Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phương pháp sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy lịch sử lớp 9 phần lịch sử việt nam nhằm gây hứng thú cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.5 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN TĨNH GIA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG
GIẢNG DẠY LỊCH SỬ LỚP 9 PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM NHẰM
GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH

Người thực hiện: Lê Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Hải Yến
SKKN thuộc môn: Lịch sử

THANH HOÁ NĂM 2016


MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề
B. Giải quyết vấn đề
I.Cơ sở lí luận
II. Cơ sở thực tiễn
III. Thực trạng vấn đề
IV.Giải pháp thực hiện
Phần thứ nhất :Những yêu cầu cần đạtvà những điều cần tránh khi
sử dụng phương pháp
Phần thứ hai :Phương pháp sử dụng kiến thức liên môn trong giảng
dạy một số tiết bài lịch sử lớp 9 phần lịch sử Việt Nam cụ thể
V. Hiệu quả áp dụng
C. Kết luận :


I. Ý nghĩa đề tài
II. Bài học kinh nghiệm
III. Đề xuất, kiến nghị

2

Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 8
Trang 22
Trang 23
Trang 23
Trang 23
Trang 24


Đề tài :
“PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN
TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ LỚP 9 PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM
NHẰM GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang bước vào thời kì CNH-HĐH, thời kì đòi hỏi sự phát triển
toàn diện của con người . Để đáp ứng yêu cầu của xã hội, ngành Giáo dục & Đào
tạo đã và đang tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, nâng cao chất lượng

giáo dục .
Việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đã và đang được
giáo viên các cấp học nghiên cứu, sử dụng đem lại sự hứng thú cho học sinh, phát
huy tính tích cực cho học sinh. Trong những năm gần đây, nhờ sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin, sự phát triển rộng rãi của các nguồn thông tin đại chúng, việc dạy
học bằng phương pháp mới của giáo viên có nhiều thuận lợi .
Cũng như các môn học khác ở trường THCS, môn Lịch sử đòi hỏi giáo viên
phải thực hiện giảng dạy theo kĩ thuật mới, phương pháp mới kết hợp với phương
pháp truyền thống, rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, nhận định , đánh giá
các vấn đề lịch sử, các sự kiện lịch sử . Bên cạnh đó, Lịch sử là môn học về nhân
loại, về dân tộc trong quá khứ để giúp học sinh rút ra bài học lịch sử thấy được
trách nhiệm của bản thân đối với đất nước,cùng các môn học khác hình thành và
phát triển nhân cách cho học sinh. Lịch sử là một khoa học không tách riêng mà
ngược lại gắn bó với các môn khoa học xã hội khác như Văn học, Địa lí...được ông
cha ta phản ánh bằng nhiều cách khác nhau. Một sự kiện lịch sử thời cổ, trung đại
hay một sự kiện lịch sử thời hiện đại đều có thể được tái hiện bằng nhiều cách khác
nhau. Có thể là các con số, những địa danh, những nhân vật , có thể là chuyện kể,
có thể là bài vè, bài thơ, bài hát ...Một sự kiện lịch sử gắn với địa danh lịch sử, gắn
với những chủ trương, chính sách Đảng, và gắn với những con người làm nên lịch
sử . Dạy Lịch sử không đơn thuần là dạy các con số, các sự kiện với các mốc thời
gian trong quá khứ, bắt học sinh phải ghi nhớ một cách thụ động, máy móc. Ngược
lại, dạy lịch sử phải gắn với chính trị , xã hội, văn học nghệ thuật, địa lí và nhiều
lĩnh vực khác để trong tiết học lịch sử , học sinh được khám phá, được thưởng
thức, được suy ngẫm, được nhận xét đánh giá các vấn đề của lịch sử . Có như vậy,
học sinh mới hứng thú, say mê học sử, mới nhớ các sự kiện lịch sử . Giờ học lịch
sử sẽ được học sinh đón nhận với tâm lí vui vẻ, hứng khởi .
Xuất phát từ yêu cầu của ngành Giáo dục, xuất phát từ yêu cầu của môn lịch
sử ở trường THCS, qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, tôi đã học hỏi, đúc rút được
một số kinh nghiệm về phương pháp sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy
lịch sử nhằm gây hứng thú cho học sinh.Vì vậy, tôi đưa ra sáng kiến-kinh nghiệm

với đề tài : Phương pháp sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy lịch sử lớp 9
phần lịch sử Việt Nam nhằm gây hứng thú cho học sinh
Trong khuôn khổ đề tài, tôi không có tham vọng mở rộng, chuyên sâu về
phương pháp dạy học tích cực này, chỉ đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân về
3


những điều cần làm , những điều cần tránh khi thực hiện phương pháp và một số
tiết bài cụ thể môn lịch sử lớp 9 phần lịch sử Việt Nam được sử dụng kiến thức
liên môn trong giảng dạy để đồng nghiệp tham khảo
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Như chúng ta đều biết, theo các chuyên đề về đổi mới và thực hiện phương
pháp dạy học tích cực, đối với môn lịch sử ở trường THCS, dạy học theo phương
pháp liên môn có vai trò quan trọng , góp phần bổ sung kiến thức khoa học toàn
diện cho học sinh, đồng thời giúp học sinh hứng thú với môn học, góp phần nâng
cao hiệu quả giờ học. Trong giảng dạy môn Lịch sử, việc dạy học theo phương
pháp sử dụng kiến thức liên môn được thực hiện tính kế thừa trong nhận thức các
nội dung chương trình lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới từ cổ đến kim, làm cho
học sinh hiểu rõ sự phát triển của xã hội một cách liên tục, thống nhất . Học sinh
nhận thấy mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội , tính toàn
diện của lịch sử .
Theo yêu cầu của Bộ Giáo dục & Đào tạo, việc dạy học sử dụng kiến thức
liên môn đòi hỏi giáo viên môn Lịch sử không chỉ có kiến thức đầy đủ, vững vàng
về bộ môn mà còn phải nắm được kiến thức các môn khoa học xã hội khác liên
quan đến lịch sử . Đồng thời, giáo viên phải có kiến thức về các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội như nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật điện ảnh, thơ ca ,
hội họa...và cập nhật các thông tin sự kiện hằng ngày có liên quan đến môn Lịch sử
.Về phía học sinh, cần phát huy tính tích cực, chủ động huy động vốn kiến thức đã
có của môn học khác, lĩnh vực khác để hiểu sâu , hiểu toàn diện một sự kiện lịch

sử . Hơn nữa, học sinh sẽ được bổ sung, hoàn thiện kiến thức về môn học khác,
lĩnh vực khác ở mức độ cao hơn .
Như vậy, sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy lịch sử là vấn đề Bộ
Giáo dục & Đào tạo yêu cầu giáo viên, học sinh thực hiện từ trước . Đây là một
phương pháp dạy học tích cực, có ý nghĩa đối với hiệu quả dạy học mà toàn ngành
Giáo dục đang hướng tới .
Tuy nhiên, cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, phương pháp
này được áp dụng tùy nội dung cụ thể cho các tiết học, bài học . Có nội dung cần
tích hợp kiến thức liên môn thì giáo viên nên áp dụng, không phải tiết nào, mục
nào cũng thực hiện.
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng công nghệ thông tin và
sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào giảng dạy là một yêu cầu của ngành đồng thời
là việc làm thường xuyên, quen thuộc của giáo viên cấp THCS hiện nay.
Trong giảng dạy môn Lịch sử , nhiều giáo viên đã thu hút học sinh say mê
hứng thú với môn học bằng sự am hiểu kiến thức sâu rộng về các vấn đề, các sự
kiện lịch sử, kết hợp với sử dụng các phương pháp kĩ thuật dạy học mới trong đó
có phương pháp sử dụng kiến thức liên môn ở một số tiết bài, một số đơn vị kiến
thức. Giờ học Lịch sử được giáo viên chuẩn bị chu đáo, có sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin rất thoải mái với học sinh. Học sinh không còn quan niệm về môn học
khô khan, dài dòng với những sự kiện, con số khó nhớ, khó hiểu .
Phương pháp này đã được một số giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy sử
dụng từ trước, song vấn đề chỉ được đưa ra trao đổi , thảo luận bàn bạc ở các buổi
4


sinh hoạt chuyên môn của các tổ khoa học xã hội từ khi thực hiện chuyên đề đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực . Từ đó nhiều giáo viên đã nghiên
cứu và sử dụng, nhận thấy hiệu quả rõ rệt của phương pháp mới này –đó là học
sinh hứng thú đón nhận giờ học lịch sử . Tùy nội dung cụ thể của bài giảng , giáo

viên sử dụng nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau , Có thể kết hợp sử
dụng đồ dùng trực quan từ tranh ảnh, bản đồ, lược đồ treo tường (hoặc máy chiếu)
với kênh chữ SGK, kết hợp với hệ thống câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi tình huống,
câu hỏi gợi mở, câu hỏi dẫn dắt của giáo viên . Học sinh được trao đổi, thảo luận
qua hoạt động nhóm, trình bày cảm nhận, suy nghĩ, đánh giá. Kết hợp các phương
pháp đặc trưng này với sử dụng kiến thức liên môn, giáo viên sẽ tạo cho giờ học sự
hấp dẫn, thoải mái . Các phương pháp này được kết hợp nhuần nhuyễn hay không,
đó là tùy thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên .Thực tế hiện nay, nhiều giáo
viên đã rất cố gắng thu hút học sinh học lịch sử, học sinh hào hứng với giờ học lịch
sử . Đây chính là một chuyển biến cần ghi nhận trong thực tế dạy-học môn lịch sử
ở trường THCS hiện nay.
III.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Nhìn chung, trong các nhà trường THCS, cũng như tất cả các môn học
khác, đa số giáo viên dạy môn lịch sử có ý thức thực hiện phương pháp dạy học
mới trên cơ sở kế thừa và phát huy điểm tiến bộ của phương pháp truyền thống.
Sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử không còn là vấn đề xa lạ với
giáo viên .Tuy nhiên, vẫn còn một số giáo viên chưa sử dụng phương pháp này.
Ngoài những tiết thao giảng có sự chuẩn bị, đầu tư công phu kĩ lưỡng, còn lại
những tiết dạy bình thường họ chỉ quan tâm dạy hết kiến thức trong sách giáo
khoa. Những giáo viên đó chưa có kiến thức về đời sống xã hội hoặc kiến thức về
các môn học khác có liên quan đến bài học lịch sử . Họ chỉ có chiếc mõ là cuốn
sách giáo khoa để gõ trong suốt giờ học . Học sinh đọc sách thấy thầy cô nói đúng
như sách nên không thắc mắc, không tích cực suy nghĩ nên giờ học buồn tẻ , khô
khan. Chính vì thế có học sinh bỏ tiết ,trốn học , ngủ trong giờ học hoặc nói
chuyện riêng gây mất trật tự. Một số giáo viên có ý thức sử dụng phương pháp
nhưng lại lúng túng trước rất nhiều đơn vị kiến thức liên quan đến nội dung bài học
mà không biết cách lựa chọn, khai thác, sử dụng một cách hiệu quả .Vì vậy còn
hiện tượng giáo viên sa đà vào phần bổ trợ để mất thời gian dạy kiến thức cơ bản
trọng tâm của bài hoặc cung cấp kiến thức một chiều cho học sinh, xa rời nội dung
bài học v.v..

Như vậy, thực trạng vấn đề cho thấy sử dụng kiến thức liên môn trong giảng
dạy lịch sử ở trường THCS hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản. Không phải
chỉ cần giáo viên có đầy đủ kiến thức bộ môn là có thể dạy tốt môn lịch sử . Đồng
thời không phải có nhiều kiến thức, hiểu biết về lĩnh vực khác liên quan đến lịch sử
là có thể đưa vào bài giảng lịch sử . Bên cạnh đó, một số giáo viên còn xem nhẹ
phương pháp này hoặc đang lúng túng trong quá trình thực hiện .

5


IV. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG YÊU CẦU CẦN ĐẠT VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN TRÁNH KHI
THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN
TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS
1. Giáo viên dạy môn lịch sử không chỉ nắm vững nội dung chương trình lịch
sử cấp THCS cũng như mục tiêu từng chương, bài cụ thể mà còn phải nắm
được phần kiến thức liên quan đến lịch sử của các môn khoa học xã hội khác
như Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân .
Vì sao phải đặt yêu cầu cao như vậy ?
-Thứ nhất: Dạy học lịch sử sử dụng kiến thức liên môn hoàn toàn không phải là
giáo viên có kiến thức và cung cấp một chiều cho học sinh. Thực hiện phương
pháp này là giáo viên giúp học sinh vận dụng kiến thức các môn học khác đã ,đang
và sẽ học để hiểu bài học lịch sử .
-Thứ hai : Trên cơ sở sự hướng dẫn của giáo viên , học sinh được hệ thống kiến
thức hoặc xâu chuỗi kiến thức, phát triển khả năng tư duy, tổng hợp, phân tích ,
khả năng đánh giá các vấn đề lịch sử .
Nếu phần kiến thức liên môn thuộc các lớp mà học sinh đã học thì việc sử dụng
sẽ dễ dàng hơn phần kiến thức các em chưa học ở lớp trên . Nếu giáo viên không
hiểu kiến thức liên quan bằng học sinh (vì các em đã được học) thì thật là một điều

đáng trách – dẫn tới ảnh hưởng chất lượng giờ học cũng như ảnh hưởng đến uy tín
của người thầy trong mắt học sinh.
Như vậy, nếu giáo viên không nắm được những phần kiến thức liên môn liên
quan đến nội dung bài học lịch sử thì sẽ rất khó khăn trong việc thực hiện phương
pháp này . Nếu giáo viên nắm được phần kiến thức liên môn sẽ có những giải pháp
phù hợp trong cách khai thác kiến thức , cách tổ chức giờ học gây hứng thú cho
học sinh.
Ví dụ : Khi dạy Lịch sử lớp 6 phần lịch sử Việt Nam , bài 12, tiết 13 “Nước
Văn Lang” , giáo viên nên khai thác kiến thức Ngữ văn lớp 6 phần Truyền thuyết
“Bánh chưng, bánh giầy” , “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, “Thánh Gióng”(Ngữ văn 6 –
tập 1) bằng một số câu hỏi tình huống để kết hợp với kiến thức các em đã có, tái
hiện lại quá khứ dựng nước, giữ nước của ông cha trong những năm đầu của lịch
sử dân tộc.
-Trước khi dạy bài lịch sử lớp 7, tiết 53 “Phong trào nông dân Tây Sơn” phần
“Quang Trung đại phá quân Thanh”, GV nên giới thiệu cho học sinh văn bản
“Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” và “Hoàng Lê nhất thống chí” (sách Ngữ văn
lớp 9 –tập 1) để cho HS tham khảo. Gv giao bài tập cho HS tìm thông tin hỗ trợ
cho bài học lịch sử , hiểu về anh hùng dân tộc Quang Trung –Nguyễn Huệ sâu sắc
hơn.
2. Giáo viên phải chú ý kết hợp nguồn kiến thức liên môn với cập nhật thông
tin từ các nguồn thông tin đại chúng chính thống, khoa học đê bổ sung vào
bài học lịch sử .
6


Tránh trường hợp thầy lạc hậu hơn trò –học sinh nắm được thông tin mới
mà giáo viên không biết hoặc biết không đầy đủ, không chính xác. Bởi vì chúng ta
đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin, nhiều học sinh sống trong điều kiện gia
đình có ông bà, cha mẹ quan tâm đến các vấn đề thời sự , các em quan tâm theo dõi
thời sự hoặc những sự kiện chính trị nổi bật.

Ví dụ :Khi dạy lịch sử lớp 7, tiết 14, bài 10 “Nhà Lí đẩy mạnh công cuộc
xây dựng đất nước” ,GV cần giới thiệu cho HS tham khảo văn bản “ Chiếu dời
đô” của Lí Công Uẩn (Ngữ văn 8 ,tập 2) để học sinh đọc toàn văn chiếu chỉ lịch
sử này đồng thời kết hợp tư liệu về sự kiện Lễ kỉ niệm “Một ngàn năm Thăng
Long-Hà Nội” năm 2010 để khắc sâu cho HS niềm tự hào về thủ đô có bề dày lịch
sử, giáo dục HS lòng ngưỡng mộ công lao, tài năng của nhân vật lịch sử Lí Công
Uẩn và vương triều Lí .
Khi dạy về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954 của lớp 9, giáo viên
không thể không nói về Bác Hồ , Đại tướng Võ Nguyên Giáp với công lao, sự
nghiệp của Người . Đặc biệt nhất là tình cảm của toàn quân, toàn dân ta dành cho
Bác Hồ, cho Đại tướng khi Bác ra đi về cõi vĩnh hằng .Từ đó khơi dậy cho học
sinh lòng kính trọng, biết các anh hùng ,liệt sĩ vì dân vì nước ,biết trân trọng cuộc
sống hòa bình, thấy được trách nhiệm của mình đối với đất nước.
3. Giáo viên cần trau dồi, tham khảo kiến thức của nhiều lĩnh vực khác như
văn học, âm nhạc, hội họa , kiến trúc điêu khắc, địa lí, giáo dục công dân
...liên quan đến bài học lịch sử .
Tại sao giờ học lịch sử lại cần đến kiến thức những lĩnh vực này ?
Giả sử một đầu bếp giỏi được thử tài nấu nướng. Người ta chỉ cho họ nấu
món ăn đó với nguyên liệu chính, không cho sử dụng gia vị thì món ăn đó có được
khen ngon so với món ăn được chế biến với các loại gia vị vừa đủ hay không ?
Dạy lịch sử sử dụng kiến thức liên môn phù hợp cũng giống như nấu ăn sử dụng
gia vị vừa phải, đúng lúc, làm cho món ăn hấp dẫn, ngon mắt , ngon miệng . Có
thêm kiến thức bổ trợ vừa phải, hợp lí, học sinh sẽ thích thú, say mê khám phá sự
kiện lịch sử, vấn đề lịch sử và lĩnh hội kiến thức lịch sử .Bởi vì chúng ta đã biết
các vấn đề của lịch sử không đứng riêng mà gắn bó biện chứng với các khoa học
xã hội khác, với nghệ thuật : Một tác phẩm văn học, một tác phẩm điêu khắc hay
bài thơ, bài hát được sáng tác để ca ngợi những con người làm nên lịch sử , những
địa danh lịch sử, những tháng năm lịch sử ....hoặc những sự kiện lịch sử còn mãi
với thời gian , gắn bó với dân tộc trong hành trình đi tới tương lai. Giáo viên cần
khéo léo đưa vào bài giảng một chi tiết nhỏ, một câu danh ngôn hay một câu thơ

làm xúc động lòng người sẽ để lại cho học sinh ấn tượng sâu sắc về nhân vật lịch
sử hoặc sự kiện lịch sử . Đó là kinh nghiệm thu hút học sinh học lịch sử, hiệu quả
đem lại cao hơn hẳn kiểu nhồi nhét kiến thức khô khan .
Ví dụ : Khi dạy Lịch sử lớp 9, tiết 19, bài 16: “ Những hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc ở nước ngoài” , GV nên đọc những câu thơ xúc động của nhà thơ Chế Lan
Viên trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” thật diễn cảm, thật sâu lắng ,
những câu thơ vừa làm cho giờ học thay đổi không khí, vừa làm cho học sinh có
tình cảm xúc động, thấm thía lời giảng của thầy cô.
Có thể khẳng định rằng, ở phần này có rất nhiều kiến thức liên môn có thể
sử dụng , song trong đó có hai nguồn kiến thức liên môn cơ bản mà giáo viên có
thể sử dụng hiệu quả để giảng dạy lịch sử . Một là các tác phẩm văn học trong
7


chương trình môn Ngữ văn cấp Trung học cơ sở . Bên cạnh đó là những tác phẩm
văn học để đời của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng hoặc trong chương trình Ngữ
văn cấp Phổ thông trung học v.v... Hai là những những bài ca đi cùng năm tháng
của các nghệ sĩ về các sự kiện lịch sử là một nguồn tư liệu dồi dào, vô cùng quý
giá cho giáo viên nghiên cứu , chọn lựa sử dụng .
4. Phương pháp, cách thức sử dụng kiến thức liên môn trong bài giảng lịch sử
rất phong phú, đa dạng .
Sau khi đã có một lượng kiến thức liên môn liên quan đến nội dung bài
giảng lịch sử tương đối, giáo viên phải có sự tìm tòi, lựa chọn đơn vị kiến thức
liên môn phù hợp đem lại hiệu quả thiết thực nhất. Tùy nội dung tiết học, tùy đối
tượng học sinh ở các vùng miền để sử dụng kiến thức liên môn cho hợp lí . Không
phải bài giảng nào, mục nào cũng sử dụng phương pháp này .
Giáo viên có thể lựa chọn một số phương pháp sử dụng kiến thức liên môn
sau đây :
- Đưa kiến thức liên môn ở phần giới thiệu bài để định hướng kiến thức bài học
cho học sinh, gây hấp dẫn ngay từ đầu giờ học.

- Sử dụng câu hỏi có vấn đề, câu hỏi tình huống từ kiến thức liên môn để mở rộng
vấn đề (dành cho học sinh khá giỏi)
- Gợi nhắc đến kiến thức liên môn liên quan đến nội dung bài học để học sinh có
kiến thức sâu, nhớ vấn đề của kiến thức liên môn, củng cố kiến thức môn liên quan
và ngược lại, nhớ và hiểu vấn đề lịch sử đang học .
- Sử dụng kiến thức liên môn mà học sinh đã có để giúp học sinh tiếp cận kiến thức
lịch sử một cách hào hứng –kèm theo lời khen ngợi của giáo viên
- Một đoạn băng hình tư liệu liên quan nội dung bài học hoặc một đoạn thơ, câu
thơ , một đoạn hay nhất trong một ca khúc chọn lọc. (Dùng băng đĩa , máy chiếu
hoặc do giáo viên thể hiện . Nếu có đủ thời gian, vào cuối giờ, có thể giáo viên
hoặc cho học sinh trình bày một đoạn của ca khúc có liên quan đến nội dung bài
học). Nếu phần trình bày chất lượng- có nội dung chọn lọc tiêu biểu sát bài học,
chất giọng tốt, truyền cảm có thể khiến học sinh nhớ mãi về nội dung và tiết học
hôm đó, tác dụng giáo dục đạt rất tốt. Đây là phương pháp được sử dụng kết hợp
hiệu quả. Phương pháp này dành cho các sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại
- Cho học sinh tìm hiểu kiến thức liên môn qua dạng bài tập về nhà hoặc chuẩn bị
bài mới (dành cho những phần mà các em chưa được học ở các lớp trên, cần có
thời gian tìm hiểu ) .
5. Những điều chú ý cần tránh khi sử dụng phương pháp dạy học kết hợp
kiến thức liên môn:
Đây là 5 điều giáo viên phải tránh khi sử dụng phương pháp này
- Đưa kiến thức liên môn vào bài giảng một cách thụ động, máy móc, gò ép, rời
rạc, không gây hứng thú cho học sinh.
- Đưa kiến thức liên môn không đúng lúc, đúng chỗ, xa rời nội dung bài học, tản
mạn dài dòng làm mất thời gian . Phần kiến thức trọng tâm không được chú trọng,
lại sa đà vào kiến thức bổ trợ, dẫn đến dạy không hết bài .
- Lạm dụng, tham kiến thức mở rộng từ nhiều nguồn kiến thức liên môn, không
lựa chọn làm ảnh hưởng thời gian của các nội dung khác trong bài học.
8



- Phần kiến thức liên môn của giáo viên hạn chế, giáo viên trình bày không chính
xác, sai thông tin, sự kiện hoặc trình bày vài câu thơ không diễn cảm, không trôi
chảy. Sai lầm này làm phản tác dụng, làm mất hiệu quả sử dụng tích hợp kiến thức
- Giao bài tập tìm hiểu bài học lịch sử từ môn học khác cho học sinh về nhà nhưng
không kiểm tra, đánh giá, gây cho học sinh tâm lí chán nản hoặc không hào hứng
khi làm bài tập .
Tóm lại : Không có duy nhất một phương pháp dạy học trong một tiết học,
cũng không có phương pháp dạy học nào là tối ưu .Mỗi phương pháp dạy học đều
có ưu điểm và một số hạn chế nhất định. Việc sử dụng kiến thức liên môn trong
giảng dạy lịch sử là một phương pháp được đưa vào hệ thống phương pháp mới
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh có nhiều mặt tích cực , song
nếu giáo viên không nắm vững phương pháp , còn mắc vào những sai lầm trên sẽ
làm cho giờ học lịch sử không có chất lượng .

PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢNG
DẠY MỘT SỐ TIẾT, BÀI LỊCH SỬ LỚP 9PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM
1. Bài 14, tiết 16: Việt Nam sau chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Mục II. Các chính sách chính trị, văn hóa, giáo dục.
Khi giảng giáo viên có thể trích dẫn :“Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường
học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi của ta. Chúng
tắm những cuộckhởinghĩacủa ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi
hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống
ta suy nhược...”
( Trích: Tuyên ngôn độc lập- Hồ Chí Minh)
Đây là dẫn chứng chứng tỏ chính sách bóc lột thâm độc của thực dân Pháp đối
với nhân dân ta, bác bỏ luận điệu “ Khai phá văn minh” của mẫu quốc. Qua đó
giáo dục lòng yêu nước, giáo dục lòng căm thù giặc cho học sinh.
Mục III. Xã hội Việt Nam phân hóa :

Phân tích sự phân hóa xã hội Việt Nam do ảnh hưởng của chính sách khai
thác bóc lột của thực dân Pháp, thái độ chính trị và khả năng cách mạng của của
các giai cấp trong xã hội Việt Nam
III.4. Giai cấp nông dân :
Nội dung cơ bản : Nông dân chiếm 90% dân số , bị bóc lột nặng nề bằng các
thủ đoạn sưu cao thuế nặng ,tô tức , phu phen. Họ bị bần cùng hóa và phá sản trên
quy mô lớn.
Để giúp học sinh dễ hiểu tình cảnh người nông dân Việt Nam trước Cách mạng với
những nỗi khổ do sưu thuế và bị bần cùng hóa như thế nào , trong quá trình giảng
dạy, giáo viên cho học sinh liên hệ với tình cảnh gia đình chị Dậu trong trong tiểu
thuyết “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố với đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” (Ngữ
9


văn 8- tập1 ), liên hệ tới tình cảnh lão Hạc, trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn
Nam Cao (Ngữ văn 8- tập1 ). Một cách khác là trích vài câu thơ :
Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi
III. 5. Giai cấp công nhân:
Nội dung cơ bản :Đây là giai cấp phát triển khá nhanh, ngoài một số đặc điểm , họ
còn có quan hệ tự nhiên và gần gũi với giai cấp nông dân ,xuất thân từ nông dân..
Sau đó giáo viên có thể trích những câu thơ :
“Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào đất đỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”
(Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu)
Hoặc:

“ Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”
Hay:
“ Cao su đi dễ khó về
Khi đi mất vợ, khi về mất con”
(Ca dao)
Hoặc: “Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu
thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên
liệu.Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta nhất là dân cày và dân
buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên. Chúng bóc
lột công nhân vô nhẫn...”
(Trích: Tuyên ngôn độc lập-Hồ Chủ Tịch )
Các câu thơ này và đoạn trích trong Tuyên ngôn độc lập giúp cho học sinh
hiểu được chính sách bóc lột của thực dân Pháp đối với nhân dân ta và giáo dục
lòng căm thù giặc cho học sinh, có thái độ thương yêu những người lao động chân
chính.Đồng thời giáo viên dễ dàng giúp học sinh hiểu thái độ chính trị của từng
giai cấp . Hiểu vì sao nông dân , công nhân theo đường lối cách mạng đấu tranh
giải phóng cuộc đời nô lệ lầm than, giải phóng dân tộc,
2.Bài 16,tiết 19: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong
những năm 1919-1925
Mục 1: Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917-1923)
Giáo viên có thể chọn một trong các tư liệu sau
- Sau khi cho học sinh nhắc lại sơ lược tiểu sử Nguyễn Ái Quốc, sự kiện người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Nhà
Rồng ngày 5/6/1911(đã học ở cuối học kì 2, lớp 8) với hình ảnh “Đất nước đẹp vô
cùng nhưng Bác phải ra đi” hay “Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ....Xa nước rồi
càng hiểu nước đau thương’’(Người đi tìm hình của nước- Chế Lan Viên .
10



Giai đoạn từ tháng 7/1911 đến năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đã đi rất nhiều
nước trên thế giới, làm đủ nghề để vừa kiếm sống, vừa hoạt động. GV có thể dùng
những câu thơ sau:
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê ?
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn , Người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya
Hoặc giáo viên có thể kể câu chuyện Bác dùng gạch nung vào bếp lò để chống
chọi với cái lạnh mùa đông
Khi giảng giáo viên có thể trích dẫn Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8
điểm - cho học sinh quan sát trên máy chiếu
1. Tổng ân xá những người bản xứ bị tù chính trị.
2.Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền
hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án
đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất
trongnhân dân An Nam
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
4.Tự do lập hội và hội họp.
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
6. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
8. Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện
Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.
( Trích: Bản yêu sách của nhân dân An Nam)
Khi giảng về sự kiện tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê -nin ,giáo
viên nên đọc thật điễn cảm những vần thơ quen thuộc và nổi tiếng của Chế Lan
Viên trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước’’ :
“...Luậncương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc

Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc :
“Cơm áo là đây !Hạnh phúc đây rồi !”
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười...”
- Khi giảng về sự kiện năm 1921, về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
sau khi bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê-nin ở
Pháp và Việt Nam, giáo viên có thể nêu câu hỏi cho học sinh tìm những tác phẩm
văn học nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp với nội dung vạch trần
bộ mặt chế độ thực dân Pháp mà các em đã được học ở lớp 7, lớp 8. Những học
sinh khá giỏi có thể nhớ và trả lời , đó là tác phẩm “Những trò lố hay là Va-ren và
Phan Bội Châu” (Ngữ văn 7) và “Bản án chế độ thực dân Pháp” với đoạn
trích“Thuế máu”( Ngữ văn 8). Nếu học sinh nhớ không chính xác, giáo viên có thể
11


gợi nhắc . Sau đó giáo viên cho học sinh nêu những yếu tố nghệ thuật nổi bật của
các tác phẩm, để học sinh thấy ngòi bút nghị luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép hay
mỉa mai sâu cay của tác giả Nguyễn Ái Quốc . Chỉ một ít thời gian thôi, song rất
hữu hiệu để học sinh hiểu những hoạt động tích cực của Người trong thời gian ở
Pháp. Có thể giáo viên giới thiệu thêm tác phẩm –vở kịch “Con rồng tre” một
cách ngắn gọn, cho các em tìm hiểu .
3. Bài 19, tiết 23: Phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm 19301935
Mục II: Phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh
Khi dạy phần diễn biến của cao trào Xô viết, ngoài việc kết hợp lời giảng
với các đồ dùng trực quan khác như tranh ảnh, lược đồ, máy chiếu ... giáo viên có
thể sử dụng thơ ca cách mạng (hoặc hò, vè, dân ca ví dặm...) để thu hút sự chú ý
của học sinh. Có thể khi cho học sinh quan sát tranh ảnh phong trào bãi công của

công nhân và biểu tình của của nông dân trên máy chiếu, giáo viên nên kết hợp
đọc thơ ca cách mạng về phong trào 1930-1931 thật diễn cảm . Giáo viên có thể
chọn một trong các đoạn thơ trong bài thơ “Bài ca cách mạng”của Đặng Chính Kỷ
(tức chiến sĩ cách mạng trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh Đặng Tùng Mậu) sau
đây :
Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước,
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên.
Nam Đàn, Nghi Lộc , Hưng Nguyên,
Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi .
Không có lẽ ta ngồi chịu chết ?
Phải cùng nhau cương quyết một phen.
Tổng này, xã nọ kết liên,
Ta hò, ta hét thét lên mau nào !
Trên gió cả cờ đào phất thẳng
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra.
Giữa thành một trận xông pha
Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng.
Hơi nghĩa khí dồn vang bốn mặt,
Dải đồng tâm thắt chặt muôn người .
Lợi quyền, ta cố ta đòi,
Dần xương đế quốc, xẻo môi quan trường .
Với phương pháp làm như trên, giáo viên đã giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn ,học
sinh có ấn tượng sâu sắc hơn về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh .
Cuối cùng cho học sinh nhận xét tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân
trong cao trào cách mạng .
4. Bài 22, tiết 25, 26: Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945.
- Mục I, tiết 25 Mặt trận Việt Minh ra đời .
Dạy phần hoàn cảnh ra đời của Mặt trận Việt Minh (hoàn cảnh trong nước),
giáo viên có thể kể chuyện Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc sau ba mươi năm bôn

ba hải ngoại tìm đường cứu nước kết hợp vài câu thơ cuối bài thơ Người đi tìm
hình của nước (Chế Lan Viên) :
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
12


Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa ! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trtong màu hồng,hình đất nước phôi thai
Hoặc đọc thật diễn cảm về nhịp điệu những vần thơ của nhà thơ cách mạng Tố
Hữu – ngắt nghỉ đúng, tiết tầu chậm, giọng truyền cảm :
Ôi sáng xuân nay ! Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ !
Bác đã về đây . Tổ quốc ơi !
Nhớ thương hòn đất ấm hơi người
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi”.
( Trích: Theo chân Bác-Tố Hữu)
Qua bài thơ này học sinh dễ dàng nhớ được mốc thời gian Bác Hồ về nước
là mùa xuân năm 1941 và năm ra đi tìm đường cứu nước là 1911 ( ba mươi năm
ấy...)
Sau đó giáo viên giúp học sinh hiểu Bác đã sống và làm việc tại hang Pác Bó –
Cao Bằng .Những tháng năm đầu tiên ở Cao Bằng, để phát triển lực lượng Cách
mạng, Bác Hồ đã sống và làm việc như thế nào ?
“Cuộc đời cách mạng thật là sang’’
Bắt con ốc khe, chặt nõn chuối ngàn
Một bát cơm ngô giữa ngày bệnh yếu
Bác chia cùng dân tộc buổi lầm than

(Hang mở nước- Chế Lan Viên )
Bài thơ nào của Bác đã phản ánh cuộc đời cách mạng “thật là sang của Bác”
mà các em đã được học ở lớp 8 ? Đó chính là “ Tức cảnh Pác Bó” . Không cần
cho học sinh đọc, chỉ gợi nhắc vậy là đủ để học sinh hiểu những ngày đầu của
cách mạng, Bác và các đồng chí lãnh đạo Đảng hoạt động trong điều kiện vô vàn
khó khăn, thiếu thốn .Trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn đó, Bác trực tiếp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, triệu tập Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần
thứ VIII từ ngày 10 đến 19/5/1941- một hội nghị quan trọng, đánh dấu bước
chuyển hướng chiến lược đúng đắn của Đảng ta
- Mục III, tiết 26: Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945
Mục 2: Tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
Chú ý sự kiện khu giải phóng Việt Bắc ra đời. Phần này giáo viên khai thác kiến
thức địa lí của học sinh để xác định vị trí của Việt Bắc trên bản đồ . Chú ý khái
niệm Việt Bắc chỉ dùng trong lĩnh vực lịch sử , chính trị , văn hóa. Trong lĩnh vực
địa lí không có vùng Việt Bắc như vùng Tây Nguyên . Cần xác định cho học sinh
đây là khu căn cứ địa cách mạng – Nơi Bác Hồ và trung ương Đảng gây dựng lực
lượng cách mạng từ những ngày đầu gian khó nhất . Việt Bắc gồm vùng trung du
và miền núi phía bắc , là các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn , Hà Giang, Tuyên Quang ,
Thái Nguyên và Lạng Sơn . Xác định trên bản đồ cho học sinh là các tỉnh trung du
và miền núi phía bắc thuộc Đông Bắc Bộ Đó là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt
Nam độc lập, dân chủ.
13


Khi sử dụng lược đồ giới thiệu khu giải phóng Việt Bắc với sáu tỉnh (CaoBắc- Lạng- Hà -Tuyên -Thái) cùng 10 chính sách của Việt Minh, giáo viên có thể
giúp học sinh thấy tình cảm của quần chúng nhân dân tin Đảng, theo Đảng làm
cách mạng, giải phóng cuộc đời lầm than nô lệ qua những câu ca dao mới (Ngữ
văn lớp 7):
Ở đâu u ám quân thù

Trông về Việt Bắc Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu u ám giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bến .
(Ca dao )
Đến bài sau (Bài 23 Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự thành lập nước
Việt Nam dân chủ công hòa) các em sẽ nhanh chóng tìm ra một trong những
nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 .
5. Bài 23. tiết 27: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa
Mục I: Lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố.
Trong mục này giáo viên cần nắm được Bản diễn ca: Mười chính sách của
Việt Minh của Bác Hồ
Việt Nam độc lập đồng minh .
Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây.
Quyết làm cho nước non này,
Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền
Làm cho con cháu Rồng, Tiên,
Dân ta giữ lấy lợi quyền của ta.
Một là ích nước, hai là lợi dân.
Bao nhiêu thuế ruộng, thuế thân,
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền.
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương,
Họp hành, đi lại, có quyền tự do.
Nông dân có ruộng, có bò
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn.
Công nhân làm lụng gian nan,
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ.
Gặp khi tai nạn bất ngờ,
Thuốc thang chính phủ bấy giờ giúp cho.
Thương nhân buôn nhỏ, bán to

Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền.
Nào là những kẻ chức viên,
Cải lương đãi ngộ cho yên tấm lòng.
Binh lính giữ nước có công,
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu.
Thanh niên có trưng học nhiều,
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho.
Đàn bà cũng được tự do,
Bất phân nam nữ, đều cho bình quyền.
14


Người tàn tật, kẻ lão niên,
Đều do chính phủ cất tiền ăn cho.
Trẻ em, bốmẹ khỏi lo,
Dạy nuôi, chính phủ giúp cho đủ đầy.
Muốn làm đạt mục đích này,
Chúng ta trước phải ra tay kết đoàn.
Sao cho từ Bắc chí Nam,
Việt Minh có hội muôn vàn hội viên.
Người có sức, đem sức quyên,
Ta có tiền của, quyên tiền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy, là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Rồi ra sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Khuyên ai nên nhớ chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh ».

Bản diễn ca này giúp cho chúng ta nắm được các chính sách của mặt trận Việt
Minh.Tuy nhiên, do bài diễn ca dài nên giáo viên chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu,
cần thiết mới chọn lựa những câu tiêu biểu nhất để đọc .Hoặc giới thiệu lướt qua
trên máy chiếu toàn văn bài diễn ca .
Mục III: Giành chính quyền trong cả nước
Khi giảng về sự kiện Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên ngôn khai sinh nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa , giáo viên gợi cho học sinh nhớ về bài thơ “Sáng mùng hai tháng
chín” của nhà thơ Tố Hữu đã được học trong chương trình tiểu học., Nếu thời gian
cho phép, có thể cho học sinh xung phong đọc một đoạn :
“ Hôm nay sáng mồng hai, tháng chín
Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ chim cũng nín
Bỗng vang lên câu hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!
Người đứng trên đài lặng phút giây
Trông đàn con đó vẫy hai tay
Cao cao vầng trán ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây !
Người đọc tuyên ngôn rồi chợt hỏi:
Đồng bào nghe tôi nói rõ không?
Ôi! Câu hỏi ấm bao lòng
Cả muôn triệu một lời đáp : Có !
Như Trường Sơn say gió Biển Đông...”
Bài thơ này tạo ấn tượng cho học sinh về không gian và thời gian Bác Hồ
đọc bản Tuyên ngôn độc lập hơn lời thông báo thông thường của giáo viên rất
nhiều . Ngoài ra.với sự kiện ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng
vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới rằng nước Việt Nam Dân chủ
15



Cộng hòa đã ra đời . Giáo viên cần khai thác kiến thức đã học hoặc từ các nguồn
thông tin đại chúng của học sinh. Sau khi học sinh nắm được nội dung, giáo viên
có thể đặt câu hỏi cho học sinh trả lời về chi tiết đặc biệt trong buổi lễ thể hiện sự
quan tâm của Bác dành cho đồng bào và so sánh bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ
tịch Hồ Chí Minh soạn thảo với bản Tuyên ngôn độc lập của nước Cộng hòa In-đônê-xi-a ngày 17/8/1945.Kết hợp với tranh ảnh hoặc máy chiếu , với phương pháp
này giáo dục cho học sinh tình cảm thân thương, gần gũi dành cho Hồ Chủ Tịch
cũng như sự kiện ngày tết đọc lập của dân tộc .
6. Bài 24 tiết 29: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ
nhân dân (1945-1946)
Mục III: Diệt giặcđói, giặc dốt và giải quyết khó khăn về tài chính
- Giải quyết giặc đói :
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng kênh hình 42 SGK trang 98, tìm biện pháp
cứu đói trước mắt mà Đảng ta đề ra để giải quyết nạn đói. Trên cơ sở đó, giáo viên
cho học sinh phát hiện trong kênh hình 42 SGK, câu thành ngữ có ý nghĩa gì và
tìm thêm những câu ca dao, tục ngữ đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 7 có
nội dung tương tự .
Học sinh có thể nhớ được một số câu ca dao, tục ngữ quen thuộc như :
“Thương người như thể thương thân”, “ Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương
lấy bí cùng...”,” Nhiễu điều phủ lấy giá gương”...Từ đó, GV có thể giúp học sinh
khẳng định một điều rất quan trọng, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc là trong hoàn
cảnh muôn ngàn khó khăn “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước sau Cách mạng
tháng Tám 1945, Đảng đã đề ra biện pháp giải quyết nạn đói trước mắt phù hợp,
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát huy tinh thần tương thân tương ái,
đoàn kết gắn bó trong nhân dân để vượt qua khó khăn trước mắt, đồng thời đề ra
biện pháp giải quyết nạn đói lâu dài như tăng gia sản xuất, trồng cây lương thực
ngắn ngày...
- Giải quyết giặc dốt:
Giáo viên cho học sinh quan sát kênh hình 43 SGK trang 99, hỏi học sinh hiểu thế
nào là “Bình dân học vụ”, cách học đó có gì giống và khác cách học phổ thông của

các em hôm nay ? Giáo viên có thể giúp học sinh hiểu bằng cách nhớ mấy câu
trong bài hát “Niềm vui của em”( Nhạc và lời của Nguyễn Huy Hùng) đã rất quen
thuộc với các em :
“Khi ông mặt trời thức dậy, mẹ lên rẫy, em đến trường, cùng đàn chim hòa
vang tiếng hát....
Khi ông mặt trời đi ngủ, mẹ mẹ đến lớp, bên ánh đèn, bản làng em rộn vang
tiếng hát”....
Nếu có chất giọng tốt, giáo viên có thể thể hiện hoặc cho một học sinh trình
bày . Cách làm này hấp dẫn hơn cách hỏi đáp thông thường mà giáo viên hay dùng.
Sau đó giáo viên có thể kể cho học sinh nghe một số cách dạy học của lớp bình dân
thời kì này như đặt ca dao, đặt các bài vè như: “ o tròn như quả trứng gà, ô thì đội
mũ, ơ thì có râu...”, dùng cái gáo dừa để dạy chữ q ..., người biết nhiều chỉ bảo cho
người biết ít,con cháu dạy cho ông bà, bố mẹ. Ngoài ra Nha Bình dân học vụ còn
có cách thức để người dân nhanh chóng thoát nạn mù chữ như sau một thời gian
học ở lớp buổi tối, tổ chức kiểm tra ngay ở cổng làng hoặc cổng chợ. Một thanh
16


ba-ri-e chắn ngang đường vào chợ hoặc vào làng, ai muốn được đi thì phải đọc
được mấy chữ cái viết to treo ngay cổng. Một thời gian sau phải biết đánh vần
mấy từ, rồi phải đọc được mới cho đi .Học sinh rất thích thú vì thật sự mới lạ với
các em. Qua đó giúp học sinh hiểu những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân trong
diệt giặc dốt, để sau một năm có hơn hai triệu người biết đọc, biết viết.
7. Bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1946-1954)
Mục 1: Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ :
Phần này giáo viên cần cung cấp cho học sinh toàn văn lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chủ Tịch .Cho học sinh xem máy chiếu hoặc ảnh chụp bài viết
của Bác kết hợp với giọng đọc truyền cảm để truyền tải được sự thiêng liêng
trong lời kêu gọi của non sông gấm vóc trước vận mệnh đất nước

“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn
giáo,đảngphái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đáng thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc.
Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc
xuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất
nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng
lợi nhất định về dân tộc ta.
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
( Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến-Hồ Chí Minh)
Lời kêu gọi của Chủ Tịch Hồ Chí Minh rất ngắn gọn và súc tích. Lời kêu gọi đã
nói rõ được âm mưucủa thực dân Pháp và tinh thần đấu tranh vì độc lập của nhân
dân Việt Nam. Qua đó học sinh biết được khí thế cách mạng của những năm đầu
kháng chiến chống Pháp.
Mục 3 :Cuộc chiến đấu ở các đô thị :
Ở thủ đô Hà Nội chú ý đến tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của dân
quân , tự vệ thành phố, của bội đội . Giáo viên nên giới thiệu cho học sinh quan sát
tượng đài “Quyết tử để tổ quốc quyết sinh’’, địa điểm tại khu gần đền bà Kiệu ,
quận Hoàn Kiếm ,Hà Nội . Tượng đài đã thể hiện tinh thần đấu tranh dũng cảm của
các tầng lớp nhân dân Hà Nội “nam phụ nữ ấu’’ đều một lòng quyết tâm đánh giặc
từ ngày 19/12/1946 đến ngày 17/02/1947 trong máy chiếu hoặc tranh ảnh .
Tiết 31. mục IV: Chiến dịch Việt Bắc thu –đông 1947

Để giúp học sinh hiểu trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến , tương quan lực
lượng giữa ta và địch còn chênh lệch lớn, ta còn thiếu thốn rất nhiều về phương
tiện, vũ khí, quân trang, quân dụng, lương thực, thuốc men.Giáo viên có thể hỏi
17


học sinh nhớ bài thơ nào đã học ở lớp 9 viết về đề tài người lính trong thời kì đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc đó điều kiện cuộc sống của bộ đội như thế
nào, tinh thần cách mạng ra sao . Học sinh có thể nhớ lại những câu thơ trong bài
thơ “Đồng chí” của Chính Hữu-Ngữ văn 9, tập 1:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá, chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay .
Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn đó , ta phải đối mặt với một chiến dịch lớn
do thực dân Pháp chủ động mở nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta,
nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Nhưng cuộc chiến đấu liên tục 75 ngày đêm đã
kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bác . Căn cứ địa
Việt Bắc biến thành “Mồ chôn giặc Pháp”. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo
toàn. Qua đó học sinh cảm phục tinh thần cách mạng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Mục V: Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện
Để học sinh dễ hiểu cụm từ kháng chiến toàn dân-chiến tranh nhân dân của
ta trong kháng chiến chống Pháp , giáo viên có thể gợi nhắc đến hình ảnh ông Haingười nông dân làng Chợ Dầu trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân( Ngữ
văn 9,tập 1). Thực hiện chủ trương của Đảng, ông cùng mọi người đào đường, đắp
ụ và thực hiện đi tản cư cũng là tham gia kháng chiến . Ở nơi tản cư,ông đi khắp
làng khoe nhà mình bị Tây đốt. ( Mới nghe, tưởng người nông dân ấy có vấn đề .
Nhưng tấm lòng của người nông dân dành cho kháng chiến thật đáng quí . Làng
ông làm cách mạng, theo kháng chiến nên Tây mới đốt nhà ông. Dẫu nhà bị giặc
đốt rụi, ông vẫn vui vì làng của ông không làm Việt gian, vẫn trung thành với Cụ

Hồ ) Phần này giáo viên không phải phân tích như trên - nếu phân tích sẽ sa đà vào
môn Ngữ văn, chỉ cần gợi nhắc là học sinh hiểu Đảng thatực hiện cuộc kháng
chiến toàn dân,đi tản cư cũng là tham gia kháng chiến .
8.Bài 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1950-1953).
Trong chiến dịch Biên giới Thu-Đông 1950 Bác Hồ của chúng ta đã trực tiếp ra
trận để chỉ đạo chiến dịch. Khi dạy bài này giáo viên có thể nhắc cho học sinh nhớ
lại bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ đã học (Ngữ văn 6 )
9. Bài27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết
thúc(1953-1954).
Đây là một bài có nội dung có thể tích hợp với kiến thức văn học, nghệ
thuật, địa lí,các chuyện kể lịch sử về anh hùng, liệt sĩ, về cách đánh. Song đây cũng
là bài có nhiều đơn vị kiến thức, nếu sa đà vào phần mở rộng , phần bổ trợ sẽ
không dạy hết bài . Nếu có sự chuẩn bị chu đáo, kết hợp nhuần nhuyễn các
phương pháp, phương tiện dạy học và chọn lọc kiến thức liên môn tiêu biểu, sắp
xếp thời gian hợp lí, bài giảng sẽ rất hấp dẫn học sinh.
Mở đầu bài học, giáo viên có thể sử dụng hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu để
giới thiệu bài :
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng
18


( Ba mươi năm đời ta có Đảng ).
Cùng với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa , Điện Biên Phủ ghi tiếp vào trang sử
dân tộc những trang vàng chói lọi. Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu chiến dịch lịch
sử này
Mục 2: Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
Trước hết , kết hợp bản đồ hoặc máy chiếu cho học sinh xác định vị trí Điện
Biên Phủ. Môn Địa lí cho em hiểu vùng Tây Bắc của nước ta có đặc điểm địa hình

như thế nào ? Giáo viên có thể đọc hai câu thơ trong bài thơ Tây tiến của Quang
Dũng ,tạo cho học sinh ấn tượng về địa hình vùng rừng núi Tây Bắc:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời .
Sau đó chú ý âm mưu của thực dân Pháp dựa vào sức mạnh quân sự hiện
đại, lợi dụng địa hình hiểm trở núi cao, vực sâu có thung lũng lòng chảo là đồng
bằng Mường Thanh để xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ - “Pháo đài bất
khả xâm phạm – là mồ chôn Cộng sản’’. Thực dân Pháp và quan thầy Mĩ cho rằng,
quân đội Việt Nam không có cánh để đưa pháo lên Điện Biên Phủ.
Phần sự chuẩn bị của ta: Khắc sâu hình ảnh Đảng, Bác Hồ trao cho quân đội
lá cờ thêu dòng chữ “Quyết chiến- Quyết thắng”, giao cho Đại tướng Võ Nguyên
Giáp làm Tổng chỉ huy chiến dịch. Trong toàn bài chú ý vai trò quan trọng chỉ đạo
chiến lược của Đại tướng . Nên kết hợp tranh ảnh hoặc máy chiếu với sử dụng thơ
ca – Máy chiếu đưa hình ảnh tới đâu, giáo viên đọc thơ ca đến đấy. Làm như vậy
vừa đỡ mất thời gian cho nội dung khác, vừa tăng giá trị cho các hình ảnh minh
họa hoặc khắc sâu tình cảm cảm phục các anh bộ đội cho học sinh. Có thể lựa chọn
những câu thơ trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của nhà thơ cách mạng Tố
Hữu khi cho học sinh quan sát tranh ảnh chuẩn bị chiến dịch như phá núi mở
đường, dân công tải đạn, đoàn xe thồ, ngựa thồ, đào hào giao thông, kéo pháo vào
trận địa :
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ,
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát...
... Những đồng chí chèn lưng kéo pháo
Nát thân nhắm mắt còn ôm,
Những bàn tay xẻ núi lăn bom,
Nhất định mở đường cho xe ra chiến trường tiếp viện.
Và sẽ rất hiệu quả khi cho học sinh nghe một đoạn ngắn bài hát Hò kéo pháo của
Hoàng Vân trong băng đĩa với giọng hát của nghệ sĩ Trung Đức , nếu không có
điều kiện, giáo viên có thể đọc diễn cảm lời thơ :
Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi

Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù
Hò dô ta nào, kéo pháo ta vượt qua đèo
Hò dô ta nào, kéo pháo ta vượt qua núi.
Đồng thời giáo viên kết hợp kể hấp dẫn tấm gương anh hùng Tô Vĩnh Diện
lấy thân mình chèn pháo – cung cấp thông tin anh là người con Thanh Hóa (quê ở
xã Nông Trường huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa ), tạo ấn tượng cho học sinh ,
bồi dưỡng lòng tự hào về đóng góp của quê hương trong sự nghiệp kháng chiến
của dân tộc .
19


Phần diễn biến ba đợt của chiến dịch Điện Biên Phủ, giáo viên chú ý các chi
tiết cách đánh bóc vỏ kết hợp thọc sâu của quân ta theo chủ trương : “Đánh chắc,
tiến chắc”. Để tạo biểu tượng cho học sinh, giáo viên nên kể ngắn gọn cách đánh
cứ điểm A1 độc đáo , góp phần quyết định thắng lợi của chiến dịch. Giáo viên nên
có tranh ảnh người giật nụ xòe khối thuốc nổ 960 kg để minh họa , tạo hứng thú
cho học sinh.
Phần kết quả , giáo viên có thể sử dụng những câu thơ hào hùng :
“ Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta dân tộc anh hùng”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)
Hay:
“ Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng...”
(Ba mươi năm đời ta có Đảng- Tố Hữu)
Ngày nay, tượng đài chiến thắng được dựng ngay trên đỉnh đồi D1, đối diện
nghĩa trang liệt sĩ trên đồi A1 (đồi D1 cao 50 mét so với cánh đồng Mường

Thanh , là trung tâm của thành phố Điện Biên) nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ . Tượng đài khánh thành ngày 30/4/2004. Đây là
tượng đài bằng đồng lớn nhất Việt Nam cao 16,6 mét, nặng 220 tấn ) ghi tạc chiến
thắng oanh liệt của nhân dân ta trong lịch sử .
Qua các kiến thức bổ trợ trên giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ thời gian diễn ra
chiến dịch Điện Biên Phủ (56 ngày đêm), chín năm kháng chiến chống Pháp (từ
1946 đến 1954) và làm cho học sinh hiểu rõ sự hi sinh, gian khổ và tinh thần quyết
tâm của quân và dân ta đã làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
Phần nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử :Có thể sau khi cho học sinh
thảo luận, giáo viên nên cho học sinh nêu tình cảm của mình về người Bác Hồ , về
người anh cả của quân đội nhân dân Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp- Vị
Đại tướng Tổng chỉ huy chiến dịch lịch sử làm nên “Thiên sử vàng” Điện Biên
Phủ, “lừng lẫy năm châu , chấn động địa cầu” buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp
định Giơ-ne- vơ, chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi Đông Dương .
10.Bài 28: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc
Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở Miềm Nam
Mục III.1.Đấu tranh chống chế độ Mĩ –Diệm, giữ gìn và phát triển lực
lượng cách mạng(1954-1959)
Giáo viên nên cho học sinh liên hệ với truyện ngắn “Chiếc lược ngà’’ (Ngữ
văn 9- tập 1 ) hoặc gợi cho học sinh nhớ về nhân vật ông Sáu , bác Ba …những
người cộng sản được gài ở lại
Mục III. 2.Phong trào Đồng khởi
Sau khi dạy về diễn biến phong trào Đồng khởi , giáo viên chú ý chi tiết : Đội
quân tóc dài ra đời trong phong trào Đồng Khởi Bến Tre được coi là một lực lượng
quan trọng của đấu tranh chính trị và binh vận. Tổng kết phong trào Đồng Khởi
năm 1960, có khoảng 9 triệu lượt quần chúng nổi dậy, 1 triệu lượt phụ nữ đấu tranh
trực diện kết hợp với đấu tranh vũ trang góp phần làm tan rã hơn 2 vạn binh lính
20



ngụy. Đây cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật nói về phụ nữ,
trong đó có ca khúc Dáng đứng Bến Tre của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý .Giáo viên có
thể mở băng cho học sinh nghe một đoạn bài hát Dáng đứng Bến Tre ( Ai đứng
như bóng dừa, tóc dài bay trong gió …) .Hoặc giáo viên có thể khắc họa hình
người phụ nữ - đội quân tóc dài trong phong trào Đồng khởi, hình ảnh cây dừa
miền Nam, ở đâu cũng là hình ảnh của quê hương, cũng dự phần trong đạn
lửa “một tấc không đi, một li không rời”... và đọc dòng cảm xúc về cây dừa Bến
Tre- cây dừa miền Nam của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý “Để bây giờ thương tích đầy
mình,sao không được gọi là những đồng chí thương binh!?”.
Mục IV. 1.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư ba của Đảng
Giáo viên có thể dùng những câu thơ của Bác Hồ giới thiệu mục 1. Đây là
những câu thơ Bác trình bày tại báo cáo chính trị khi kỉ niệm Đảng tròn 30 tuổi
Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no.
Công ơn Đảng thật là to,
Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng.
Với sự kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng, gv có thể giới
thiêu cho học sinh tìm đọc bài thơ Ba mươi năm đời ta có Đảng của Tố Hữu
11.Bài 29 : Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước
Tiết 42, mục I: Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ
(1965-1968)
Sau chiến thắng Vạn Tường, Quảng Ngãi đánh dấu sự thắng lợi của quân
dân ta trước chiến lược chiến tranh cục bộ của Mĩ . Cần kết hợp tranh ảnh thành
tích chiến đấu của quân và dân ta với thơ ca khắc họa khí thế cách mạng,
Giáo viên kể ngắn gọn tấm gương anh hùng Nguyễn Thị Út (chị Út Tịch)
với câu nói nổi tiếng “ Còn cái lai quần cũng đánh”, giới thiệu cho học sinh bộ
phim nên tìm xem :Mẹ vắng nhà chuyển thể từ tác phẩm Người mẹ cầm súng của
Nguyễn Thi . Các chi tiết trên khiến học sinh rất hào hứng, tiếp thu bài rất tốt.

Tiết 42, mục II : Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất của Mĩ, vừa sản xuất(1965-1968)
Mục 2. Miền Bắc vừa chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất :
Sau khi học sinh nắm được kết quả của nhân dân miền Bắc chống chiến
tranh phá hoại , giáo viên nên dành vài phút giới thiêu tấm ảnh tư liệu lịch sử “O
du kích nhỏ” của nhiếp ảnh gia Phan Thoan và bài thơ đề tặng của nhà thơ Tố
Hữu , đồng thời kể ngắn gọn cho học sinh nghe câu chuyện thú vị về o du kích
Nguyễn Thị Kim Lai quê ở xã Phú Phong , huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh :
O du kích nhỏ giương cao súng
Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế! To gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu!
Bằng phương pháp này, giáo viên nhanh chóng giúp học sinh hiểu bài ,có ấn tượng
khó quên về cuộc chiến đấu của nhân dân miền Bắc giai đoạn này
Mục 3 Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn
21


Cuối mục, giáo viên chốt lại bằng những câu thơ nổi tiếng thời bấy giờ như tiếng
kèn giục giã bước hành quân của đoàn quân lên đường Nam tiến:
Hỡi Miền Bắc đó, nặng đôi vai
Gánh cả non sông, vượt dặm dài
Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Hoặc có thể trích đọc những câu nói bất hủ của Hồ Chủ Tịch về quyết tâm
kháng chiến “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn...kháng chiến nhất định
thắng lợi”, “Miền Nam là máu thịt của Việt nam . Sông có thể cạn, núi có thể mòn,
song chân lí ấy không bao giờ thay đổi”.
Theo con đường của Đảng, cả miền Bắc hướng về miền Nam ruột thịt. Biết

bao thế hệ đã ra đi , biết bao người đã ngã xuống vì độc lập tự do và thống nhất
nước nhà. Giáo viên nhắc cho học sinh liên hệ với những tác phẩm văn học viết về
đề tài tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật-Ngữ văn 9-tập 1, truyện ngắn
Những ngôi sao xa xôi (Ngữ văn 9 tập 2) của nữ nhà văn Lê Minh Khuê- quê xã
Hải Châu, huyện Tĩnh Gia .
Cuối bài, giáo viên giới thiệu cho học sinh tìm đọc Nhật kí Đặng Thùy
Trâm, Sống mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc, tìm hiểu tấm gương dũng
cảm hi sinh của mười cô gái thanh niên xung phong trên ngã ba Đồng Lộc, Hà
Tĩnh hoặc sau này lớn lên thực hiện những chuyến thăm nghĩa trang Trường Sơn
,thành cổ Quảng Trị, Ngã ba Đồng Lộc...bồi dưỡng tình cảm Uống nước nhớ
nguồn .
12.Bài 30:Hoàn thành giải phóng miền Nam,thống nhất đất nước
(1973-1975)
Tiết 46: Hoàn thành giải phóng miền Nam giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc
Sau khi dạy xong phần chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nếu có băng đĩa hoặc
máy chiếu, giáo viên nên cho học sinh nghe một vài đoạn bài hát Tiến về Sài gòn
của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước . Nếu không thể có điều kiện công nghệ thông tin hỗ
trợ, giáo viên cần hát (hoặc đọc ) diễn cảm mấy câu . Bởi đây là bài hát gắn liền
với chiến thắng quyết định của cuộc kháng chiến . Trước chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử, nhiều chiến sĩ quân giải phóng miền Nam nhớ mãi giai điệu Tiến về Sài
Gòn với tiết tấu hùng tráng như lời hiệu triệu, khích lệ họ băng lên phía trước,
quyết chiến thắng:
Sài Gòn ơi ! Ta đã về đây ! Ta đã về đây !
Lướt qua nắng mưa, súng bom nhịp chân đi
Quê hương kêu gọi đứng lên diệt quân Mĩ
Tiến về Sài Gòn, ta quét sạch giặc thù
Hướng về đồng bằng, ta tiến về thành đô.
Là giáo viên dạy lịch sử, chúng ta hiểu rằng hơn 40 năm nay, cứ mỗi dịp đất
nước tưng bừng chào đón ngày giải phóng miền Nam 30-4 thì lòng người Việt

Nam không ai không nô nức khi nghe giai điệu thân quen mà hào hùng của bài ca
bất hủ Tiến về Sài Gòn. Tuy nhiên, lâu nay ít ai nghĩ rằng, không khí hân hoan cảm
động trong bài hát: "Nơi thành đô trong ánh điện quang tiếng nấc nghẹn câu cười.
22


Khu nhà tranh năm cánh ngoại ô rên xiết đêm ngày. Sài Gòn ơi ta đã về đây, ta đã
về đây…", lại cách xa thời điểm sáng tác tới 9 năm (năm 1966).
Chỉ vài phút thôi song tạo ấn tượng sâu đậm cho học sinh về khát vọng hòa
bình, quyết tâm thống nhất đất nước của quân dân ta.
Phần cuối bài, giao thêm bài tập cho học sinh tìm hiểu niềm vui chiến thắng
của nhân dân ta khi miền Nam hoàn toàn giải phóng qua các ca khúc sống mãi với
thời gian như : Bài ca thống nhất, Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, Mùa
xuân trên thành phố Hồ Chí Minh, Đất nước trọn niềm vui...Nếu có điều kiện, còn
thời gian, cho học sinh xem máy chiếu và nghe một trong những ca khúc trên, giờ
học sẽ đạt hiệu quả giáo dục cao.
13. Tiết 48, Bài 31 Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975
Mục III. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước :
Khi sử dụng hình 79 sách giáo khoa (Đoàn tàu thồng nhất) bằng máy chiếu
hay tranh ảnh, giáo viên cần kết hợp cho học sinh nghe một đoạn bài hát Tàu anh
qua núi của nhạc sĩ Phan Lạc Hoa . Bài hát sẽ giúp giáo viên rất nhiều trong việc
truyền tải tình cảm cho học sinh.
V. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
Sau một thời gian nghiên cứu, áp dụng kinh nghiệm tích hợp kiến thức liên
môn vào giảng dạy ở một số tiết, bài lịch sử ở tất cả các khối lớp được giao và
nhiều nhất là ở lớp 9, phần lịch sử Việt Nam, tôi nhận thấy hiệu quả áp dụng rất
đáng phấn khởi .
Trước hết, đó là thái độ dành cho giờ học môn lịch sử của học sinh. Học sinh
hào hứng, phấn khởi vào học. Không còn thái độ ngại nhiều sự kiện, nhiều con số
phải nhớ, phải thuộc. Thay vào đó là học sinh tích cực xây dựng bài, có nhiều câu

hỏi dành cho giáo viên về các vấn đề thảo luận, về quan điểm , về các thuật ngữ
lịch sử .Theo các em phản hồi, giờ học không còn căng thẳng, gây đau đầu, buồn
ngủ, các em thích học trên phòng máy, thỉnh thoảng được nghe chuyện kể về các
anh hùng, các trận đánh, nghe vài câu thơ, một đoạn bài hát, lại được ôn kiến thức
môn khác, dễ tiếp thu ,dễ hiểu bài . Kể cả tiết 5, có thể trống đã đánh báo hết giờ
nhưng học sinh vẫn không tỏ ý sốt ruột nếu hôm đó giáo viên đang giao bài tập về
nhà. Mặt khác, học sinh nhận thức được vai trò của bộ môn, nhiều em đã thay đổi
suy nghĩ, không còn coi Lịch sử là môn phụ và đầu tư nhiều thời gian hơn cho
môn. Các em không những tìm hiểu Lịch sử giới hạn trong sách giáo khoa mà còn
khai thác kiến thức Lịch sử ở các nguồn tư liệu khác
Thực tế trong quá trình giảng dạy Lịch sử lớp 9, khi tôi áp dụng vào giảng dạy
kiến thức liên môn văn học, địa lí … đã đạt tỉ lệ xếp loại môn Lịch sử cuối năm thì
năm sau luôn cao hơn năm trước, tỉ lệ khá, giỏi ngày càng tăng, tỉ lệ yếu kém ngày
càng giảm xuống.
Nhìn chung đại trà học sinh chịu khó, chăm chỉ học tập. Tất cả các giờ học đều
được đánh giá đạt loại tốt.
Thứ hai là quan niệm lệch lạc về môn Lịch sử của một số học sinh, kể cả
phụ huynh không còn nữa.(Một số phụ huynh và học sinh cho rằng, Lịch sử là môn
phụ, lại không thi vào lớp 10, nên không phải học nhiều ). Nhiều học sinh trả lời bố
mẹ rằng con thích học sử, có học sinh tranh luận với bố mẹ để được đi thi học sinh
giỏi môn Lịch sử.
23


Kết quả khảo sát trắc nghiệm sự hứng thú của học sinh trước và sau
khi sử dụng phương pháp
Đối tượng HS
được khảo sát
Lớp Tổng
số

Khi chưa sử 9
32 em
dụng phương
pháp
Khi đã sử 9
32 em
dụng phương
pháp

Không thích Thích
học Bình thường
học môn sử
môn sử
SL
%
SL
%
SL
%
15

46,8

6

18,8

11

34,4


4

12,5

23

71,9

5

15,6

C. KẾT LUẬN
I.Ý NGHĨA ĐỀ TÀI
Thực hiện phương pháp dạy học tích cực là yêu cầu bắt buộc của ngành
Giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Mọi phương pháp dạy học đều được
nghiên cứu, thử nghiệm qua thực tiễn giảng dạy của giáo viên đứng lớp.Mỗi
phương pháp đều có những ưu điểm riêng song không phải là tối ưu. Sử dụng
phương pháp dạy học tích hợp kiến thức liên môn trong môn lịch sử có tác dụng
gây hứng thú cho học sinh đối với môn học nói chung và trong từng giờ học nói
riêng. Tạo cho học sinh sự hứng thú tiếp thu bài, giải quyết các yêu cầu, đạt mục
tiêu giáo dục kiến thức, kĩ năng, thái độ cho học sinh qua từng tiết học là trách
nhiệm của người giáo viên. Cùng các môn học khác, giáo dục các em thành những
con người có kiến thức, có kĩ năng, có nhân cách .
Bên cạnh đó, sử dụng phương pháp tích hợp kiến thức trong giảng dạy lịch
sử giúp học sinh có được kiến thức tổng quát, kiến thức các môn học liên quan bổ
trợ lẫn nhau, tạo điều kiện để học sinh thực hiện học đi đôi với hành.
Về phía giáo viên, thực hiện phương pháp này tạo cơ hội cho giáo viên sự
tìm tòi, nâng cao hiểu biết ở nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của đời sống xã hội, nâng

cao năng lực chuyên môn sư phạm .
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Tất cả 13 tiết ,bài sử dụng kiến thức liên môn trên đều là kinh nghiệm tôi đã
từng chọn lọc và sử dụng trong quá trình giảng dạy. Cùng một bài dạy nhưng ở
mỗi lớp tôi thử những cách sử dụng khác nhau để rút kinh nghiệm về mức độ, thời
gian sử dụng và hiểu quả sử dụng.
Cuối cùng, tôi xin rút ra một số bài học kinh nghiệm cơ bản sau :
Để có thể dạy tốt một tiết lịch sử, trước hết giáo viên cần có đầy đủ kiến
thức chuyên môn, có năng lực sư phạm ứng xử với các tình huống thực tế, có các
phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng phù hợp nội dung, kiểu bài.
Bên cạnh đó, học sinh phải có ý thức học tập, chịu khó, say mê với bài học, tích
cực làm việc với nội dung bài để lĩnh hội kiến thức .
24


Theo tôi, điều cơ bản khi sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy lịch
sử là phải xác định được : Đây là một trong các phương pháp dạy học tích cực.
Giáo viên không nên tách rời phương pháp này với các phương pháp khác mà phải
kết hợp nhuần nhuyễn với các phương pháp khác trong một tiết dạy.
Chỉ sử dụng phương pháp này trong một số tiết có điều kiện tích hợp – trong
một vài đơn vị kiến thức trong mục bài . Khi sử dụng, tránh sự hời hợt hoặc sa đà,
lạm dụng làm loãng kiến thức trọng tâm cơ bản của bài học. Dù kiến thức liên môn
liên quan đến bài dạy nhiều đến đâu chăng nữa, vẫn phải chú ý chỉ được chọn lọc
làm tư liệu bổ trợ cho phương pháp dạy học. Kiến thức trọng tâm cơ bản của bài
học lịch sử là điều quan trọng nhất mà giáo viên giúp học sinh lĩnh hội trong một
giờ học lịch sử . Phương pháp này giúp học sinh sôi nổi, hứng thú khi tiếp thu bài
học lịch sử đó. Nói cách khác là không được biến giờ học lịch sử thành giờ học
tổng hợp những kiến thức văn thơ hay chuyện kể lịch sử mà giáo viên có được
trước lớp ( Kiến thức về mọi lĩnh vực liên quan đến bài dạy giáo viên đều có , song
không phải là tung tất cả những gì thầy biết cho trò nghe.)

Thời gian của một tiết học là 45 phút, kiến thức môn lịch sử lớp 9 tương đối
nhiều (dù đã được giảm tải ), vì vậy giáo viên phải chọn lọc, tính toán lúc nào sử
dụng kiến thức liên môn, sử dụng bao nhiêu là đủ làm cho giờ học bớt khô khan,
gây sự hứng thú vừa đủ cho học sinh học , Nếu không giáo viên sẽ bị “ cháy giáo
án”. Quả thật ,đây là một nghệ thuật sư phạm .
Bên cạnh đó ,cũng cần chú ý, nếu giáo viên chưa có kiến thức chắc chắn về
môn học liên quan hay kiến thức liên quan thì không nên đưa ra để sử dụng.
Để sử dụng phương pháp này đạt hiệu quả cao đòi hỏi giáo viên phải tích
cực tham khảo các nguồn tư liệu, trau dồi vốn kiến thức của nhiều lĩnh vực, trăn
trở, thử nghiệm .
Trong tổ chuyên môn phải đưa vấn đề ra thảo luận, dự giờ rút kinh nghiệm
sau các tiết dạy. Có như vậy, phương pháp mới được hoàn thiện.
III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
- Tăng cường cơ sở vật chất trang thiết bị, đồ dùng dạy học như máy chiếu đa
năng, đầu đĩa, tivi ... cho phòng học đa năng, tạo điều kiện cho học sinh được tiếp
cận với công nghệ thông tin nhiều hơn trong học tập, giáo viên có thể áp dụng các
kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực được thuận lợi hơn.
- Đề tài là những ý kiến chủ quan của bản thân, không tránh khỏi những thiếu sót .
Rất mong sự quan tâm, góp ý chân thành của quý đồng nghiệp để đề tài được hoàn
thiện hơn
.

25


×