Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Gây hứng thú cho học sinh trong dạy học Lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.66 KB, 12 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học lòch sử, để khắc sâu, để nhớ lâu các sự
kiện lòch sử người giáo viên lòch sử cũng cần quan tâm các môn học lân cận hổ trợ cho
bài học lòch sử. Ví như một câu thơ, một đoạn thơ hay một câu trích dẫn …để các em sống
lại trong cái tinh thần lòch sử không khí của lòch sử đương thời . Trong khi một bản đồ
trận đánh , một mô hình, một bức tranh ve,õ một bức ảnh chụp … chỉ mới thỏa mãn được
một phần . Để khắc sâu, để lắng động , để trở thành tri thức học sinh còn khao khác một
cái gì đó chạm đến tâm linh , lắng vào tiềm thức, các em có thể tìm lại sự kiện lòch sử
trong kho sách vở, có thể thấy lại thời gian qua cuốn biên niên sử. Nhưng còn cái thần
thái của lòch sử, cái không khí lòch sử hào hùng, cái tâm huyết, cái tầm của thời đại …
Cái mà học sinh cũng đang chờ đợi ở người giáo viên dạy môn lòch sử.
Người giáo viên lòch sử phải biết sử dụng đến kiến thức các môn học lân cận như
đòa lí, giáo dục công dân song người giáo viên lòch sử có thể sử dụng cả văn học và các
nguyên lý về sản xuất thậm chí cả môn vật lý , hoá học …Những bộ môn lân cận sẽ làm
phong phú tri thức học sinh về bộ môn lòch sử và chính bộ môn lòch sử sẽ giúp để các bộ
môn láng giềng khác. Người giáo viên lòch sử cần quan tâm tới sự tác động lẫn nhau của
các môn học.
Vì vậy trong khoá trình lòch sử phải biết kết hợp một số câu trích dẫn, một câu văn,
câu thơ … để miêu tả, để tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động của nhân vật,
một cuộc cách mạng, một cuộc đấu tranh … điều đó làm cho giờ học lòch sử sống động
hơn, hấp dẫn học sinh hơn , học sinh sẽ yêu thích, hứng, say mê học tập môn lòch sử và
sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lòch sử. Từ những vấn đề trên tôi quyết đònh
chọn đề tài “Hãy giảm bớt sự khô khan trong dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng trong dạy học môn lòch sử từ đó tìm ra phương pháp dạy học
theo hướng tích cực để giảm bớt sự khô khan trong giờ học lòch sử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cức: Là thực trạng dạy học lòch sử của giáo viên ở trường trung học
cơ sở.
Phạm vi nghiên cứu : Trường trung học cớ sở An Dương Vương gồm :giáo viên đã và


đang giảng dạy môn lòch sử .
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng công tác giảng dạy môn lòch sử ở trường trung học cơ sở An
Dương Vương trong điều kiện giáo dục hiện nay.
Tổ chức thử nghiệm biện pháp dạy học liên môn để giảm bớt sự khô khan trong giờ
học lòch sử .
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn lòch sử ở trường
trung học cơ sở.
5. Phương pháp nghiên cứu .
Phương pháp nghiên cứu tài liệu và các văn bản về lý luận có liên quan đến đề tài
Trang 4
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm .
Phương pháp thực nghiệm sư phạm .
6. Nội dung đề tài.
Giảm bớt sự khô khan trong dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở bằng cách dẫn
chứng những câu thơ, câu văn hay đoạn trích dẫn có liên quan đến sự kiện lòch sử, bài
học lòch sử.
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở pháp lý .
Môn lòch sử vốn có vò trí, ý nghóa quan trọng đối với giáo dục thế hệ trẻ. Từ những
hiểu biết về quá khứ học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc. Tự hào với những thành tựu
dựng nước của tổ tiên, xác đònh vò trí trong hiện tại, có thái độ đúng đối với sự phát triển
hợp quy luật của tương lai. Trong Nghò quyết Hội nghò Ban chấp hành trung ương Đảng
lần thứ hai khoá VIII(tháng 2/1997)đã khẳng đònh vai trò của môn lòch sử, cùng các môn
khoa học xã hội khác trong công tác giáo dục.
Không những ngày nay Nhà nước mới quan tâm đến giáo dục mà ngay từ năm 1998
luật giáo dục cũng đã xác đònh “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực của
học sinh , bồi dưỡng năng lực học tập có lòng say mê học tập có ý thức vươn lên “

Cũng như các môn học khác đặc điểm và chức năng của mình việc học tập lòch sử lại
cần phát huy năng lực tích cực của học sinh
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đã được Đảng và Nhà nước xác đònh, hoàn chỉnh, bổ
sung qua các thời kì.
2/ Cơ sở lí luận:
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của việc dạy học ở
tường phổ thông nói chung, môn lòch sử nói riêng. Đối với môn lòch sử mà chức năng là
cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển của xã hội loài người, việc nắm
vững các sự kiện lòch sử liên quan chặt chẽ với hiểu biết tri thức về nhiều môn khoa
khọc xã xội và nhân văn và cả khoa học tự nhiên là yêu cầu quan trọng.
Việc dạy học liên môn đòi hỏi giáo viên lòch sử không chỉ có kiến thức vững vàng về
bộ môn mà còn phải nắm nội dung chương trình các môn học ở trường phổ thông như:
Đòa lí, giáo dục công dân, văn học đặc biệt là một số câu văn, câu thơ, câu trích dẫn…có
liên quan đến sự kiện lòch sử.
Việc sử dụng một số câu văn, thơ, câu trích dẫn để giảng dạy lòch sử cũng là một
hình thức dạy học liên môn.
3. Cơ sở thực tiễn
Từ nội dung và bản chất của quá trình dạy học không chỉ truyền đạt cho học sinh
những kiến thức sự kiện lòch sử một cách hời hợt cảm thấy khô khan trong giờ học lòch
sử mà cần phải làm cho giờ học đó sống động, học sinh hứng thu học tập hơn. Trong
thực tế những giờ học lòch sử có dẫn dắt một số câu thơ, câu văn, câu trích dẫn…minh
Trang 5
họa cho một sự kiện lòch sử, bài học lòch sử thì giờ học đó sinh động hơn, hấp dẫn học
sinh hơn giờ học đạt hiệu quả cao hơn.
Trong dạy học dùng thơ văn làm cho học sinh có vai trò tích cực, chủ động trong việc
học tập, qua đó các em chủ động huy động những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn
diện một sự kiện lòch sử, đồng thời học sinh còn ôn tập, cũng cố, tổng hợp các kiến thức
ở mức độ cao hơn.
Chương II
THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1. Khái quát phạm vi
Trường trung hoc cơ sở An Dương Vương là một trường đóng tại đòa bàn miền núi
thuộc xã An Thọ, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Xã có diện tích là 4274 ha gồm 5 thôn :
Phú Cần, Phú Mỹ, Lam Sơn, Kim Sơn, Quảng Đức. Theo thống kê năm 2007 xã An Thọ
có 785 hộ với 3729 nhân khẩu, 1828 Nam, 1901 Nữ.
Trường gồm 8 lớp với tổng số học sinh của trường là 240 em, số giáo viên và công
nhân viên là 22. Trường gồm có 3 tổ : tổ Sử-Đòa, tổ Toán- Lí -Hoá Thể Dục, tổâ Văn-
Ngoại Ngữ - Nhạc Hoạ trong đó tổ Sử- Đòa có 5 giáo viên và một công nhân viên.
Trường THCS An Dương Vương cơ sở vật chất còn nghèo nàn, học sinh đa số là con
gia đình có hoàn cảnh khó khăn, học sinh phần lớn sống rải rác ở các thôn, đường xá đi
lại khó khăn phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập, tuy có sự khó khăn trên thầy
và trò trường THCS An Dương Vương không ngừng phấn đấu vươn lên và đạt một số
thành tích như: Giáo viên dạy giỏi cấp huyện đặc biệt từ năm học 2006-2008 tổ Sử Đòa
có 2 giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện thuộc các môn lòch sử và môn đòa lí.
2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu
Trong việc dạy học lòch sử ở trường nói chung và ở trường học cơ sở nói riêng mỗi
người giáo viên dạy một môn học khác nhau và ai cũng lo lắng việc tiếp thu kiến thức
của học sinh về chính bộ môn mình phụ trách. Học sinh đã nghiên cứu cái gì, đang
nghiên cứu cái gì và sẽ nghiên cứu cái gì về bộ môn khác. cái đó dường như không làm
cho chúng ta quan tâm tới .Nhưng thực ra thiếu bộ môn khác thì công việc của người
giáo viên bộ môn sẽ không ổn , cũng như hàng loạt các bộ môn khác không thể thiếu bộ
môn của chúng ta.
3. Nguyên nhân của thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ thăm lớp học hỏi kinh nghiệm ở các đồng nghiệp
của trường THCS An Dương Vương tôi nhận thấy trong tiết học lòch sử hầu như giáo
viên chỉ tường thuật nhồi nhét các sự kiện lòch sử cho học sinh làm cho giờ học trở nên
cứng nhắc và khô khan, làm cho học sinh chán nãn và thậm chí không yêu thích bộ môn
lòch sử, dẫn đến kết quả của bộ môn không cao.
Bên cạnh đó học sinh chưa đầu tư cho môn học lòch sử vì cho rằng môn học này là
môn học phụ

Trang 6
Chương III
BIỆN PHÁP VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở đề xuất các giải pháp
Để khắc phục thực trạng nói trên, để nâng cao chất lượng dạy và học môn lòch sử
người giáo viên phải biết sưu tầm tài liệu, tranh ảnh… đặc biệt những câu thơ, câu văn,
những câu trích đẫn để phục vụ tiết học lòch sử không bò khô khan
2.Các giải pháp chủ yếu:
Để đáp ứng những vấn đề nêu trên trong bài viết này tôi chỉ đi sâu vào gốc độ, một
khía cạnh của vấn đề là việc sử dụng câu thơ, câu văn, đoạn trích dẫn để giảm bớt sự
khô khan trong dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở, qua khoá trình lòch sử Việt Nam
theo cấu tạo chương trình hiện hành.
Thứ nhất: Trong chương trình lòch sử lờp 6
- Khi dạy bài12 “ Nước Văn Lang “
Nhu cầu chống ngoại xâm đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự lớn mạnh
nhanh chóng của xã hội Văn Lang đương đầu với kẻ đi xâm lược, khi chống giặc thì đã
“vụt lớn nhanh như thổi”
“Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy ngàn cân
Cưỡi con ngựa sắt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng đuổi giặc n”.
(Tố Hữu- Theo chân Bác)
-Hay nói sự phân chia các tầng lớp trong thời kỳ nước u Lạc
“Quậy ủ chủ tươi, quậy cười chủ khóc”
- Khi xác đònh mục tiêu khởi nghóa Hai Bà Trưng (năm 40) khi trình bày những diễn
biến cuộc khởi nghóa giáo viên đọc luôn 4 câu thơ:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lên này”

- Trong bài19 ” Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế” ở phần sự phát triển
kinh tế xã hội và văn hoá nước ta các thế kỉ I-VI, giáo viên có thể minh họa:ï
“Trích quang nhân nghóa đạo hành
Só vương mở việc học hành chữ nho
Nhâm bày cho các nông gia
Biết dùng cày cuốc trâu bò làm nông”
- Ở Bài 20 mục 4” Cuộc khởi nghóa Bà Triệu (năm 248). vơi câu nói khẳng khái :”Tôi
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân
Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chòu khom lưng làm tì thiếp người
“. Để nói lên lòng tôn kính và ủng hộ của nhân dân đối với bà Triệu với câu ca dao:
“ Ru con con ngủ cho lành,
Trang 7
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Có bà Triệu tướng cưỡi voi đánh chồng”
Hay giặc Ngô khiếp sợ bà :
“ Hoành qua đương hổ dò
Đối diện Bà Vương nan”
-Khi dạy bài27” Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938”
Trước khi người giáo viên tường thuật trận đánh, cần phải mô tả việc Ngô Quyền
nhận đònh tình hình đòch ta và đã có chiến thuật phù hợp :”Hoàng thao là một đứa trẻ
dại, đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe được Công Tiễn đã chết, không có
ai làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta sức mạnh đối đòch với quân mỏi mệt tất phá
được. Song họ có lợi ở thuyền nếu ta không phòng bò trước thì chuyện được thua chưa
thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước vạt nhọn đầu
mà bòt sắt thuyền của họ nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc bấy giờ ta
sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả “
Điều đó sẽ thu hút sự chú ý gây hứng thú cho học sinh tiếp cận bộ môn lòch sử với
tư cách là một môn khoa học, giúp học sinh nhớ lại thời kì quá khứ cùng với bàø Trưng,
bà Triệu, Ngô Quyền phục hưng đôïc lập cho dân tộc.

Thứ hai: trong chương trình lòch sử lớp 7
- Khi giảng dạy bài11:” Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống(1075-1077)
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc
về dân tộc ta. Độc lập chủ quyền và lãnh thổ của tổ quốc được giữ vững. Mộng tưởng
xâm lược của nhà Tống hoàn toàn bò tiêu tan. Trong khí thế vươn lên của dân tộc để
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Lý Thường Kiệt đã viết lên bài thơ bất hủ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên đònh phận tai thiên thư.
Như hà nghòch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẵng hành khang thủ bại hư.”
Dòch là : “ Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành đònh phận ở sách trời.
Cớ sao lủ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bò đánh tơi bời.”
-Khi dạy bài14 :” Ba lần kháng chiến chống xâm lược Mông-Nguên thế kỉ XVIII
Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) vô cùng gay go, ác liệt nhưng thất bại của
quân thù vì thế càng nhục nhã hơn và thắng lợi của dân tộc ta lại càng vang dội. Hàm Tử,
Chương Dương, Tây Kết qua cuộc kháng chiến này đã được ghi vào lòch sử như những chiến
công ch
Ba lần kháng chiến thắng lợi ta đã tiêu diệt hàng chục vạn quân xâm lược, làm cho
kẻ thù phải khiếp sợ, không giám xâm lựơc đến nước ta. Với tâm trạng bi đát của người
lính già trong quân đội Nguyên đã từng nếm mùi thất bại
“ Lính già từng trải mùi chinh chiến
Nghe nói nam chinh ủ mặt mày”
Trang 8
(Thơ Ngyễn Trung Ngạn )
Và đây cũng là nổi lo âu của một sứ thần nhà Nguyên khi bước chân vào nước Việt:
“Bóng loè gươm sắt lòng thêm đắng
Tiếng rộn trống đồng tóc đóm hoa”
(Thơ Trần Phu)

- Bài 19” Khởi nghóa Lam Sơn(1418-1427)”
Nghóa quân Lam Sơn bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với quân thù, trong
tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch, từ tay không mà xây dựng lực lượng. Lúc mới
khởi sự quân không quá 2000 người, đó là lúc:
“Cơm không ăn đủ hai bữa
o không phân biệt độỊ”

Hay “ Khi linh sơn hét mấy tuần
Khi khôi huyện quân không một đội”
Nhưng nghóa quân vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu vì độc lập
dân tộc.
“Việc nhân nghóa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Không đầy một tháng chiến dòch Chi Lăng –Xương Giang tiêu diêt hoàn toàn 10 vạn
quân tiếp viện của nhà Minh. Đó là một chiến thắng hết sức oanh liệt và triệt để. Cả
chiến dòch là một đoàn tiến công liên tục, chủ động với lối đánh cực kì mưu trí, sáng tạo
của nghệ thuật quân sự “Lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh “ và với khí thế dũng
cảm vô song.
“Đánh trận đầu sạch sanh kình ngạc
Đánh trận nữa tan tác chim muôn
Lỗ kiến xoi, đê vỡ phá tung
Gió mạnh thổi, lá khô trút sạch”
Điều đó chứng tỏ rằng vào thế kỉ thứ XV, dân tộc Việt Nam là một dân tộc trưởng
thành, có ý thức dân tộc sâu sắc, có sức sống phi thường và năng lực sáng tạo phong
phú. Đó là một dân tộc đã có hàng ngàn năm lòch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước,
đã có năm thế kỉ sống độc lập hoàn toàn với tư cách là một quốc gia tiên tiến, không
một thế lực xâm lược nào có thể khuất phục nổi:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Cõi bờ sôn núi đã riêng

Phong tục Bắc- Nam cũng khác
Trải…Đinh,Lý trần nối đời dựng nước
Cùng Hán,Đường,Tống,Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”
( trích Bình ngô đại cáo)
- Bài25” Phong tràoTây Sơn” phần IV, mục 2” Tây Sơn đại phá quân Thanh(1789)”
Khi Giáo viên trình bày trước thế mạnh của giặc quân Tây Sơn do Ngô Văn Sở chỉ
huy, theo kế hoạch của Ngô Thì Nhậm rút khỏi Thăng Long về xây dựng phòng tuyến
Trang 9
Tam Điệp –Biện Sơn. Để học sinh hiểu được vò trí Tam Điệp giáo viên dẫn hai câu thơ
của Ngô Thì Só:
“Đoạn trụ quần sơn nhãn giới khoan
Ngư đồng thiên khổng cửa trùng quan”
(Đứng nhìn rạng núi mênh mông
Cửa trời miệng đó trấn hùng một phương)
Trước khi xuất phát Quang Trung mở tiệc khao quân và tuyên bố: “Nay hãy làm lễ
ăn tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang xuân, ngày mồng bảy vào Tăng Long sẽ mở tiệc
lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta có đúng thế không?”. Trước đó trong lời dụ tướng
só tại Thanh Hoá Quang Trung cũng đã nói lên quyết tâm sắt đá đánh tan quân ngoại
xâm để bảo vệ nền đọc dân tộc :
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc sơn hà chi hữu chủ”û
Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến
thắng khi Quang Trung Hoàng đế tiến vào kinh đô Thăng Long.
“Đầy thành già trẻ mặt như hoa
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói

Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta”
- Khi dạy bài27”Chế độ phong kiến nhà Nguyễn
Giáo viên có thể khái quát tình cảnh xác xơ của đời sống xã hội trong thời nhà Nguyễn
như:
”Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp
Ngày thê lương nặng giọt mưa sa
Đèn con con gon chiếc chiếu lôi thôi
Đêm tòch mòch soi chung vừng trăng tỏ”
Thứ ba:Chương trình lòch sử lớp 8
- Trong bài 24
Để biểu lộ sự phản đối thỉnh nộ của quanà chúng đối Vua tôi nhà Nguyễn, giáo viên
minh hoạ:
“Tò te kèn thổi tiếng năm ba
Nghe loạt vào tai luống xót xa.
Uẩn khúc sông rồng mù mòt khói
Vẳng ve thành phụng ủ sầu hoa
Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hoà
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nổi quan ta.”
(Phan Văn Trò- Cảm Khái)
Hoặc:
“…Thà thua xuống láng xuống bưng
Trang 10
Kéo ra hàng giặc lỗi chung quân thần”
Khi nêu tấm gương Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh đắm
tàu Ét-pê-răng trên sông Nhật Tảo (10/12/1861), tiêu diệt đồn kiên Giang(6/1868) giáo
viên đọc hai câu thơ ca ngợi:

“Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên đòa

Kiếm bạc Kiên Giang khóc quỷ thần”
Hoặc:
“Anh hùng cường cảnh phương danh thọ,
Tu sát đê đầu vò tử nhân…”
Dòch :
”Anh hùng cứng cổ danh còn mãi,
Thẹn chết bao nhiêu lũ cúi đầu…”
(Huynh Mẫn Đạt-điếu)
- Mục 1, phần II, bài 25”kháng chiến lan rộng ra toàn quốc(1873-1884)
Giáo viên đọc cho học sinh thấy được sự phản đối mạnh mẽcủa nhân dân sau Hiệp ước
Giáp Tuất 1874 lúc này nhân dân không chỉ chống giặc Tây mà chống cả Triều đình
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
-Trong bài29: chính sách khai thác thuộc đòa của thực dân Pháp và những chuyển
biến về kinh tế xã hội ở Việt Nam. Khi phân tích cuộc sống của người công nhân dưới
thời Pháp thuộc, có thể minh hoạ:
“Cao su đi dễ, khó về
Khi đi mất vơ khi về mất con”
Hoặc:
“ Cao su xanh tốt lạ thường
Mỗi cây bón một xác người công nhân”
Khi trình bày chính sách bóc lột của thực dân Pháp có thể dẫn:
“Trời đất hởi! Dân ta khốn khổ
Đủ các đường thuế nọ, thuế kia
Lưới vây chài quét trăm bề
Róc xương, róc thòt, còn gì nữa đâu!”
(Nguyễn Phan Lãng – Thiết Tiền Ca)
-Trong bài 30: Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918, ở
phần II, mục3 Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi tìm đường cứu
nước. Những ngày tháng sống ở Anh làm công việc cào tuyết trong một trường học:

“Và sương mù thành Luân Đôn.
Người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm đông”
Những ngày tháng sống ở Pa ri giá lạnh “Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một
mùa đông băng giá”
Thứ tư: Chương trình lòch sử lớp 9
Trang 11
-Trong bài16: Hoạt động của Nguyễn i Quốc ở nước ngoài (1919-1925)
Nguyễn i Quốc đã bôn ba khắp năm châu, bốn biển để tìm con đường giải phóng cho
dân tộc, đem lại ấm no cho nhân dân. Câu chuyện cảm động khi Nguyễn i Quốc đọc
“Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc đòa” của Lênin. Nguyễn i Quốc bật
khóc :
“Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im, nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.”
(Chế Lan Viên)
- Khi dạy bài 22: Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghóa năm 1945, mục I- Mặt
trận Việt Minh ra đời.
Sau những nyày bôn ba năm 1941. Nguyễn i Quốc trở về tổ quốc
Giáo viên minh hoạ :
“Bác đã về đây tổ quốc ơi
Nhớ thương hòn đất ấm hơi người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi”
(Tố Hữu-Theo chân Bác)
- Bài 27, mục II-chiến dòch Điện Biên Phủ. Với tinh thần tất cả cho tuyền tuyến, tất
cả để chiến thắng được thể hiện qua bài thơ “Hoan ho chiến só điện biên”
“Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non

Gan không núng chí không mòn”
Với gương hi sinh của Tô Vónh Diện, Nguyễn Văn Chức:
“Những đồng chí chèn lưng kéo pháo
Nát thân nhăm mắt còn ôm “
Nói về công binh:
“Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất đònh mở đường cho xe ta ra chiến trường tiếp viện”
- Khi trình bày quyết tâm của Bôï chính trò giải phóng quân miền Nam trong năm
1975, người giáo viên có thể minh hoạ câu thơ sau:
“Anh ra đi dặn thắng mới về
Phút giây cảm động nói năng chi
Lời anh là cả lời non nước
Nghìn dặm trường sơn sá ngại gì”
(Lê Đức Thọ)
- Bài 30: Hoàn thành giải phóng Miền Nam giải phóng đất nước. Ngày 30/4/1975 là
ngày hội của cách mạng, quần chúng đổ xô xuống đường với cờ hoa lộng lẫy, ngày toàn
thắng đã về ta, ngày giang sơn thu về một mối :
“Ôâi buổi trưa nay tuyệt tràn nắng đẹp
Bác Hồ ơi toàn thắng đã về ta
Trang 12
Chúng con đến xanh ngời ánh thép
Thành phố tên người lộng lẫy cờ hoa”
(Tố Hữu)
Các tác phẩm văn học trên đây, bằng những hình tượng cụ tthể, có tác động mạnh
mẽ đến tư tưởng, tình cảm người đọc qua các bài học lòch sử.
3/ Tổ chức triển khai thực hiện:
Đề tài này được áp dụng rộng rải cả cấp học, ở các lớp 6,7,8,9 chủ yếu là chương trình
lòch sử Việt Nam
Năm học 2007-2008 Tôi được phân công giảng dạy môn lòch sử lơp 8, tôi áp dụng đề
tài này đạt được kết quả sau:

KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN LỊCH SỬ
Năm học:2007-2008
Học kỳ I
Lớp dạy/
số lượng
Giỏi
Khá
Trung
bình
Yếu Trung bình
trở lên
Ghi
chú
SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(

0
/
0
)
Lớp8A/27
5 18,5 17 63 5 18,5 0 0 27 100
Lớp8B/27
6 22,2 16 59,3 5 18,5 0 0 27 100
8A,B/53
11 20,4 33 61,1 10 18,5 0 0 54 100
Học kỳ II
Lớp dạy/
số lượng
Giỏi Khá Trung
bình
Yếu Trung bình
trở lên
Ghi
chú
SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/

0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
)

Lớp8A/26 3 11,5 10 38,5 13 50,0 0 0 26 100 Bỏhọc1
Lớp8B/27 4 14,8 10 37,0 13 48,2 0 0 27 100
8A,B/53 7 13,2 20 37,7 26 49,1 0 0 53 100
Cả năm
Lớp dạy/
số lượng
Giỏi Khá Trung
bình
Yếu Trung bình
trở lên
Ghi
chú
SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/

0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
)
Lớp8A/2
6
5 19,2 10 38,5 11 42,3 0 0 26 100 Bỏhọc
1
Lớp8B/27 4 14,8 13 48,2 10 37,0 0 0 27 100
8A,B/53 9 17,0 23 43,4 21 39,6 0 0 53 100
Trang 13
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trong dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở, giáo viên phải hết sức chú trọng
việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lòch sử, bởi vì các tác phẩm văn học sẽ góp
phần quan trọng cho bài giảng lòch sử sinh động, hấp dẫn, nâng coa hứng thú học tập lòch
sử cho học sinh.
Thơ, văn, đoạn trích là rất phong phú, song người giáo viên phải biết chọn lọc những
câu tiêu biểu, ăn khớp phản ánh lòch sử có trong bài học, thì sẽ gây kích thích, hứng thú
phát triển tư duy lòch sử cho học sinh, nhất là phải tìm được những đoạn văn, câu thơ,

đoạn trích dẫn … hoà nhập với sự kiện lòch sử, đưa ssụ kiện lòch sử ấy thẩm thấu vào trí
nhớ và tâm hồn các em.
Dùng thơ, văn, đoạn trích … dù một chút thôi vào những lúc cần thiết sẽ có tác dụng
lớn lao trong dạy học lòch sử. Chính một chút ấy đã đánh thức, khơi lên biết bao hoài
cảm về ước mơ, góp phần cho việc hình thành nhân cách học sinh.
Việc dạy học dùng thơ văn để giảng dạy lòch sử là rất quan trọng góp phần bổ sung
làm phong phú thêm nội dung bài học
2. Kiến nghò:
Để đạt hiệu quả tốt hơn khi sử dụng một số câu văn, thơ day học lòch sử giáo viên cần
sưu tầm và có chọn lọc.
Thực hiện phải linh hoạt, không bắt buộc.
* Tôi sẽ chòu trách nhiệm về đề tài này.
Trang 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa và sách giáo viên lòch sử 6,7,8,9
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III (2004-2007) môn
lòch sư quyển 2, NXB Giáo dục
- Phan Ngọc Liên (chủ biên) Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lòch
sử ở trường trung học cơ sở, NXB Giáo dục- 1999
- Trương Hữu Quýnh (chủ biên) Đại cương lòch sử Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục-
1999
- Nguyễn Bích Thuận (chủ biên) Tác giả tác phẩm cổ điển Nguyễn Trãi, NXB
Đồng Nai
- Thơ của Nguyễn Trung Ngạn; Cao Bá Quát; Phan Văn Trò; Nguyễn Phan Lãng;
Chế Lan Viên; Tố Hữu; Lê Đức Thọ;
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
Trang 15

×