Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa part1 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.97 KB, 6 trang )

1

Lời mở đầu
Trong nền kinh tế hàng hoá, có những quy luật kinh tế chi phối
hoạt động của những ngời quản lý sản xuất hàng hoá. Quy luật kinh tế
hoạt động ở mỗi phơng thức sản xuất hợp thành hệ thống tác động chi
phối hoạt động của phơng thức sản xuất đó. Vì vậy, việc tìm hiểu và
nắm bắt các quy luật kinh tế có ý nghĩa hết sức to lớn. Đặc biệt là trong
giai đoạn hiện nay, khi đất nớc ta đang xây dựng mô hình kinh tế là:
"Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa".
Trong đề án này, tôi xin đợc đi sâu phân tích quy luật giá trị và
vai trò của nó trong nền kinh tế thị trờng.
2

B. Nội dung
Chơng 1
Quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị
trong nền kinh tế hàng hoá

1.1. Quy luật giá trị
1.1.1. Nội dung của quy luật giá trị
Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá và dịchvụ do các doanh
nghiệp, những ngời sản xuất hàng hoá t nhân, riêng lẻ sản xuất ra.
Những chủ thể sản xuất hàng hoá cạnh tranh với nhau. Mỗi ngời sản
xuất hàng hoá đều nghĩ đến cách chen lấn ngời khác, đều muốn giữ
vững và mở rộng thêm địa vị của mình trên thị trờng. Mỗi ngời đều tự
mình sản xuất không phụ thuộc vào ngời khác, nhng trên thị trờng
những ngời sản xuất hàng hoá là bình đẳng với nhau. Sản xuất hàng hoá
càng phát triển thì quyền lực của thị trờng đối với ngời sản xuất hàng
hoá càng mạnh. Nó nh thế có nghĩa là trong nền kinh tế hàng hoá có
những quy luật kinh tế ràng buộc và chi phối hoạt động của những ngời


sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và
lu thông hàng hoá.
Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải
căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
3

Qui định ấy là khách quan, đảm bảo sự công bằng hợp lý, bình
đẳng giữa những ngời sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị
buộc những ngời sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo "mệnh
lệnh" của giá cảthị trờng. Thông qua sự vận động của giá cả thị trờng
sẽ thấy đợc sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trờng lên
xuống một cách tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá và biểu hiện sự tác
động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
1.1.2. Hình thức của quy luật giá trị
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn: sản phẩm làm ra, trao đổi
với mục đích là để thoả mãn nhu cầu cá nhân.Vì vậy, lu thông và buôn
bán không phải là mục đích chính của ngời sản xuất.
Trong nền sản xuất hàng hoá TBCN: Hàng hoá đợc làm ra không
đơn thuần để trao đổi mà còn để buôn bán và lu thông.
Giá trị hàng hoá biểu hiện ra bằng tiền đợc gọi là giá cả hàng hoá.
Trong nền kinh tế XHCN, tiền tệ cũng dùng làm tiêu chuẩn giá cả.
Tuỳ vào từng giai đoạn mà quy luật giá trị có các hình thức chuyển
hoá khác nhau. Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật giá trị
chuyển hoá thành quy luật giá cả sản xuất. Trong giai đoạn CNTB độc
quyền, quy luật giá trị chuyển hoá thành quy luật giá cả độc quyền cao.
1.2. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá.
Nh đã biết quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của
sản xuất và lu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá quy luật giá
trị có những tác dụng sau đây:

4

1.2.1. Điều tiết sản xuất và lu thông hàng hoá
Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ t hữu thờng xảy ra
tình hình: ngời sản xuất bỏ ngành này, đổ xô vào ngành khác; t liệu
sản xuất và sức lao động xã hội đợc chuyển từ ngành này sang ngành
khác, quy mô sản xuất của ngành này thu hẹp lại thì ngành kia lại mở
rộng ra với tốc độ nhanh chóng. Chính quy luật giá trị đã gây ra những
hiện tợng đó, đã điều tiết việc sản xuất trong xã hội. Muốn hiểu rõ vấn
đề này, cần xem xét những trờng hợp thơnừg xảy ra trên thị trờng
hàng hoá:
- Giá cả nhất trí với giá trị;
- Giá cả cao hơn giá trị;
- Giá cả thấp hơn giá trị.
Trờng hợp thứ nhất nói lên cung và cầu trên thị trờng nhất trí với
nhau, sản xuất vừa khớp với nhu cầu của xã hội. Do dựa trên chế độ t
hữu, sản xuất hàng hoá tiến hành một cách tự phát, vô chính phủ, nên
trờng hợp này hết sức hiếm và ngẫu nhiên.
Trờng hợp thứ hai nói lên cung ít hơn cầu, sản xuất không thoả
mãn đợc nhu cầu của xã hội nên hàng hoá bán chạy và lãi cao. Do đó,
những ngời sản xuất loại hàng hoá đó sẽ mở rộng sản xuất; nhiều ngời
trớc kia sản xuất loại hàng hoá khác cũng chuyển sang sản xuất loại
này. Tình hình đó làm cho t liệu sản xuất và sức lao động đợc chuyển
vào ngành này nhiều hơn các ngành khác.
Trờng hợp thứ ba chỉ rõ cung cao hơn cầu, sản phẩm làm ra quá
nhiều so với nhu cầu xã hội, hàng hoá bán không chạy và bị lỗ vốn. Tình
5

hình đó buộc một số ngời sản xuất ở ngành này phải rút bớt vốn chuyển
sang ngành khác, làm cho t liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở

ngành này.
Nh vậy là theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trờng lúc lên, lúc
xuống xoay quanh giá trị mà có sự di chuyển t liệu sản xuất và sức lao
động từ ngành này sang ngành khác, do đó quy mô sản xuất của ngành
đó mở rộng. Việc điều tiết t liệu sản xuất và sức lao động trong từng lúc
có xu hớng phù hợp với yêu cầu của xã hội, tạo nên những tỷ lệ cân đối
nhất định giữa các ngành sản xuất. Đó là biểu hiện vai trò điều tiết sản
xuất của quy luật giá trị. Nhng sản xuất trong điều kiện chế độ t hữu,
cạnh tranh, vô chính phủ nên những tỷ lệ cân đối hình thành một cách tự
phát đó chỉ là hiện tợng tạm thời và thờng xuyên bị phá vỡ, gây ra
những lãng phí to lớn về của cải xã hội.
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất mà điều tiết cả lu
thông hàng hoá. Giá cả của hàng hoá hình thành một cách tự phát theo
quan hệ cung cầu. Cung và cầu có ảnh hởng đến giá cả, nhng giá cả
cũng có tác dụng khơi thêm luồng hàng, thu hút luồng hàng từ nơi giá
thấp đến nơi giá cao. Vì thế, lu thông hàng hoá cũng do quy luật giá trị
điều tiết thông qua sự lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị.
1.2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm
tăng năng suất lao động.
Các hàng hoá đợc sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên
có giá trị cá biệt khác nhau, nhng trên thị trờng đều phải trao đổi theo
giá trị xã hội. Ngời sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn
giá trị xã hội thì có lợi; trái lại, ngời có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã
hội sẽ ở thế bất lợi, có thể bị phá sản. Để tránh bị phá sản và giành u thế
6

trong cạnh tranh, mỗi ngời sản xuất hàng hoá đều tìm cách giảm giá trị
cá biệt hàng hoá của mình xuống dới mức giá trị xã hội bằng cách cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động. Lúc đầu,
chỉ có kỹ thuật của một số cá nhân đợc cải tiến, về sau do cạnh tranh

nên kỹ thuật của toàn xã hội đợc cải tiến. Nh thế là quy luật giá trị đã
thúc đẩy lực lợng sản xuất và sản xuất phát triển.
1.2.3. Phân hoá những ngời sản xuất hàng hoá nhỏ, làm nảy
sinh quan hệ kinh tế t bản chủ nghĩa.
Trên thị trờng, các hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau đều phải
trao đổi theo giá trị xã hội. Do đó, trong quá trình sản xuất và trao đổi
hàng hoá không tránh khỏi tình trạng một số ngời sản xuất phát tài, làm
giàu, còn số ngời khác bị phá sản.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, sự tác động của quy luật giá
trị dẫn đến kết quả là một số ít ngời mở rộng dần kinh doanh, thuê nhân
công và trở thành nhà t bản, còn một số lớn ngời khác bị phá sản dần,
trở thành những ngời lao động làm thuê. Thế là sự hoạt động của quy
luật giá trị dẫn tới hệ phân hoá những ngời sản xuất hàng hoá, làm cho
quan hễ t bản chủ nghĩa phát sinh. Lênin nói " nền tiểu sản xuất thì
từng ngày, từng giờ, luôn luôn đẻ ra chủ nghĩa t bản và giai cấp t sản,
một cách tự phát và trên quy mô rộng lớn".
Trong nền sản xuất hàng hoá t bản chủ nghĩa, quy luật giá trị cũng
tác động hoàn toàn tự phát "sau lng" ngời sản xuất, hoàn toàn ngoài ý
muốn của nhà t bản. Chỉ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do chế độ
công hữu về t liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị, con ngời mới có thể
nhận thức và vận dụng quy luật giá trị một cách có ý thức để phục vụ lợi
ích của mình.

×