1
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mất răng vĩnh viễn là tổn thương rất thường gặp. Mất răng ảnh hưởng
đến chức năng, thẩm mỹ và tâm lý của người bệnh. Để phục hình lại răng
mất, nhiều phương pháp phục hình như hàm giả tháo lắp, cầu dán, cầu chụp,
Tuy nhiên, các phương pháp kinh điển này có nhiều nhược điểm, nhất là phải
lệ thuộc vào răng bên cạnh, nhiều trường hợp làm tổn thương răng bên cạnh,
hiệu quả điều trị kém Để khắc phục các nhược điểm trên, phương pháp cấy
ghép nha khoa (Dental Implant) có nhiều ưu điểm hơn, không ảnh hưởng
đến răng bên cạnh và có tỷ lệ thành công cao. Tuy nhiên, việc cấy Implant nha
khoa đòi hỏi những điều kiện nhất định, nhất là cần phải đủ khối lượng xương tại
chỗ ở vùng sống hàm để lưu giữ trụ ghép. Có điều, hầu hết các trường hợp sau
khi nhổ xương ổ răng sẽ tiêu dần dễ làm thiếu xương vùng răng mất. Đây là
thách thức rất lớn và thường gặp của các nhà lâm sàng khi cấy ghép nha khoa.
Trong những trường hợp này, việc đánh giá tình trạng tiêu xương vùng sống hàm
và chọn chỉ định cấy Implant như thế nào cho phù hợp? Đặc biệt ở nước ta chưa
có công trình nghiên cứu cụ thể nào đánh giá tình trạng thiếu xương ở vùng răng
mất và ứng dụng cấy ghép Implant ở những trường hợp này.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài“ Nghiên cứu kỹ thuật cấy
Implant trên bệnh nhân mất răng có ghép xương”
2. Mục tiêu của đề tài:
- Nhận xét đặc điểm lâm sàng, X quang vùng răng mất.
- Chọn chỉ định ghép xương - cấy trụ cho từng loại tổn thương.
- Đánh giá kết quả sau cấy ghép trụ răng có ghép xương.
3. Những đóng góp mới của đề tài
- Đề tài là một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, đặc biệt đối tượng nghiên
cứu là những trường hợp mất răng có thiếu xương cần phải phục hình răng
giả. Đây là những thách thức thường gặp mà nhiều người e ngại khi phục
hình Implant. Có lẽ đó là lý do mà cho đến nay ở Việt nam vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu ghép xương dị loại trong cấy Implant nha khoa.
Kết quả này khẳng định tính khoa học và sự cấp thiết đề tài.
- Luận án nêu được một số đặc điểm lâm sàng và X quang vùng răng mất
có thiếu xương ở người Việt nam.
- Đề xuất được chỉ định ghép xương và cấy trụ cho từng loại tổn thương.
- Một số cải tiến kỹ thuật: dùng trụ nối cải tiến để thay thế trụ phục hình,
dùng xương thừa khi khoan xương phối hợp xương dị loại làm tăng khả
năng lành thương của xương ghép và giảm giá thành điều trị; Ứng dụng các
phương tiện chẩn đoán hiện đại và kỹ thuật hỗ trợ như máy chụp phim 3D
Cone beam, máng hướng dẫn phẫu thuật, cải tiến kỹ thuật lắp cầu răng trên
trụ Implant nhằm tăng độ chính xác, đơn giản hóa qui trình điều trị và rút
ngắn thời gian phục hình.
3
4. Bố cục của luận án
Luận án dài 121 trang, gồm 4 chương và 2 phần; Trong đó, Đặt vấn đề 2
trang, Tổng quan 34 trang, Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 21 trang,
Kết quả 27 trang, Bàn luận 34 trang, Kết luận và kiến nghị 3 trang. Luận án
có 27 bảng, 7 biểu đồ, 35 hình và 145 tài liệu tham khảo.
Chương 1 :TỔNG QUAN
1.1. Một số đặc điểm giải phẫu, sinh lý vùng hàm mặt liên quan đến
việc cấy Implant cho vùng răng mất có thiếu xương
1.1.1. Xoang hàm trên: màng xoang dễ bóc tách để ghép xương đáy xoang.
1.1.2. Giải phẫu bó mạch, thần kinh răng dưới: quyết định chiều cao xương
1.1.3. Vùng quanh răng: là mô đệm quanh chân răng, hạn chế sang chấn.
1.1.4. Giải phẫu, sinh lý quanh Implant: Implant liên kết trực tiếp với xương
1.2. Quá trình lành thương của ổ răng sau nhổ
1.2.1. Quá trình liền thương xương ổ răng sau khi nhổ
1.2.2. Những hiện tượng quan trọng trong quá trình liền thương ổ răng
1.3. Những thay đổi hình thái của xương hàm sau khi mất răng
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu xương sống hàm
1.3.2. Diễn biến quá trình tiêu xương hàm
1.3.3. Sự thay đổi trong tương quan hai hàm
1.4. Quá trình tích hợp xương sau khi cấy ghép
1.4.1. Sự tương quan sinh học của vật liệu ghép
1.4.2. Sự đáp ứng của mô đối với vật liệu làm implant
1.4.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thích hợp xương
1.5. Cấu tạo xương hàm, phân loại xương và cơ chế lành thương
1.5.1. Cấu tạo xương hàm và phân loại xương ghép
1.5.1.1. Cấu tạo xương
1.5.1.2. Các dạng xương ghép
* Xương tự thân (Autografts): được lấy từ chính bệnh nhân. Đây là dạng
xương duy nhất tham gia cả ba quá trình tạo xương, nhất là có quá trình
sinh xương nên có nhiều ưu điểm: lành xương nhanh, tái tạo tổ chức toàn
diện, chịu lực sớm, ít tiêu xương, cho khối lượng lớn, Tuy nhiên, xương
tự thân dễ bị nhiễm trùng khi ghép trong khoang miệng, biến chứng nơi lấy
xương, cần hai kíp phẫu thuật nếu lấy xương ngoài khoang miệng, tâm lý
bệnh nhân lo lắng, thời gian phẫu thuật và hậu phẫu dài
* Xương đồng loại (Allografts): được lấy từ xương tử thi người khác, loại
bỏ các yếu tố miễn dịch kháng nguyên, được lưu giữ dưới các dạng: đông
khô (Freeze - dried), quang đông (Frozen), đông khô khử khoáng (DFDBA)
đông khô không khử khoáng MFDBA, xử lý bằng tia xạ (Irradiated bone)
4
Xương đồng loại có sẵn, giảm thời gian phẫu thuật, Tuy nhiên, xương
đồng loại chỉ có quá trình qui tụ xương ghép, không có quá trình sinh
xương nên thời gian lành thương dài, xương ghép tiêu nhiều sau khi ghép,
giá thành cao, nguy cơ lây nhiễm một số bệnh truyền nhiễm HBsAg, HIV
* Xương dị loại (Xenografts): được chiết xuất từ phần vô cơ của xương
động vật, tổ chức vô cơ trong tự nhiên và vật liệu trùng hợp nhân tạo HTR.
Xương dị loại là chất liệu có sẵn, thời gian mổ ngắn, ít đàn hồi, chịu lực nén
tốt, dạng hạt nhỏ xốp nên dễ lèn; đa dạng về kết cấu, kích thước và hình
dạng: hạt nhỏ, tinh thể hoặc nhiều hình dạng khác nên thuận lợi cho ghép
xương trong cấy Implant.Tuy nhiên, xương dị loại có nhược điểm là không
có quá trình sinh xương, thời gian tích hợp xương dài, giá thành cao
1.5.2. Đặc điểm xương dị loại:
Cơ chế lành thương của xương dị loại là tạo bộ khung vô cơ để các tế bào
xương từ nền nhận và vùng lân cận di chuyển vào tổ chức xương ghép.
Về nguồn gốc, chất liệu này có thể lấy từ phần vô cơ của xương động vật,
dạng phổ biến là BiO - Oss; từ vật liệu vô cơ trong tự nhiên như sứ Calcium
phosphate (Hydroxyapatite), Tricalcium phosphase (TCP), Calcium
carbonate (Coralline), thuỷ tinh sinh học (Bioceranic ) hoặc vật liệu trùng
hợp nhân tạo HTR (Hard Tissue Replaement Polyme).
Về cấu trúc hóa học, người ta chia ra xương kết tinh và không kết tinh.
Trên lâm sàng, người ta chủ yếu dựa vào đặc điểm hình thái:
- Dạng đặc: cho khối lượng lớn, giòn dễ vỡ, khó tạo hình,
- Dạng hạt lớn (> 420 μm): tạo khung sườn tốt để phát triển các vi mạch và
các tế bào xương phát triển nhưng chịu lực kém, tiêu xương nhanh
- Dạng hạt trung bình (250 - 420 μm): thuận lợi cho tế bào xương phát
triển, chịu lực tốt hơn, dễ phát triển các vi mạch,
- Dạng hạt nhỏ (< 250 μm): dễ nén ép, chịu lực tốt, thay thế xương chậm,
khó phát triển vi mạch,
Một số dạng xương dị loại thường dùng:
* BiO - Oss: là dạng dùng phổ biến trong cấy ghép Implant, được chiết
xuất từ phần vô cơ của xương bò non. Đây là xương dị loại dạng hạt có sẵn,
dễ tích hợp với bề mặt Implant, dễ lèn vào các ngách nhỏ, chịu lực nén tốt,
ít đàn hồi. Dạng xương này đa dạng về kết cấu, nhiều kích thước hạt, được
loại bỏ phần hữu cơ nên ít có phản ứng miễn dịch,
* PepGen P - 15: cũng được chế tạo từ xương bò, có chuỗi peptide ngắn,
có thêm thành phần Carboxy methyl cellulo, Glycerol, nhằm làm tăng khả
năng tái tạo xương. Dạng thường dùng có dạng dịch đặc (PepGen P - 15
flow) dễ lèn vào các ngóc ngách nhưng tiêu xương nhanh, chịu lực kém, giá
thành cao, nên không được sử dụng nhiều trong cấy Implant.
5
* Cerasorb: thành phần chủ yếu là Hydroxyapatite, dạng hạt nhỏ có kích
thước 10 - 63 μm, độ xốp cao, chịu lực tốt, thay thế xương 3 - 24 tháng, phù
hợp cho ghép xương ổ răng.
* Coralline: là vật liệu sứ nhân tạo, thành phần chủ yếu là Calcium
carbonate, dạng hạt nhỏ khoảng 200 μm, cốt hóa tốt, phù hợp cho ghép
vùng ổ răng và cấy Implant vùng răng hàm.
* Osteogen: là chất liệu sinh học tổng hợp tự tiêu SBRG (synthetic
bioactive resorbable graft) không có thành phần sứ, kích thước 300 - 400
μm, tiêu xương 4 - 6 tháng. Chất liệu này phù hợp cho điều trị biến chứng
tiêu xương quanh răng và quanh Implant.
* C - Graft (calcified algae): là sứ tổng hợp có thành phần chính là Calcium
phosphat, cấu trúc dạng hạt kết tinh 200 - 300 μm, có khả năng tạo hướng
động nguyên bào xương, thay thế xương chậm 2 - 3 năm.
* Bioglass: là sứ thủy tinh sinh học không kết tinh. Thành phần chính là
phức hợp muối Calcium và Phosphate, dễ liên kết với Collagen nên dung
nạp tốt với tổ chức nền nhận, giúp quá trình di chuyển tế bào xương từ nền
nhận vào xương ghép, khả năng thay thế xương chậm.
* HTR (Hard tissue replacement polyme): là chất liệu tổng hợp thay thế tổ
chức cứng, dạng hạt nhỏ có bề mặt là lớp Calcium phosphate, thay thế
xương chậm 4 - 5 năm, sinh xương kém nên cần phải phối hợp với các chất
liệu xương khác, chủ yếu là chỉ định lấp đầy các ổ răng sau nhổ.
* Các chất liệu tổng hợp tự tiêu khác ( PerioGlass, BioGan, ): là tổ chức
phức hợp muối Canxi, phosphate, Silicone và Sodium dạng hạt kích thước
90 - 710 μm, có khả năng liên kết tốt với nền nhận, có khả năng sinh xương,
chỉ định là cầm máu các tổn thương bên trong xương.
Nhìn chung, những chất liệu có nguồn gốc từ xương thường được sử dụng,
những chất liệu nhân tạo giá thành cao, hiệu quả ít, nên ít được sử dụng.
1.5.3. Cơ chế lành thương của xương ghép
Quá trình lành thương của xương ghép xảy ra đồng thời hai quá trình là
hủy xương và sinh xương. Hai quá trình này đối lập nhau nhưng hỗ trợ và
chuyển hóa cho nhau trong quá trình tái tạo xương. Hai quá trình này hoạt
động nhờ hệ thống tế bào: nguyên bào xương (Osteoblasts), tế bào xương
(Osteocytes), hủy cốt bào (Osteoclasts) và tế bào liên kết xương (Bone -
lining cells). Qúa trình này chịu sự chi phối của các hormon PTH
(Parathyroid hormon) và CT (Calcitonin), vitamin D, các yếu tố tăng
trưởng, độ PH, môi trường xung quanh, Sự lành thương của xương ghép
nhờ ba cơ chế là sinh xương (Osteogenesis), quy tụ xương Osteoinduction)
và di chuyển xương (Osteoconduction). Mỗi một loại xương ghép có cơ chế
lành thương riêng. Tuy nhiên, quá trình tái tạo xương cần ít nhất một trong
ba cơ chế trên.
6
Sinh xương chỉ có ở xương tự thân ghép tự do. Đây là tiêu chuẩn “vàng”
để xương ghép được thay thế và hoàn thiện thành tổ chức xương hoàn
chỉnh. Bản thân xương tự thân có các tế bào tăng trưởng xương
(Osteogenetic cells) tạo chất nền xương, các yếu tố hoạt hóa như RUNX2,
Osterix, kích thích tế bào xương từ nền nhận phát triển vào xương ghép;
Cơ chế này khác ghép xương tự thân có nối mạch là xương ghép có cấu trúc
xương đã hoàn chỉnh và quá trình lành thương là sự liên kết trực tiếp của
xương ghép với xương nền nhận theo cơ chế liền xương như gãy xương.
Qui tụ xương (Osteoinduction): chỉ có trong ghép xương tự thân và
xương đồng loại. Tổ chức xương ghép có các yếu tố hóa ứng động (BMPs,
MDAF, IGF, ) tạo sự kích thích sinh xương từ nền nhận, thâm nhập các tế
bào xương vùng lân cận vào xương ghép để tái phục hồi xương sau ghép.
Di chuyển xương (Osteoconduction): thường gặp trong ghép xương dị
loại, một phần trong ghép xương tự thân và xương đồng loại. Tổ chức
xương ghép đã loại bỏ các yếu tố hữu cơ nên không có khả năng sinh
xương, chỉ giữ lại phần vô cơ tạo khung sườn để tế bào xương, tế bào trung
mô biệt hoá (Differentiated mesenchymal cells) từ nền nhận phát triển vào.
Hơn nữa, trong xương còn có phức hợp Carbonate, Fluoride, các peptide,
các protein tạo hình thái xương BMPs (Bone Morphogenetic Proteins), yếu
tố tái lập tuần hoàn (MDAF -Macrophage Deangiogenesis Factor), yếu tố
thúc đẩy quá trình tăng trưởng (MDGF - Macrophage - Devided Growth
Factor), yếu tố tăng trưởng giàu tiểu cầu (PDGF - Platelet Devived Growth
Factor), yếu tố kích thích tăng trưởng giống insuline tạo trung mô (IGF-
Insulin - like Growth Factor), Những yếu tố này góp phần đáng kể cho
quá trình lành thương và hoàn thiện của xương ghép.
Ngoài ra để tránh sự thâm nhập giữa xương và phần mềm, người ta còn
dùng chất liệu định hướng tái tạo xương GBR (Guied Bone Regeration)
dưới dạng màng sinh học tiêu chậm e - PTFE (Expande Polytetrafluore
Etylene Regeration) hoặc không tiêu có tác dụng ngăn cản sự xâm lấn giữa
xương và phần mềm, tạo sự định hướng để tăng quá trình tái tạo xương.
1.6. Lịch sử quá trình ứng dụng của Implant nha khoa:
Implant nha khoa được phát hiện từ thời cổ đại. Năm 600 sau Công
nguyên, phát hiện ba Implant ở hàm dưới của người phụ nữ Maya 20 tuổi
tại Honduras. Năm 1913, Greenfield đã dùng Iridium, vàng chế tạo Implant
dạng giỏ và Adams chế tạo Implant hình trụ chóp tròn (1937). Sau đó,
Stock chế tạo Implant trong xương (1938), Goldberg và Gershkoff chế tạo
Implant dưới màng xương (1943) và Linkon và Robert dùng Implant dạng
bản (1967).
Mãi đến những năm đầu của thập kỷ 1960, Bränemark đã đưa ra những
giả thuyết đầu tiên về sự tích hợp xương. Ban đầu, những giả thuyết này
7
chưa được công nhận nhưng đây là chìa khóa mở ra kỷ nguyên mới cho sự
thành công của cấy Implant. Sau đó, những minh chứng của ông và những
nghiên cứu độc lập của Schroeder (năm 1976, 1978, 1981) khẳng định có
sự tích hợp xương của trụ Implant bằng Titanium. Đây là nền tảng cho sự
phát triển bền vững của Implant. Năm 1978, Bränemark giới thiệu Implant
dạng chân răng trong xương. Đây là dạng Implant được sử dụng phổ biến
đến ngày nay. Năm 1981, Albreklson đã xác định sáu yếu tố cần thiết cho
tích hợp xương và sự lành thương của xương ghép quanh Implant. Sau này,
Donald(1992), Johanson(1991), Gottlander (1994), Wennerberg (1996)…đã
nghiên cứu chi tiết về vi thể thiết kế bề mặt của trụ ghép, sự liên kết trụ với
các chất liệu xương ghép. Ở Việt Nam, Implant đầu tiên được thực hiện tại
Viện Răng Hàm Mặt Quốc gia năm 1995 và Viện Răng Hàm Mặt TPHCM
năm 1999. Sau đó, các công trình nghiên cứu cấy Implant nha khoa của
nhiều tác giả ở nhiều cơ sở Răng hàm mặt đã được công bố. Tuy nhiên, các
công trình này chỉ đánh giá cấy Implant ở vùng mất răng đủ xương để cấy
ghép, chưa có công trình nghiên cứu cụ thể cấy Implant cần phải ghép
xương. Có lẽ, thiếu xương vùng răng mất là một trong những khó khăn cho
việc cấy Implant nha khoa mà ít cơ sở Răng Hàm Mặt ở nước ta ứng dụng.
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 56 bệnh nhân mất 118 răng vĩnh viễn được cấy 116 trụ Implant nha
khoa có kèm ghép xương dị loại dạng hạt (BiO - Oss) cùng một thì phẫu
thuật hoặc cấy trụ Implant thì hai sau khi ghép xương ổn định.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Tuổi từ 17 tuổi trở lên, mất răng vĩnh viễn, đủ sức khoẻ để phẫu thuật.
- Có chiều cao xương ứng dụng vùng sống hàm dưới 10 mm, chiều rộng
dưới 6 mm hoặc thiếu phối hợp cả chiều cao và chiều rộng xương.
- Chiều gần - xa và chiều cao khoảng mất răng tối thiểu 6 mm.
- Có nguyện vọng cấy ghép nha khoa và tự nguyện tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Một số bệnh toàn thân chống chỉ định phẫu thuật.
- Một số bệnh răng hàm mặt: viêm nhiễm, tia xạ hàm mặt, tật nghiến răng,
2.1.3. Thời gian nghiên cứu: Từ 08/2006 đến 01/2011.
2.1.4. Địa điểm nghiên cứu: Khoa Răng Hàm Mặt - Bệnh viện Bạch Mai.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
Mô tả tiến cứu và thử nghiệm lâm sàng không đối chứng.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
8
Bệnh nhân được khám và đánh giá sự mất răng. Từ đó chọn lựa những
bệnh nhân đủ điều kiện cấy ghép nha khoa cần phải ghép xương vùng sống
hàm. Những thông tin được thu thập theo mẫu bệnh án nghiên cứu.
2.2.2. Phương pháp xác định cỡ mẫu
Công thức tính cỡ mẫu: n = Z
2
1-α/2
2
2
∆
s
Trong đó: n: cỡ mẫu, s: độ lệch chuẩn, ∆: sai số ước lượng
Z
2
1-α/2
: hệ số tin cậy = 1,96 (mức ý nghĩa α = 0,05)
2.2.3. Ghi nhận những đặc điểm chung của bệnh nhân nghiên cứu
2.2.4 Đặc điểm lâm sàng, X quang vùng răng mất trước khi cấy trụ
2.2.5. Đặc điểm vùng răng mất sau khi cấy trụ 6, 12, 24, 36 tháng
2.3. Phương tiện và dụng cụ nghiên cứu
- Bộ ghế máy răng và dụng cụ khám răng miệng.
- Các máy chụp phim vùng mặt: máy Panorex, 3D Cone beam,
- Máy cấy Implant nha khoa chuyên dụng (XT - Surgic).
- Dụng cụ nâng xoang kín và xoang hở, dụng cụ phẫu thuật và phục hình.
- Hệ thống mũi khoan, trụ ghép, trụ liền lợi, trụ phục hình của công ty TIS
(Total Implant Solution) Hàn Quốc, bột xương BiO - Oss, màng xương,
- Bộ dụng cụ phẫu thuật, các phương tiện và dụng cụ phục hình,
- Thước chuyên dụng đo độ dài, góc trên phim, Compa nha khoa,
2.4. Các bước tiến hành nghiên cứu
2.4.1. Khám lâm sàng và lên kế hoạch điều trị.
2.4.2. Chụp X quang vùng mặt đánh giá vùng tổn thương.
2.4.3. Đánh giá hình thái, mức độ tiêu xương và mật độ xương sống hàm
trước và sau phục hình quanh trụ Implant và vùng xương ghép.
2.4.4. Các xét nghiệm cận lâm sàng khác
2.4.5. Lẫy mẫu hàm và chế tạo máng hướng dẫn.
2.4.6. Quy trình 1(cấy trụ, ghép xương mặt bên một thì, phục hình răng giả)
2.4.7. Quy trình 2 (nâng xoang kín, ghép xương cấy trụ, phục hình răng giả)
2.4.8. Quy trình 3 (nâng xoang hở, ghép xương cấy trụ, phục hình răng giả).
2.5. Phương pháp thu thập số liệu
* Khám và thu thập các thông tin theo mẫu bệnh án.
* Đo chiều cao xương, chiều rộng, mật độ xương sống hàm.
* Đánh giá tình trạng lợi, tiêu xương ghép và tiêu xương quanh Implant.
* Đánh giá kết quả: trước phục hình, sau phục hình 6, 12, 24, 36 tháng,
- Kết quả chức năng sau phục hình
+ Mức độ tốt : Nhai được thức ăn cứng.
+ Mức độ trung bình : Chỉ ăn được thức ăn mềm.
+ Mức độ kém : Răng lung lay, đau không nhai được.
9
- Kết quả thẩm mỹ sau phục hình
+ Mức độ tốt : Hình thái màu sắc hài hoà.
+ Mức độ trung bình : Hình thành không hài hoà, nhận rõ răng giả.
+ Mức độ kém : Tiêu xương cổ răng, lộ trụ, vỡ sứ,…
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Phân bố về giới
Tổng số 56 bệnh nhân; trong đó, nam giới chiếm đa số có 38 bệnh nhân và nữ
có 18 bệnh nhân Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
3.1.2. Phân bố về tuổi
Nhỏ nhất là 17 tuổi, lớn nhất là 72 tuổi và trung bình 45 ± 11, 2 tuổi. Nhóm tuổi
hay gặp 30 - 50 chiếm 58,9%. Có sự khác nhau giữa các nhóm tuổi với p < 0,001.
3.1.3. Sự liên quan giữa tình trạng vệ sinh răng miệng và thuốc lá
Nhóm bệnh nhân không hút thuốc lá có tình trạng răng miệng tốt hơn
nhóm hút thuốc lá với ý nghĩa thống kê p < 0,05.
3.2. Đặc điểm lâm sàng và X quang vùng răng mất
3.2.1. Vị trí răng mất
Vị trí mất răng ở hàm trên (76,3%) nhiều hơn hàm dưới (23,7%). Trong
đó, răng hàm lớn trên chiếm chiếm đa số 44,1%, răng hàm nhỏ dưới chiếm
ít nhất 0,8%. Ở răng trước, răng trước trên chiếm 82,1%, răng trước dưới
chiếm 17,9%. Có sự khác nhau giữa răng hàm và răng trước với p < 0,001.
3.2.2. Nguyên nhân mất răng
- Biến chứng sâu răng và bệnh lý tủy răng chiếm đa số 55,1%, tập trung nhiều ở
răng hàm chiếm 87,7%; thiếu răng bẩm sinh ít gặp chỉ chiếm 1,7 %.
- Viêm quanh răng chiếm 30,5%, tập trung nhiều ở vùng răng hàm (73,7%)
- Mất răng do chấn thương thường gặp ở răng trước chiếm 66,7%.
- Sự liên quan giữa nguyên nhân và vị trí răng mất có ý nghĩa với p < 0,001
3.2.3. Sự phân bố các thời điểm mất răng
Thời gian mất răng trên 60 tháng chiếm 52,5%, 12 - 60 tháng 38,1%, 6 - 12 tháng
2,5 % và dưới 6 tháng 6,8%. Sự khác nhau ở các thời điểm này với p < 0,001.
3.2.4. Sự liên quan giữa chiều rộng xương có ích và vị trí răng
- Chiều rộng xương 6 - 9 mm chiếm 65,3%, đa số ở vùng răng hàm.
- Chiều rộng < 6 mm chiếm ít nhất 5,9%, chỉ gặp ở vùng răng cửa.
- Chiều rộng > 9 mm chiếm 28,8 %, chỉ gặp ở răng hàm lớn dưới.
- Sự liên quan giữa chiều rộng xương và vị trí răng có ý nghĩa với p < 0.001.
3.2.5. Độ đặc xương và vị trí răng mất
- Xương loại I chiếm 11%, thường gặp ở vùng răng trước dưới.
- Xương loại II chiếm 53,4%, tập trung nhiều ở vùng răng trước.
10
- Xương loại III chiếm 33,1%, tập trung nhiều ở vùng răng hàm lớn trên.
- Xương loại IV ít gặp chiếm 2,5% và chỉ gặp ở răng hàm lớn trên.
- Có sự liên quan giữa độ đặc xương và vị trí răng với p < 0.001.
3.2.6. Chiều cao xương và vị trí răng
- Chiều cao xương 5 - 9 mm chiếm 40,7%, chủ yếu răng hàm lớn trên.
- Chiều cao trên 9 mm chiếm 39,7%, tập trung nhiều hàm lớn dưới.
- Chiều cao dưới 5 mm chiếm 5,9%, chỉ gặp ở răng hàm lớn trên .
- Sự liên quan giữa chiều cao xương và vị trí răng có ý nghĩa với p < 0,001.
3.2.7. Dạng xương thiếu và vị trí răng
- Thiếu chiều cao xương chiếm 39 % và chỉ gặp ở vùng răng hàm trên.
- Thiếu chiều rộng xương chiếm 28,8 %, gặp đa số ở vùng răng trước.
- Thiếu phối hợp chiếm 32,2 %, thường gặp ở vùng răng hàm lớn dưới.
- Có sự liên quan giữa dạng xương thiếu và vị trí răng với p < 0,001.
3.3. Một số đặc điểm liên quan đến chỉ định
3.3.1. Sự liên quan giữa vị trí thiếu xương và vị trí trụ
- Thiếu vùng chóp trụ chiếm 44,9 %, gặp chủ yếu răng hàm lớn trên.
- Thiếu mặt bên trụ chiếm 25,4 %, tập trung nhiều vùng răng trước.
- Thiếu vùng cổ trụ chiếm 29,7 %; gặp phần lớn là vùng răng hàm lớn dưới
và cấy ghép tức thì. Sự liên quan giữa vị trí tiêu xương và trụ với p < 0,001.
3.3.2. Sự liên quan đường kính trụ với chiều dài gần - xa và chiều rộng xương
- Đường kính trụ 4.1 mm được sử dụng 44%, chỉ định phổ biến cho khoảng
mất răng gần - xa 7 - 9 mm và chiều rộng lớn hơn 6 mm.
- Đường kính trụ 3.7 mm chiếm 39,7%, sử dụng phổ biến cho khoảng gần -
xa 6 - 9 mm và chiều rộng xương 6 - 9 mm.
- Đường kính trụ 4.8 mm chiếm 9,5 %, gặp phần lớn ở các trường hợp có
khoảng gần - xa lớn hơn 9 mm và chiều rộng xương lớn hơn 6 mm.
- Đường kính trụ 3.3 mm ít được sử dụng, chỉ chiếm 4,3 %, đa số gặp ở các
trường hợp có khoảng gần - xa và chiều rộng xương nhỏ hơn 6 mm.
- Sự liên quan giữa đường kính trụ và chiều gần - xa với p < 0,05.
- Sự liên quan đường kính trụ và chiều rộng xương với p > 0,05.
3.3.4. Sự liên quan giữa chiều cao xương và chiều dài trụ
- Trụ có chiều dài 10 mm chiếm 66,4 %, tập trung nhiều ở vùng có chiều
cao xương trên 5 mm. Trụ 8 mm ít sử dụng chỉ chiếm 4,3%.
- Trụ 12 mm chiếm 29,3 %, chủ yếu sử dụng cho chiều cao xương > 9 mm.
- Sự liên quan giữa chiều cao xương và chiều dài trụ với p > 0,05.
3.3.5. Sự liên quan vị trí răng - khối lượng xương ghép
- Khối lượng xương ghép ít (dưới 0,5 gram) có 76,3 %, gặp ở nhiều vị trí.
- Khối lượng xương lớn hơn thường dùng nâng xoang ghép xương đáy trụ.
- Sự liên quan giữa khối lượng xương ghép này và vị trí răng với p < 0,05.
3.3.6. Sự liên quan thời gian mất răng và khối lượng xương ghép
11
Khối lượng xương ghép ít có thể gặp ở nhiều thời điểm mất răng. Khối
lượng xương trung bình và nhiều thường được sử dụng cho các trường hợp
mất răng trên 1 năm và cấy ghép tức thì.
3.3.7. Sự liên quan giữa khối lượng xương ghép và các dạng phục hình
trước khi cấy implant
Phần lớn các trường hợp đã được phục hình trước khi cấy implant.
Trong đó, phục hình tháo lắp chiếm 56,8 % và không phục hình tháo lắp
chiếm 43,2 %. Sự khác nhau này không có ý nghĩa với p > 0,05.
3.4.Kết quả phẫu thuật
3.4.1. Biến chứng sớm sau cấy trụ
3.4.1.1. Biến chứng sưng nề
Biến chứng sưng nề ở nhóm ghép xương vùng chóp trụ có 8/53 trụ, cao
hơn các nhóm khác 7/65 trụ nhưng không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
3.4.1.2. Biến chứng chảy máu
Biến chứng chảy máu chỉ gặp trong nhóm có nâng xoang ghép xương
vùng chóp trụ và không gặp trong các trường hợp khác.
3.4.2. Tình trạng của phục hình
3.4.2.1. Biến chứng lỏng vít nối phục hình
Tỷ lệ lỏng vít nối của chụp đơn là 8,7 % cao hơn cầu chụp Implant -
Implant 2,1 %. Sự khác nhau này không có ý nghĩa với p > 0,05.
3.4.2.2. Các biến chứng khác khi cấy trụ và phục hình
Biểu đồ 3.4. Các biến chứng trong cấy trụ và sau khi phục hình
Ba trường hợp rách màng xoang gây thông xoang hàm chiếm 8,6%.
Chúng tôi dùng màng xương che lỗ thủng đạt kết quả tốt ở 02 trường hợp
lỗ thủng nhỏ, thất bại một trường hợp có lỗ thủng lớn gây viêm xoang và
đào thải xương ghép. Đào thải trụ sớm chiếm 3,4%, đào thải trụ muộn
chiếm 1,7%. Gãy vít trong khi làm phục hình, vỡ cổ trụ, vỡ trụ phục hình
đều có một trường hợp chiếm 0,86%. Vỡ sứ phục hình chiếm 4,3%.
3.4.3. Tình trạng mô mềm sau phục phục hình
12
Bảng 3.18. Các chỉ số đánh giá mô mềm
6 tháng
( n = 106)
12 tháng
( n = 84)
24 tháng
( n = 54)
36 tháng
( n = 31)
Chỉ sốmảng bám 0,76± 0,61 0,79 ± 0,63 0,82 ± 0,67 0,85 ± 0,71
Chỉ số chảy máu 0,63± 0,57 0,65 ± 0,58 0,69 ± 0,61 0,71 ± 0,62
Chỉ số viêm nhiễm 0,61 ± 0,53 0,64 ± 0,54 0,66 ± 0,56 0,69 ± 0,59
Các chỉ số mô mềm quanh Implant đa số thuộc nhóm 0 và nhóm 1. Sự
khác nhau giữa các thời điểm không có ý nghĩa với p > 0,05.
3.4.4.Tình trạng xương sau phục phục hình trụ
Bảng 3.19: Tiêu xương quanh trụ ở các thời điểm trước và sau phục
hình
Tiêu xương gần
Số lương
trụ
Tiêu xương
mặt gần (mm)
Tiêu xương
mặt xa (mm)
Trước phục hình 116 0,664 ± 0,165 0,711 ± 0,176
Sau
phục
hình
6 tháng 106 0,317 ± 0,124 0,317 ± 0,124
12 tháng 84 0,451 ± 0,159 0,451 ± 0,159
24 tháng 54 0,545 ± 0,158 0,545 ± 0,158
36 tháng 31 0,613 ± 0,136 0,613 ± 0,136
Tiêu xương trước phục hình nhiều hơn sau phục hình có ý nghĩa vơi p <
0,001 và không có sự khác nhau tiêu xương giữa các thời điểm sau phục
hình với p > 0,05.
Bảng 3.21: Sự liên quan của tiêu xương mặt gần trụ ghép và thuốc lá
Tiêu xương gần
Số lương
trụ
Hút thuốc lá (mm)
p
Có Không
Trước phục hình 116 0,746 ± 0,154 0,570 ± 0,117 < 0,01
Sau
phục
hình
6 tháng 106 0,330 ± 0,135 0,268 ± 0,078 > 0,05
12 tháng 84 0,514 ± 0,146 0,394 ± 0,104 < 0,05
24 tháng 54 0,627 ±0,142 0,504 ± 0,144 > 0,05
36 tháng 31 0,686 ± 0,145 0,556 ± 0,170 > 0,05
Bảng 3.22: Sự liên quan của tiêu xương mặt xa trụ ghép và thuốc lá
Tiêu xương xa
Số lương
trụ
Hút thuốc lá (mm)
p
Có Không
Trước phục hình 116 0,693 ± 0,142 0,514 ± 0,120 < 0,001
Sau
phụ
c
6 tháng 106 0,309 ± 0,126 0,235 ± 0,073 < 0,05
12 tháng 84 0,498 ± 0,143 0,376 ± 0,105 0, 06
24 tháng 54 0,620 ± 0,129 0,485 ± 0,130 < 0,05
36 tháng 31 0,674 ± 0,137 0,528 ± 0,166 > 0,05
13
hình
Tiêu xương nhiều hơn ở bệnh nhân hút thuốc lá có ý nghĩa với p < 0,001.
3.4.3.3. Biến chứng tiêu xương ghép vùng chóp trụ
Biểu đồ 3.5. Tiêu xương ghép trước phục hình và sau phục hình
Bảng 3.23. Sự thay đổi mật độ xương ghép ở các thời điểm cấy implant
Mật độ xương ghép
Số
lượng
trụ
Mật độ xương (HU:Hounds Field Units)
Tối
thiểu
Tối
đa
Trung bình
Trước phục hình 18 1245 1504 1314,33 ± 332,774
Sau phục hình 6 tháng 19 1633 1798 1714,84 ± 50,052
Sau phục hình 12 tháng 26 1679 1937 1762,15 ± 59,954
Sau phục hình 24 tháng 33 1705 2032 1801,24 ± 92,863
Thay đổi chiều cao, mật độ xương ghép trước và sau phục hình với p <0,01
3.4.5. Kết quả sau khi phục hình
Sau phục
hình (%)
6 tháng 12 tháng 24 tháng 36 tháng
CN TM CN TM CN TM CN TM
Tốt 96,3 94,3 94 89,3 92,6 87 90,3 83,9
Trung bình 2,8 5,7 4,8 10,7 7,4 11,1 9,7 12,9
Kém 0,9 0 1,2 0 0 1,9 0 3,2
Kết quả chức năng (CN) và thẩm mỹ (TM) ở mức độ tốt về sau có xu
giảm hơn. Tuy nhiên, sự khác nhau này không có ý nghĩa với p > 0,05.
Chương 4: BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm bệnh nhân.
Tỷ lệ bệnh nhân nam nhiều hơn nữ. Tỷ lệ này phù hợp với kết quả của Sanz M.
(2009) có tỷ lệ nam là 52% và nữ là 48%. Ngược lại, nghiên cứu của các tác giả
khác có tỷ lệ nữ nhiều hơn nam: Hoàng Tuấn Anh (2006) có 48,8% là nam và
51,2% là nữ, Phạm Thanh Hà (2007) có 38,9% là nam và nữ là 61,1%, Claudia
(2007) có tỷ lệ nam 39,7% và nữ 60,3%. Sự khác nhau này không có ý nghĩa với
p > 0,05. Các tác giả trên cho rằng nữ nhiều hơn nam là do nữ quan tâm đến
thẩm mỹ nhiều hơn nam. Có điều, chỉ định cấy Implant không chỉ răng cửa
mà cả răng hàm. Hơn nữa, thiếu xương liên quan nhiều đến chấn thương và
viêm quanh răng. Những nguyên nhân này lại chiếm đa số ở nam giới.
14
Tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu là 44,9 + 11,2 tuổi. Tuổi
này cũng tương tự tuổi trung bình trong nghiên cứu cấy Implant không ghép
xương như Phạm Thanh Hà là 43,2 tuổi, Tạ Anh Tuấn 42,4 tuổi và Ronald
là 44,6 tuổi. Nhìn chung, kỹ thụât cấy Implant có ghép xương khó khăn
hơn, thời gian điều trị dài, thậm chí phải làm nhiều thì nên ít chỉ định cho
những bệnh nhân quá lớn tuổi. Trái lại, kỹ thuật này cũng không nên áp
dụng cho các trường hợp tuổi quá nhỏ vì tổ chức vùng mất răng chưa phát
triển hoàn chỉnh nên sự tích hợp xương và lành thương xương ghép kém,
4.2. Những đặc điểm lâm sàng và X quang vùng răng mất
4.2.1. Sự liên quan của độ đặc xương đến vị trí răng mất và chiều cao
xương vùng sống hàm ứng dụng trong phẫu thuật
Mất răng hàm trên nhiều hơn hàm dưới; vùng răng hàm nhiều hơn vùng
răng trước. Ngược lại, nghiên cứu của Tạ Anh Tuấn cho thấy hàm dưới
(69,49%) nhiều hơn hàm trên (30,51%). Sự khác nhau này có ý nghĩa thống
kê với p < 0,01. Độ đặc xương của xương hàm dưới chủ yếu là xương loại I
và II, xương hàm trên phần lớn là xương loại III và IV. Độ đặc xương vùng
răng trước cao hơn vùng răng hàm. Về chiều cao xương, đa số các trường
hợp có chiều cao xương trên 9 mm tập trung chủ yếu ở vùng răng hàm lớn
dưới, răng hàm nhỏ và răng trước. Các trường hợp có chiều cao xương dưới
9 mm tập trung chủ yếu vùng răng hàm lớn trên. Điều này cho thấy những
vùng có độ đặc xương thấp thì mức độ tiêu xương nhiều hơn vùng có độ
đặc xương cao: tiêu xương gặp ở hàm trên nhiều hơn hàm dưới, vùng răng
hàm nhiều hơn vùng răng trước, mức độ tiêu xương nhiều nhất là ở răng
hàm lớn trên làm cho chiều cao vùng này thấp hơn các vùng khác. Ngoài ra,
vùng răng hàm lớn trên còn chịu tác động của áp lực xoang và lực nhai lớn,
nhất là các trường hợp đeo hàm giả tháo lắp làm tăng quá trình tiêu xương.
Chính vì vậy, tỷ lệ mất răng có thiếu xương trong nghiên cứu của chúng
tôi gặp phổ biến ở vùng răng hàm lớn trên chiếm tỷ lệ khá cao là 44,1%.
4.2.2. Nguyên nhân mất răng
Nguyên nhân do biến chứng sâu răng và bệnh lý tuỷ răng chiếm 55,1%;
Tỷ lệ này thấp hơn các tác giả: Phạm Thanh Hà là 70%, Tạ Anh Tuấn là
89,36 % và Ferrus là 68% (2009). Nguyên nhân do viêm quanh răng chiếm
30,5%, cao hơn các tác giả trên: Phạm Thanh Hà có 23,8%, Tạ Anh Tuấn
không có trường hợp nào và Ferrus có 17%. Phải chăng, nguyên nhân viêm
quanh răng tăng cao là do mất răng trong viêm quanh răng thường có số
lượng lớn, thậm chí mất toàn bộ hàm. Ngoài ra, viêm quanh răng gây tiêu
xương nhiều trước và sau nhổ răng so với các nguyên nhân khác nên hầu
hết các trường hợp mất răng do viêm quanh răng khi cấy implant cần phải
ghép xương đã làm tăng cao tỷ lệ mất răng ở nhóm nguyên nhân này.
15
Như vậy, ghép xương trong cấy Implant được chỉ định cho nhiều
nguyên nhân mất răng, thậm chí là cấy trụ và ghép xương tức thì vừa hạn
chế được tiêu xương vùng ổ răng sau nhổ, vừa rút ngắn hơn thời gian điều
trị, phục hồi sớm được chức năng, thẩm mỹ vùng răng mất.
4.2.3. Sự liên quan của vị trí răng mất đến dạng xương thiếu, vị trí thiếu
xương và khối lượng xương ghép
Thiếu chiều cao xương gặp đa số ở vùng răng hàm lớn trên (95,7%). Đối
với vùng này, vị trí ghép xương thường là vùng chóp trụ (90,6%) với lượng
xương ghép phổ biến trên 0,5 g. Thiếu chiều rộng xương gặp nhiều ở vùng
răng cửa (62,6%). Dạng này thường gặp ở vùng răng trước chiếm 67,6%, vị
trí ghép thường là mặt bên trụ (96,7%) với lượng xương ghép đa số là dưới
0,5 gram. Dạng thiếu phối hợp cả chiều cao và chiều rộng chiếm 29,7%,
gặp chủ yếu ở vùng răng hàm lớn dưới(57,1%) và vị trí ghép thường là cổ
trụ với lượng xương dưới 0,5 gram. Như vậy, mỗi nhóm răng có hình thái,
vị trí và mức độ thiếu xương khác nhau.
4.2.4. Sự liên quan của khối lượng xương ghép đến thời gian mất răng.
Thời gian mất răng trên 12 tháng (90,6%) và trên 60 tháng (52,5%)
tương tự nghiên cứu của Tạ Anh Tuấn: trên 12 tháng chiếm 82,98% và trên
60 tháng chiếm 40,43%. Trong khi đó, thời gian mất răng trong nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài trên 12 tháng chỉ chiếm 40 - 55%. Điều này cho
thấy sự quan tâm đến sức khỏe răng miệng ở nước ta kém hơn, việc cập
nhật kỹ thuật cấy ghép Implant của chúng ta chậm hơn các nước, chưa được
phổ biến rộng rãi; thậm chí nhiều người e ngại khi cấy implant, nhất là các
trường hợp thiếu xương là trở ngại lớn nên nhiều người xem kỹ thuật này
chỉ là giải pháp tình thế cho các phương pháp phục hình khác thất bại.
Trong nghiên cứu có 66,1% trụ đã được phục hình trước khi cấy Implant.
Khối lượng xương ghép trong nghiên cứu thường là ít được phân bố chủ
yếu ở các thời điểm mất răng dưới 60 tháng. Những trường hợp ghép khối
lượng xương trung bình và nhiều có xu hướng tập trung nhiều ở thời điểm
trên 60 tháng. Có lẽ, trong thời gian đầu mức độ tiêu xương ít nên khối
lượng xương ghép chưa có sự khác biệt ở các thời điểm trước 60 tháng. Sau
60 tháng, vùng mất răng biến dạng nhiều, mức độ tiêu xương nhiều nên
khối lượng xương ghép cần nhiều hơn. Tuy nhiên, ngoài sự phụ thuộc vào
thời gian mất răng, khối lượng xương còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
như vị trí răng mất, dạng xương thiếu, nguyên nhân mất răng…
4.3. Chọn chỉ định trong cấy implant có ghép xương :
4.3.1. Chọn hệ thống implant phù hợp :
Chúng tôi sử dụng hệ thống trụ ghép của công ty TIS có các đặc điểm sau:
- Hình thái trụ ghép có dạng hình chóp, ren xoắn xung quanh: thuận lợi
cho các thao tác trong quá trình cấy trụ, dễ tạo được sự ổn định cơ học tốt
16
ban đầu. Liên kết giữa trụ ghép và trụ phục hình có hình lục giác bên trong
trụ ghép (Internal hex implant) bằng vít nối. Dạng liên kết này chống lại lực
xoay và ít có biến chứng lỏng vít, gãy vít hơn liên kết trụ phục hình bên
ngoài trụ ghép (External hex implant); Tương tự, nghiên cứu của Lang và
Jepsen (2009), Abrahamsson và Berglungh (2009) cho thấy thiết kế trụ hình
chóp có ren xoắn sẽ hạn chế tổn thương xương xung quanh, phân tán lực,
giảm khoảng hở ở vùng tiếp giáp giữa bề mặt trụ và xương xung quanh,
tăng sự liên kết, tăng yếu tố tạo hình thái xương sau khi cấy trụ
- Trụ Titanium có cấu trúc bề mặt trụ nhám trung bình: Nhìn chung, các
tác giả đều nhận định bề mặt nhám thì tích hợp xương tốt hơn bề mặt nhẵn,
quá trình lành thương nhanh hơn và diện liên kết xương - Implant lớn hơn.
Đặc biệt trong các trường hợp có ghép xương xung quanh bề mặt, bề mặt
nhám tạo những hốc nhỏ để tổ chức xương ghép bám vào. Có điều bề mặt
nhám như thế nào để tạo được sự tích hợp xương tốt nhất? Wennerberg và
Albrektson (2009) đã phân loại độ nhám bề mặt theo kích thước các vi hạt
trên bề mặt trụ Sa (average height deviation) ở các mức độ sau:
+ Bề mặt trụ nhẵn với hệ thống hạt Sa nhỏ hơn 0,5 µm.
+ Bề mặt trụ nhám ít có bề mặt Sa từ 0,5 đến 1 µm.
+ Bề mặt trụ nhám trung bình có Sa từ 1 đến 2 µm.
+ Bề mặt trụ nhám nhiều có Sa lớn hơn 2 µm.
Tác giả nhận thấy độ nhám bề mặt càng lớn thì diện tích tiếp xúc và sự
tích hợp xương càng cao. Tuy nhiên, độ nhám quá lớn Sa > 6 µm thì dễ
hình thành mảng bám quanh trụ, tăng khả năng xâm nhập vi khuẩn vào
vùng tiếp giáp giữa trụ và xương xung quanh, làm tăng tiêu xương quanh
trụ và biến chứng vùng quanh Implant. Nghiên cứu của Lee S. (2010) cho
thấy trụ hình chóp, bề mặt nhám, ren xoắn có độ tiêu xương ít. Nghiên cứu
của Song D.W. (2009) cho thấy tiêu xương quanh trụ có ren xoắn là 0,19 ±
0,16 mm và tiêu xương quanh trụ không có ren xoắn là 0,3 ± 0,22 mm.
Như vậy, việc chọn lựa hệ thống trụ ghép của công ty TIS có dạng hình
chóp, ren xoắn xung quanh, bề mặt nhám trung bình sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho kỹ thuật, tăng quá trình tích hợp xương sau khi cấy trụ; nhất là bề
mặt nhám trung bình rất thuận lợi cho ghép xương dị loại dạng hạt.
Đối với trụ phục hình, chúng tôi sử dụng trụ nối (Mount) trong quá trình
cấy trụ mài chỉnh thay thế trụ phục hình. Cấu tạo của trụ nối của công ty
TIS có hình thái và kích thước tương tự trụ phục hình: đủ độ dày để chịu
lực, diện khớp nối hình lục giác với liên kết khớp nối bên trong (Internal
Hexa) bằng vít nối đảm bảo được khối liên hoàn giữa trụ ghép và trụ phục
hình, hạn chế lực xoay, lực bên lên Implant. Ngoài ra, bề mặt trụ nối nhẵn
hạn chế tạo mảng bám quanh Implant. Nghiên cứu của Rimondini (1997)
cho thấy bề mặt nhám của trụ phục hình Ra < 0,088 µm sẽ hạn chế mảng
17
bám xung quanh, giảm nguy cơ viêm quanh Implant sau khi phục hình.
Nghiên cứu của Quirynen (1996), Bollen (1996) cho thấy bề măt trụ phục hình
lớn hơn 0,2 µm bắt đầu hình thành mảng bám và tăng độ nhám lên 0,8 µm thì
mảng bám tăng lên 25 lần. Qủa vậy, kết quả nghiên cứu khi sử dụng trụ nối
để phục hình trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ biến chứng sau
khi phục hình, đặc biệt biến chứng về vít nối cũng tương tự nghiên cứu của
các tác giả sử dụng trụ phục hình thông thường. Như vậy, việc sử dụng
Mount thay thế trụ phục hình vẫn đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, ít biến
chứng nhất là giảm được chi phí của trụ phục hình trong quá trình điều trị.
4.3.2. Chọn chất liệu xương ghép
Xương BiO - Oss là xương dị loại dạng hạt kết tinh đảm bảo được khối
lượng xương ghép, có khả năng liên kết tốt, dễ lèn vào các ngách nhỏ, thuận
lợi cho quá trình sử dụng cấy trụ có ghép xương, chịu lực cao, thích hợp tốt
trong môi trường khoang miệng Những ưu điểm này khác với xương tự
thân dạng khối đặc khó tạo hình hoặc xương tự thân dạng tủy mềm khó lèn
vào các khe nhỏ, dễ tiêu, không có khả năng chịu lực, Đặc điểm này cũng
tương tự nghiên cứu của Schliephake H., Paul A. cũng cho thấy xương BiO
- Oss dạng hạt nhỏ có độ liên kết cao, khả năng thay thế xương lớn và tỉ lệ
thành công cao tương tự chất liệu xương BCP (Biphasis Calcium
Phosphase), sự liên kết xương dạng hạt nhỏ với bề mặt trụ tốt hơn xương
dạng khối. Nghiên cứu của Roiz (2009) cho thấy không có sự khác nhau về
sự liên kết xương với bề mặt trụ, khoáng hóa xương vùng liên kết tương tự
các xương nhân tạo khác như sứ sinh học (Biosilicate), thủy tinh sinh học
(Bioggran) Ngoài ra, xương dị loại chỉ lấy phần vô cơ loại bỏ phần hữu cơ
nên ít bị đào thải do miễn dịch, giảm nguy cơ nhiểm khuẩn, tránh lây nhiễm
một số bệnh truyền nhiễm như xương đồng loại Nghiên cứu của Dahlin
(1991), Paul (2007) và Jung (2008) cho thấy không có sự khác nhau về tỉ lệ
thành công giữa ghép xương có màng hướng dẫn tái sinh xương GBR
(Guided bone generation) và không có màng xương, nhưng có sự tăng sinh
đáng kể của xương ghép trong trường hợp ghép xương có màng xương nhờ
quá trình kích thích sự tái sinh và biệt hóa tế bào xương.
Như vậy, hệ thống implant TIS, trụ phục hình cải tiến, xương dị loại dạng
hạt và màng xương đạt được những yêu cầu cho cấy implant có ghép xương
4.3.3. Chọn chỉ định hệ thống trụ phù hợp với kích thước xương ứng
dụng trong phẫu thuật của sống hàm
Để điều trị mất răng có thiếu xương, Trước đây đa số các tác giả chọn
các phương pháp phục hình kinh điển như phục hình tháo lắp hoặc phục
hình cố định bằng cầu răng. Một số tác giả theo trường phái cấy Implant
không ghép xương như Tofterer (2006) dùng trụ ngắn khi thiếu chiều cao
18
xương và dùng trụ có đường kính nhỏ trong trường hợp thiếu chiều rộng,
Aparicio (2001) cấy lệch trục trụ trong trường hợp thiếu xương phối hợp.
Ngược lại, các tác giả khác như Paul A. (2007) cho rằng chiều cao xương
ứng dụng dưới 4 mm sẽ đe dọa tổn thương vùng cổ răng; Tương tự, nghiên
cứu của Misch (1987), Lekholm (1995), Berglundh (2000) cho thấy ngưỡng
chiều cao xương ứng dụng tối thiểu phù hợp cho sự ổn định xương ban đầu
của Implant là 5 mm. Nghiên cứu của Fenner M. (2009) cho thấy chiều cao
xương tối thiều cần thiết cho sự lưu giữ Implant là 6 - 8 mm. Do vậy, đối
với xương hàm trên, Paul A. chủ động nâng xoang hở mặt ngoài xoang hàm
để ghép xương đối với chiều cao dưới 5 mm và nâng xoang kín ghép xương
qua sống hàm đối với chiều cao xương 5 - 10 mm.
Về chiều cao, nhóm chiều cao xương 5 - 9 mm trong nghiên cứu chúng
tôi chiếm 40,9%, gặp đa số trong mất răng hàm lớn trên; trong đó, nhóm
răng hàm lớn trên có chiều cao 5 - 7 mm được sử dụng nâng xoang hở ghép
xương và cấy trụ một thì và 7 - 9 mm nâng xoang kín và cấy trụ một thì.
Dạng xương này sau khi ghép xương đã sử dụng trụ có chiều dài 10 mm
chiếm 77,1%. Chiều cao xương dưới 5 mm chiếm 4,3%, chỉ ở vùng răng
hàm lớn trên và đều được sử dụng nâng xoang hở thì đầu và cấy trụ thì hai.
Dạng xương này sau ghép xương được chỉ định cho các trụ có chiều dài
trên 10 mm chiếm 80 %. Chiều cao trên 9 mm chiếm 54,3%, thường phối
hợp thiếu chiều cao và chiều rộng xương, gặp ở vị trí răng cửa và hàm lớn
dưới. Dạng xương này được chỉ định cấy trụ và ghép xương vùng cổ trụ với
kết quả 96,8% trường hợp đã sử dụng trụ có chiều dài 10 mm trở lên.
Về chiều rộng xương, nhóm 6 - 9 mm chiếm 64,7 %, sau khi ghép xương
có 80,4% sử dụng trụ đường kính 3.7 mm và 52,9% trụ đường kính 4.1 mm.
Chiều rộng xương dưới 6 mm chiếm 6%, đã sử dụng 85,7% trụ đường kính
trụ 3.7 mm và 14,3% trụ đường kính 3.3 mm. Chiều rộng xương trên 9 mm
phù hợp cho các trụ có đường kính trụ lớn. Sau khi ghép xương, đường kính
trụ chúng tôi sử dụng: 4.1 mm chiếm 44 %, 3.7 mm chiếm 39,7%, 4.8 mm
chiếm 12% và 3.3 mm chiếm 4,3%. Kết quả này tương đương kết quả cấy
ghép không ghép xương của Sanz M. (đường kính 4.0 mm chiếm 47%, 4.5
mm chiếm 45%, 5.0 mm chiếm 6% và 3.5 mm chiếm 1 %).
Như vậy, ghép xương trong cấy implant đã làm tăng chiều cao và chiều
rộng xương sống hàm, dễ sử dụng các trụ có kích thước lớn, thậm chí
những trường hợp kích thước sống hàm rất hạn chế có chiều cao nhỏ hơn 5
mm, chiều rộng xương dưới 6 mm và cả những trường hợp cấy ghép tức thì.
Về chiều dài gần - xa của khoảng mất răng, nhóm chiều dài 6 - 9 mm
chiếm 79,3%, sử dụng phổ biến là trụ có đường kính 4.1 mm; nhóm có
chiều dài trên 9 mm chiếm 12,9%, sử dụng phổ biến trụ có đường kính 4.8
mm; nhóm chiều dài nhỏ hơn 6 mm chiếm 7,8%, chỉ sử dụng trụ có đường
19
kính nhỏ 3.7 mm và 3.3 mm. Sự liên quan giữa chiều dài gần - xa khoảng
mất răng và đường kính trụ với p < 0,05. Như vậy, trong nghiên cứu cấy
ghép nha khoa có ghép xương thì kích thước trụ lại phụ thuộc vào chiều dài
gần xa, chiều dài càng lớn thì khả năng sử dụng trụ có đường kính càng lớn.
Về khối lượng xương ghép, khối lượng xương thường dùng là dưới 0,5
gram chiếm 76,3%. Lượng xương này gặp ở hầu hết các vị trí của trụ như
cổ trụ, mặt bên trụ và chóp. Khối lượng xương trên 0,5 gram chiếm 23,7%,
chủ yếu sử dụng cho nâng xoang cấy trụ ở vùng hàm lớn trên.
Như vậy, việc chọn xương dị loại dạng hạt ngoài những ưu điểm của
dạng hạt vẫn cho được khối lượng xương cần thiết trong các trường hợp cần
ghép xương để cấy Implant.
3.4. Kết quả nghiên cứu.
3.4.1. Những tai biến và biến chứng trong và sau quá trình cấy trụ :
Trong tai biến phẫu thuật, chúng tôi gặp phổ biến là thủng màng xoang
trong quá trình nâng xoang ghép xương chiếm 8,6%. Tỷ lệ này ít hơn kết
quả của Misch là 12%, Jensen là 35%; có lẽ số lượng chúng tôi còn ít nên tỷ
lệ ít gặp hơn. Các trường hợp chúng tôi gặp đều có màng xoang mỏng, dính
nhiều, khó bóc tách. Để xử trí các trường hợp rách màng xoang, chúng tôi
dùng màng xương nhân tạo che phủ lỗ thủng và ghép xương trên màng
xoang. Kết quả thành công hai trường hợp và một trường hợp thất bại sau
ba tháng ghép xương do lỗ thủng lớn trên bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy
cơ như vệ sinh răng miệng kém, nghiện thuốc lá nặng nên khi bị thông
xoang hàm đã gây viêm xương và đào thải xương ghép sau khi nâng xoang
ghép xương. Vì vậy, việc bảo tồn màng xoang là yếu tố quyết định cho sự
thành công của ghép xương vùng đáy xoang. Các tai biến khác như gãy
xương hàm, tổn thương thần kinh - mạch máu ống răng dưới, tụt trụ vào
xoang chúng tôi không gặp. Có lẽ, nhờ có ghép xương làm tăng khối
lượng xương để vừa chọn các Implant có kích thước lớn, vừa đảm bảo
khoảng cách an toàn từ trụ đến các mốc giải phẫu quan trọng (ống răng
dưới, đáy xoang ) tối thiểu là 2 mm nên hạn chế được các tai biến trên.
Biến chứng sưng nề sau khi cấy trụ chiếm 12,7%. Tỷ lệ này tương tự tỷ
lệ sưng nề trong nghiên cứu của Tạ Anh Tuấn 10,47%, Leon 0 - 29% và
Charles 12 - 30%. Biến chứng sưng nề và chảy máu có xu hướng tăng ở
nhóm nâng xoang ghép xương so với nhóm không nâng xoang chỉ ghép
xương đơn thuần. Phải chăng, những trường hợp nâng xoang có thời gian
phẫu thuật dài, bóc tách phần mềm rộng, can thiệp vào xương nhiều nên các
biến chứng sớm như sưng nề và chảy máu ở nhóm nâng xoang có xu hướng
cao hơn không nâng xoang. Tuy nhiên, sự khác nhau này của hai biến
chứng này không có ý nghĩa thống kê; có lẽ do số lượng chúng tôi còn ít và
20
các biện pháp hỗ trợ kịp thời như chườm lạnh vùng phẫu thuật, sử dụng sớm
kháng sinh, chống phù nề toàn thân cũng hạn chế được những biến chứng này.
Biến chứng đào thải đào thải trụ sớm chiếm 3,4% và đào thải muộn
1,7%. Tỷ lệ này cao hơn so với tỷ lệ của Sung (2008) đào thải trụ sớm 1,9%
và muộn 0,28%. Có lẽ, ngoài các nguy cơ đào thải của trụ ghép, vấn đề đào
thải xương ghép chúng tôi gặp một trường hợp làm tăng tỷ lệ thất bại của
cấy ghép. Những trường hợp đào thải trụ được cấy lại đều thành công; trong
khi đó, tỷ lệ thất bại sau khi cấy lại của Kim Y.K. (2010) là 11,7%, có thể
do số lượng cấy lại của chúng tôi còn ít, thời gian theo dõi chưa
nhiều.Tương tự, nghiên cứu của Claudia (2007) ở 3578 trụ ghép cho thấy
88,2% đào thải trụ xảy ra trước phục hình và 75% không xác định nguyên
nhân tụt trụ trên lâm sàng; Nghiên cứu của Sicilia A (2008) trên 1500 trụ ghép
cho thấy cơ địa dị ứng có tỷ lệ đào thải trụ sớm là 5,3 % và cơ địa không dị ứng
là 0,6 %; Nghiên cứu của Jaffin và Berman C.L. (1991) qua 1054 trụ ghép cho
thấy tỷ lệ tụt trụ của xương loại IV là 35% và các loại xương còn lại là 3%;
Nghiên cứu của Misch (1999) cho thấy tụt trụ và tiêu xương chủ yếu xảy ra
trong năm đầu sau cấy trụ, không có sự khác nhau về tỷ lệ đào thải trụ sớm
nhưng sự tiêu xương ở nhóm chịu lực sớm cao hơn nhóm chịu lực muộn
Phải chăng, giai đoạn tích hợp xương rất nhạy cảm với các yếu tố bất lợi
như sang chấn trong và sau khi cấy trụ, sự thích nghi của cơ thể với trụ
ghép và xương ghép làm tăng nguy cơ đào thải trước phục hình.
3.4.2. Những biến chứng sau khi phục hình
3.4.2.1. Biến chứng phần liên kết giữa trụ ghép và trụ phục hình:
Chúng tôi gặp biến chứng lỏng vít nối chiếm 6%, gãy vít nối 0,86%, gãy
trụ phục hình và vỡ cổ implant có một trường hợp chiếm 0,86%.
Nghiên cứu của Chuen (2009) trên 717 trụ ghép có biến chứng lỏng vít
nối chiếm 4,7%, gãy trụ phục hình 0,27%, vỡ cổ implant 0,27%, vỡ sứ 6%;
Nghiên cứu của Jung (2008) trên 1530 trụ ghép sau 5 năm theo dõi cho
thấy tỷ lệ lỏng vít nối 12,7%, gãy vít nối 0,35%, vỡ trụ Implant 0,14%, gãy
trụ phục hình 4,5%; Nghiên cứu của Kreissl (2007) sau 5 năm trên 205 trụ
ghép có tỷ lệ lỏng vít nối chiếm 6,7%, gãy vít chiếm 3,9%, vỡ sứ 5,7%.
Như vậy, lỏng vít nối là biến chứng phổ biến sau phục hình, đặc biệt trong
phục hình riêng lẽ từng Implant. Nghiên cứu của Kreissl (2007) cho thấy
không có lỏng vít nối ở các trường hợp phục hình cầu liên kết Implant -
Implant; nghiên cứu của Steinebrunner (2008) cho thấy liên kết trụ phục
hình ngoài trụ ghép, lực nhai lớn kéo dài tăng nguy cơ biến chứng vùng liên
kết. Điều đó cho thấy trong điều kiện có thể phục hình cầu Implant giảm
biến chứng lỏng vít nối. Hơn nữa để hạn chế biến chứng lỏng phục hình,
một số tác giả sử dụng lực vặn lớn hơn 40 N/cm nhằm tăng sự gắn chặt giữa
trụ ghép và trụ phục hình. Ngược lại, theo nghiên cứu của Trisi P. (2008)
21
cho thấy lực vặn vít nối càng lớn càng làm tăng các vi chuyển động của trụ
ghép và tăng nguy cơ gãy vít nối. Do đó, Georgios (2009) cho rằng với lực
vặn vít 35 - 40 N/cm là đủ duy trì sự liên kết giữa trụ phục hình và trụ ghép,
đồng thời giảm nguy cơ gãy vít nối trong và sau phục hình, giảm nguy cơ
đào thải Implant. Trong nghiên cứu của Cho S.C.( 2004 ), phục hình trên
Implant có đường kính lớn trên 5.0 biến chứng lỏng phục hình là 5,8%, ít
hơn phục hình trên Implant có đường kính nhỏ hơn 4.0 với tỷ lệ lỏng phục
hình là 14,5%. Như vậy, nhờ ghép xương có thể chọn chỉ định cho các
Implant có đường kính lớn hơn cũng giúp phần nào giảm tỷ lệ biến chứng
lỏng phục hình. Ngoài ra, lực tác động lên phục hình cũng ảnh hưởng đến
biến chứng về vít nối và phục hình. Nghiên cứu của Lin C.L. (2006) cho
thấy khi làm cầu liên kết răng thật và Implant thì lực tác động lên Implant
nhiều hơn răng thật làm tăng quá trình tiêu xương quanh trụ và tăng biến
chứng vùng quanh Implant. Do đó trong nghiên cứu, chúng tôi chỉ làm cầu
liên kết Implant - Implant không làm cầu Implant - răng thật để giảm lực
nội tại trong phục hình. Hơn nữa, để hạn chế sang chấn từ răng đối diện lúc
ăn nhai, diện tiếp xúc của phục hình trên Implant cần thấp hơn răng bình
thường để tránh sự chịu lực quá mức lúc ăn nhai.
Như vậy, phục hình cầu răng liên kết các trụ ghép với nhau, chọn lực liên
kết vít nối hợp lý, thiết kế diện tiếp xúc phục hình phù hợp sẽ hạn chế
được sang chấn lên phục hình, làm giảm biến chứng của vít nối cũng như
biến chứng phần liên kết của phục hình.
3.4.2.2. Tình trạng mô mềm quanh Implant
Nghiên cứu của Wismeiser (1999) cho thấy chỉ số mảng bám trung bình
sau 19 tháng là 0,5 - 0,46; Nghiên cứu của Garcia (2008) có chỉ số mảng
bám ở mức độ trung bình chiếm 72,22%; Kim Y.K. (2009) có chỉ số mảng
bám và chỉ số viêm nhiễm là 0,37. Chỉ số chảy máu của Hultin M. (2000) là
0,26 và của Winaei (1999) là 0,57 + 0,5. So với các tác giả trên, các chỉ số
mảng bám, chỉ số chảy máu và chỉ số viêm nhiễm của chúng tôi cao hơn.
Tuy nhiên, sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Để đánh giá tình trạng viêm quanh Implant, chúng tôi đánh giá theo phân
loại của Mombelli và Lang (1992), viêm quanh Implant có một trong các
tiêu chí sau: túi lợi quanh Implant ≥ 5 mm, mức độ tiêu xương quanh
Implant ≥ 3 mm hoặc số lượng vi khuẩn tại chỗ ≥ 10
6
vi khuẩn/ ml dịch.
Việc đánh giá túi lợi trên lâm sàng có nhiều nhược điểm và xét nghiệm số
lượng vi khuẩn dịch vùng quanh răng khó thực hiện. Do đó, phim X quang
xác định mức độ tiêu xương mặt gần và mặt xa trụ thường được sử dụng.
Với tiêu chí này, tỷ lệ viêm quanh Implant trong nghiên cứu của chúng tôi
sau 3 năm là 11,2%. Tỷ lệ này thấp hơn viêm quanh Implant trong nghiên
22
cứu của Renvert S. (2007) ở 976 trụ ghép sau 10 năm là 14,9%. Có lẽ thời
gian theo dõi của chúng tôi ngắn nên tỷ lệ viêm quanh răng cũng ít hơn.
Ngược lại, tỷ lệ viêm quanh Implant của chúng tôi cao hơn viêm quanh
Implant sau 5 năm của Brägger và cộng sự (2001) là 5,5%, Pjetursson
(2007) là 8,6%. Sỡ dĩ có sự khác nhau này là do trong cấy Implant có ghép
xương vừa tiêu xương quanh trụ vừa tiêu xương ghép vùng cổ Implant làm
cho các chỉ số mô mềm và tỷ lệ viêm quanh Implant cao hơn.
4.3.2.3. Tình trạng xương quanh implant
Tương tự đánh giá viêm quanh Implant, việc sử dụng X quang để đánh
giá xương quanh trụ và xương ghép được sử dụng phổ biến. Bởi lẽ, phương
pháp này cho hình ảnh khách quan, đánh giá riêng biệt được phần xương và
phần mềm, nhất là không xâm hại vùng liên kết giữa xương và trụ ghép nên
không ảnh hưởng đến khoảng sinh học quanh Implant, Chúng tôi đánh giá
tiêu xương quanh trụ ghép bằng phim Panorama về tiêu xương mặt gần và
mặt xa Implant ở các thời điểm trước phục hình và sau phục hình 6 tháng,
12 tháng, 24 tháng và 36 tháng Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác
biệt rõ giữa tiêu xương trước và sau phục hình. Kết quả này cũng phù hợp
với kết quả của Rossi (2010) có tiêu xương trước phục hình là 0,38 + 0,34
mm và sau phục hình là 0,33 + 0,23 mm; Nghiên cứu của Cochran (2009)
có mức tiêu xương trước phục hình là 2,44 + 1,2 mm, sau phục hình một
năm là 0,42 + 0,22 mm và sau phục hình 4 năm là 0,88 + 0,18 mm.
Nghiên cứu của Adell R. và Lekholm U. (1981) ở 2768 trụ ghép cho thấy
tiêu xương trong năm đầu tiên 1,5 mm, về sau mỗi năm tiêu 0,1 mm.
Nghiên cứu của Chung D.M. (2007) ở 339 trụ ghép cho thấy các yếu tố
chiều dài trụ, đường kính trụ, dạng phục hình trên trụ ghép, thói quen hút
thuốc lá không ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công của Implant mà ảnh hưởng
nhiều đến vấn đề tiêu xương.
Ngược lại, chúng tôi thấy vẫn còn sự tiêu xương ở các thời điểm sau
phục hình 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng và 36 tháng. Tuy nhiên, sự khác nhau
này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của
Tealdo T. (2011) ở 260 trụ ghép trong 36 tháng cho thấy tiêu xương 12
tháng là 1,9 mm, 24 tháng là 1,3 mm, 36 tháng là 0,4 mm. Nghiên cứu của
Mumcu E. (2010), Romeo E. (2007) cũng cho thấy không có sự khác nhau
về thống kê của tiêu xương ở các thời điểm sau phụ hình và mức độ tiêu
xương có xu hướng tăng ở những bệnh nhân lớn tuổi, nữ giới hoặc những
trường thiếu xương phải dùng các trụ có kích thước ngắn và nhỏ.
4.3.2.4. Tình trạng của xương ghép
Đánh giá tiêu xương ghép, chúng tôi sử dụng chủ yếu phim X quang để
đánh giá chiều cao của xương ghép. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn
các trường hợp là tiêu chiều cao xương ghép với số lượng ít chiếm khoảng 73 -
23
95% và tiêu xương trung bình chiếm 5 - 21,2% tùy từng thời điểm. Tiêu xương
nhiều chiếm 5,8% và chỉ gặp ở thời điểm trước phục hình; Về sau, xu hướng
tiêu xương ghép sau phục hình sẽ giảm dần.
Để đánh giá mật độ xương, người ta sử dụng nhiều phương pháp.Tuy
nhiên, các kỹ thuật hấp thụ năng lượng quang tuyến kép DXA với đơn vị tính
g/cm
2
và chụp cắt lớp điện toán định lượng QCT với đơn vị tính g/cm
3
tương
đương đơn vị HU trên 3D Cone beam cho kết quả chính xác cao nên được sử
dụng phổ biến. Qua kết quả đánh giá, chúng tôi nhận thấy mật độ xương có
xu hướng tăng dần theo các thời điểm về sau. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Abrahamsson và Giuseppe (2007) cho thấy sự khoáng hóa
của xương ghép ở vùng tiếp giáp bề mặt của trụ ghép bằng Titanium nhiều
hơn trụ ghép bằng kim loại Vàng, khoáng hóa vùng cổ trụ nhiều hơn vùng
chóp trụ và nghiên cứu của Langhoff J.D. (2008) cho thấy độ liên kết
xương - Implant sau 2 tuần cấy trụ là 57 - 61%, sau đó tăng dần và đạt 80 -
83% lúc 8 tuần. Điều này cho thấy sự tiêu xương ghép giảm dần và mật độ
xương tăng dần biểu hiện sự thay thế và hoàn thiện dần của xương ghép từ
tổ chức xương xung quanh. Đặc biệt, thời điểm 6 tháng sau cấy trụ là giai
đoạn tích hợp xương đã tạo được sự ổn định cơ bản về khối lượng và chất
lượng xương ghép. Đây là thời điểm thích hợp để phục hình, vừa sớm phục
hồi lại răng mất vẫn đảm bảo được sự bền vững của răng Implant .
4.3.2.5. Các yếu tố liên quan đến quá trình tiêu xương
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự khác biệt rõ giữa tiêu xương ở
người hút thuốc lá cao hơn người không hút thuốc lá với p < 0,001. Kết quả này
tương tự nghiên cứu của Lindquist (1997), Haas (1996) và nghiên cứu của De
Bruyn và Colleant (1994) cho thấy tỷ lệ thất bại của Implant ở người hút thuốc lá là
4,1%, cao hơn người không hút thuốc là 1,8%.
Như vậy, ngay sau khi cấy trụ là quá trình tích hợp xương và lành
thương của xương ghép rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bất lợi: ngoài
những yếu tố cơ học trong phẫu thuật, sự dung nạp của cơ thể với trụ ghép
và xương ghép, cơ địa loãng xương, Các yếu tố về thói quen như hút thuốc
lá, tình trạng vệ sinh răng miệng kém, chất gắn thừa, cũng ảnh hưởng đến
quá trình tiêu xương ghép và tổ chức xương quanh Implant.
4.3.2.6. Tỷ lệ thành công Implant
Tỷ lệ thành công của chúng tôi sau 3 năm theo dõi là 93,2%. Kết quả
này cũng tương đương kết quả nghiên cứu của các tác giả cấy ghép thông
thường: Nghiên cứu của Claudia (2007) ở 3578 trụ ghép có tỷ lệ thành công
84,9 - 100% trong 24 năm; Nghiên cứu của Devorah S.A. (2008) ở 3609 trụ
ghép có tỷ lệ thành công 97,3%. Nghiên cứu của Tawil G. và Younan R.
(2003) có tỷ lệ thành công chung của Implant là 95,5%. Nghiên cứu của
Kreissl (2007) sau 5 năm với 205 trụ ghép, tỷ lệ thành công chung của cấy
24
Implant là 94,5%; trong đó, tỷ lệ thành công của cầu tựa 68,6%, chụp đơn
77,6%, chụp tựa 86,1%. Nghiên cứu của Zarb G.A. và Schmitt A. (1990)
trên 374 trụ ghép cho thấy tỷ lệ thành công sau 4 - 9 năm là 89,05% và biến
chứng chủ yếu xảy ra ở giai đoạn tích hợp xương trước phục hình.
Trong nghiên cứu của Pjetursson (2008), tỷ lệ thành công sau phục hình
Implant 5 năm là 92,6%, 10 năm là 89,4%; khác với sau phục hình cầu răng
5 năm là 87,7%, 10 năm là 65%. Tương tự nghiên cứu phục hình bằng cầu
răng của Walton và cộng sự (1986), tỷ lệ thành công sau 10 năm là 75 %,
nguyên nhân thất bại chính là sâu răng và viêm quanh răng làm trụ cầu.
Như vậy, việc cấy implant có ghép xương thể hiện nhiều tính ưu việt và tỷ
lệ thành công cao. Với kết quả thành công bước đầu của nghiên cứu này hy
vọng sẽ giúp cho việc đánh giá hình thái vùng răng mất và chọn chỉ định dễ dàng
hơn trong trường hợp cấy implant có thiếu xương.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 56 bệnh nhân mất 118 răng có thiếu xương vùng răng mất
được cấy 116 trụ implant có ghép xương, chúng tôi có một số kết luận sau:
1 - Đặc điểm lâm sàng, X quang vùng răng mất
- Tỷ lệ nam nhiều hơn nữ, nhóm tuổi thường gặp 30 - 50 chiếm 58,9%
- Nguyên nhân mất răng đa dạng: biến chứng sâu răng chiếm 55,1%, viêm
quanh răng chiếm 30,5 %, chấn thương chiếm 12,7%, bẩm sinh chiếm 1,7%
- Thời gian mất răng trên 5 năm là 52,5% và trên 1 năm là 90,6%.
- Tiêu xương hàm trên nhiều hơn hàm dưới, xương vùng răng hàm nhiều
hơn vùng răng trước; tiêu xương gặp phần lớn vùng răng hàm lớn trên.
- Mật độ xương ảnh hưởng nhiều đến mức độ và hình thái tiêu xương
- Vùng răng trước có mật độ xương chủ yếu loại I và II, đa số thiếu chiều
rộng xương, mức độ thiếu xương ít
- Vùng răng hàm nhỏ và hàm lớn dưới có mật độ xương chủ yếu loại II và
III, mức độ thiếu xương ít, vị trí thiếu thường vùng cổ trụ.
- Vùng răng hàm hàm trên có mật độ xương chủ yếu loại III và IV, đa số
thiếu chiều cao xương, mức độ thiếu xương nhiều.
2 - Chọn chỉ định ghép xương và kích thước trụ
Trụ ghép hình chóp, nhiều ren xoắn, bề mặt nhám, xương dị loại dạng hạt
BiO - Oss và màng xương phù hợp cho ghép xương - cấy Implant.
Kích thước trụ phụ thuộc chiều dài gần - xa khoảng mất răng: dưới 6 mm
phù hợp trụ 3.3 và 3.7 mm, 6 - 9 mm phù hợp trụ 4.1 và 3.7, trên 9 mm phù
hợp trụ 4.8 và không phụ thuộc chiều rộng và chiều cao xương ứng dụng:
* Thiếu chiều cao xương ở răng hàm lớn trên: ghép xương vùng chóp trụ
- Dưới 5 mm: nâng xoang hở ghép xương thì một và cấy trụ thì hai.
- 5 - 7 mm: nâng xoang hở, ghép xương và cấy trụ cùng một thì phẫu thuật
- 7 - 9 mm: nâng xoang kín và cấy trụ cùng một thì phẫu thuật.
* Thiếu chiều cao xương hoặc phối hợp thiếu chiều rộng các vùng khác:
Ghép xương vùng cổ trụ
* Thiếu chiều rộng: Ghép xương mặt bên trụ
25