nguồn gốc thì bộ xương được hình thành từ lá phôi giữa, do các tế bào
mô liên kết lấy CaCO
3


từ nước biển, lúc đầu tạo thành các hạt nhỏ, dần
dần liên kết lại thành tấm xương hay mảnh xương nâng đỡ các chân ống.
Như vậy bộ xương của động vật da gai khác hẳn với bộ xương của thân
mềm và chân khớp về nguồn gốc.
Lớp biểu mô thành thể xoang gồm các tế bào biểu mô có tiêm mao.
Xoang cơ thể thứ sinh (thể xoang) phát triển tùy theo nhóm. Ở huệ biển
thì thể xoang bị mô liên kết phát triển lấp đầy, ở đuôi rắn thể xoang bị thu
hẹp lại, còn ở cầu gai và sao biển và các nhóm khác thì rất phát triển.
Dịch thể xoang bao quanh nội quan, có thành phần rất giống với nước
biển. Ngoài ra có nhiều protein, tế bào thực bào và các tế bào sắc tố.
Chức phận của thể xoang là vận chuyển chất dinh dưỡng và chất bã Mặt
khác, thể xoang có sự phân hoá về cấu tạo, đảm nhận các chức phận khác
nhau, gồm hệ ống dẫn nước - hệ chân ống, hệ tuần hoàn (hệ xoang máu
giả) và phức hệ cơ quan trụ.

Hệ thống ống dẫn nước của động vật da gai là một cấu tạo đặc trưng,
chúng được bắt nguồn gốc từ túi thể xoang của ấu trùng. Hệ thống ống
dẫn này lấy nước từ môi trường ngoài thông qua tấm sàng (madreporit) là
cơ quan lọc nước nằm ở cực đối miệng. Hệ thống ống dẫn nước gồm có
ống dẫn nước vòng quanh hầu, từ đó toả ra các ống dẫn nước phóng xạ.
Dọc theo ống phóng xạ, về phía 2 bên có các cặp ampun thông với chân
ống ở phía dưới. Ampun ở một số nhóm còn hoạt động như giác quan hoá
học và tham gia bắt mồi. Chân ống được các tấm xương nâng đỡ tạo
thành 2 dãy chân ống dưới mỗi cánh tay (sao biển), có thành mỏng,
không có cơ vòng mà chỉ có cơ dọc, chúng duỗi ra nhờ ampun dồn
nước vào, do có van một chiều không cho nước dồn trở lại ống phóng
xạ. Số lượng chân ống có thể tới 2.000 cái, chúng hoạt động phối hợp với
nhau khi di chuyển nhờ điều chỉnh áp lực trong hệ ống dẫn nước. Sức
bám của chân ống lên nền cứng một phần nhờ tương tác ion, phần khác
nhờ hoạt động của tế bào tuyến kép như đã gặp ở giun giẹp. Nước từ tấm

sàng đến ống nước vòng qua ống đá vì có thành cứng, được gia cố bằng
các gai đá vôi. Ngoài ra trên các ống dẫn nước vòng có túi pôli và thể
tideman dự trữ nước. Ngoài ra thể tideman còn lọc nước để tạo ra dịch thể
xoang và thải chất bài tiết. Ngoài ra chân ống còn là nơi trao đổi khí.
Đặc điểm phát triển, sinh học và sinh thái của Hàm tơ
Hàm tơ phát triển trực tiếp. Đặc điểm nổi bật là hình thành lỗ miệng ở
phía đối diện miệng phôi và lá phôi giữa được hình thành theo kiểu lõm
ruột. Hai đôi túi thể xoang (đầu và thân) được hình thành trước, về sau
mới hình thành xoang cơ thể ở phần đuôi.

Hàm tơ sống ở biển, ăn động vật nổi cỡ bé, là thành phần quan trọng
trong hệ sinh vật nổi ở biển, là thức ăn của cá ăn nổi. Đại diện có giống
Sagitta. Ở Việt Nam có khoảng 13 loài, phổ biến là Sagitta enfillata.
Mặc dù phát triển phôi của động vật Hàm tơ gần với động vật Có miệng
thứ sinh, tuy nhiên chúng có một số sai khác quan trọng như chỉ hình
thành 2 đôi túi thể xoang phía trước, sau đó mới hình thành thể xoang
đuôi, sai khác về hình thái phần đầu, biểu mô nhiều tầng đã tách động
vật hàm tơ ra khỏi động vật Có miệng thứ sinh khác, tạo thành một
nhánh phát triển độc lập có nguồn gốc và vị trí chưa rõ ràng.
Đặc điểm chung về cấu tạo, sinh lý Ngành Hàm

Là ngành động vật chỉ có ít loài (có khoảng 9 giống và 90 loài đã biết), có
kích thước nhỏ (khoảng 0,5 - 14 cm). Hoá thạch có từ kỷ Cambri. Cấu tạo
cơ thể sai khác với tất cả các nhóm động vật khác.
Các đặc điểm chính là :
1 - Cơ thể đối xứng 2 bên, 3 lá phôi nhưng không phân đốt;
2 - Thân mảnh có vây bên;
3 - Ống tiêu hoá phát triển đầy đủ, hậu môn ở mặt bụng;
4 - Thể xoang phát triển chia làm 3 ngăn;
5- Không có hệ tuần hoàn, hô hấp, cơ quan bài tiết;

6 - Hệ thần kinh có mạch lưng và hạch bụng cùng với cơ quan cảm giác;
7 - Lưỡng tính, phát triển trực tiếp.
Hầu hết sống ở nổi biển, chỉ có một số ít loài thuộc giống Spedella sống
đáy, độ sâu tới 1.500m. Chỉ có một lớp là Hàm tơ.
Đặc điểm chung về cấu tạo và sinh lý :
Cơ thể dẹp hình lá, dài, chia làm 3 phần là đầu, thân và đuôi. Phần đầu có
nếp da gấp bao 2 bên và phía lưng và 2 túm tơ (hàm) bắt mồi hình móc ở
hai bên miệng.
Phần thân có thành cơ thể có lớp cunticun mỏng, lớp biểu mô nhiều tầng,
bên trong có lớp cơ dọc (kiểu cơ vân) chia làm 4 dải (2 dải lưng và 2 dải
bụng). Trong cùng là thể xoang phát triển có màng ngăn ngang chia
thể xoang thành 3 phần trước, giữa và sau, có màng ngăn dọc chia thể
xoang thành 2 nửa trái phải. Phần thân có 1 hay 2 đôi vây bên, một đôi ở
khoảng giữa, còn một đôi ở cuối. Ruột là một ống thẳng từ lỗ miệng phía
trước tới hậu môn ở phía sau. Hệ thần kinh phát triển gồm có hạch não,
khối hạch bụng, hai phần này nối với nhau bằng nhánh nối dài. Từ hạch
bụng có các dây thần kinh đi tới thành cơ thể. Cơ quan cảm giác có mắt
phát triển và cơ quan khứu giác nằm ở phần đầu và một số lông xúc giác
ở phần thân. Không có hệ tuần hoàn, hô hấp và bài tiết. Hệ sinh dục
lưỡng tính. Tuyến sinh dục cái nằm ở cuối thân, tuyến sinh dục đực nằm
ở cuối phần thân. Lỗ sinh dục đổ ra phía cuối cơ thể. Sự sinh sản xảy ra
quanh năm, thụ tinh trong.
Phần đuôi có vây đuôi xoè khá rộng làm nhiệm vụ bánh lái khi con vật
bơi trong nước.

Thảo Dương

×