VAI TRÒ CỦA ĐỘNG VẬT THÂN MỀM ĐỐI VỚI CON
NGƯỜI VÀ THỦY VỰC
1.1. Vai trò làm thực phẩm
Động vật thân mềm là một ngành có số lượng loài rất
lớn (khoảng 130.000 loài -Thái Trần Bái, 2001; 104.000
loài - Hà Quang Hiến, 1980) chiếm khoảng 10% tổng số
các loài động vật trên trái đất, đứng thứ hai sau ngành giáp
xác (với 800.000 loài).
Ngay từ thời cổ đại, khi loài người chưa biết săn bắn thú
rừng thì đã biết bắt động vật thân mềm về ăn. Những di tích
còn lại hiện nay của người Mút - tê - riêng (Mousteriens) ở
Gibraltar (eo biển giữa Tây Ban Nha và Ma Rốc) chứng tỏ
họ đã biết đập vỡ vỏ của các loài động vật thên mềm để lấy
thịt ăn. Đến thời đại đồ đá, động vật thân mềm là nguồn
thực phẩm quan trọng và phổ biến của cư dân các vùng ven
biển do chúng sống cố định hoặc di chuyển chậm nên việc
khai thác chúng cũng dễ dàng. Ngày nay rất nhiều loài
động vật thân mềm vẫn là thức ăn ưa thích của con người,
có loài còn là thức ăn quý hiếm. Các loài phổ biến được
dùng là thực phẩm gồm có: Điệp, Sò, Trai, Vẹm, Mực,
Ngao Nghêu, Bàn Mai, Tu Hài, Bào Ngư, . . .Trong đó, ở
nước ta hiện nay đối tượng động vật thân mềm xuất khẩu
chính là mực, Ngao, Nghêu Bến Tre, Sò Huyết, Ốc Hương,
. . .(chiếm 5 - 7% sản lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu), thị
trường chính là Nhật, Italia, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung
Quốc, với các mặt hàng là Bạch Tuộc đông lạnh; Mực
khô; Sò, Nghêu đông lạnh; thịt Nghêu, Ốc chế biến, . . .
So sánh thành phần dinh dưỡng của thịt động vật thân mềm
với thịt một số động vật khác người ta thấy rằng, hàm
lượng prôtêin và gluxit trong thịt động vật thân mềm khá
cao, trong khi đó hàm lượng lipit lại rất thấp. Chính vì thế
mà khi chúng ta ăn thịt của chúng không ngán.
Bảng 1. Thành phần dinh dưỡng của thịt động vật thân
mềm và một số động vật khác
[Nguồn: Hà Quang Hiến, 1980]
Tên ĐV Protit
(%)
Lipit
(%)
Glucid
(%)
Tro (%) Canxi
(%)
Thịt lợn
Thịt bò
Thịt vịt
Thịt gà
Cua
biển
Cá chép
Thịt rùa
Mực
Ốc
ruộng
Ngao
Móng
35,2
64,8
66,0
89,6
48,6
86,1
72,5
83,0
55,1
54,0
66,0
60,8
30,6
30,0
4,6
20,0
7,6
5,0
8,5
6,3
9,0
9,1
2,1
-
0,4
-
24,1
1,0
10,0
1,5
14
20,5
13
1,9
4,5
3,6
4,2
6,2
5,2
4,5
4,5
17,4
15,0
10,8
0,02
0,02
0,04
0,05
0,04
0,13
0,50
2,40
7,14
1,55
1,10
tay
Nhiều nhà khoa học đã phát hiện được rằng thành phần
prôtêin ở động vật thân mềm rất phong phú, từ những phân
tử protêin có trọng lượng phân tử cao đến protêin có trọng
lượng phân tử thấp. Trong các prôtêin có trọng lượng phân
tử thấp, các peptid có hoạt tính sinh học làm giảm huyết áp
trong cơ thể.
1.2. Vai trò làm sạch môi trường
Động vật thân mềm có khả năng làm sạch môi trường, đặc
biệt là nhóm động vật thân mềm hai mảnh vỏ. Thức ăn của
chúng bao gồm thực vật phù du và cỏc hỗn hợp gồm nhiều
loại khác như mảnh vụn các chất hữu cơ, khoáng, bùn, vi
khuẩn, chất keo (theo Gilbert Barnale, 1991). Tammes &
Dral (1956) đã chỉ ra rằng những vật được Bivalvia giữ lại
trong quá trình lọc không lớn hơn 10 mm. Khả năng lọc
của động vật hai mảnh vỏ rất lớn. Một con Vẹm (Mytilus)
lọc 3 - 5L nước/ngày, một con Trai sông (Anadonta
pincinalis) lọc 12L nước/ngày, hay số Hầu sống dày đặc
trên 1m
2
có thể lọc 280 m
3
nước/ngày. Như vậy, bằng
phương thức dinh dưỡng ăn lọc với tỷ lệ lọc rất lớn động
vật thân mềm 2 vỏ có khả năng làm sạch môi trường và
chúng được coi là những đối tượng chính trong việc làm
cân bằng sinh thái môi trường, đặc biệt ở những vùng bị ô
nhiễm. Tuy nhiên, ở những vùng bị ô nhiễm bởi các độc tố
do sự nở hoa của tảo, động vật thân mềm ăn tảo sẽ bị nhiễm
độc tố và là nguồn gây bệnh cho con người. Các bệnh
thường gặp khi ăn phải động vật thân mềm hai vỏ là PSP -
Paralytic Shellfish Poisoning, DSP - Diarrhetic Shellfish
Poisoning, ASP - Amnesis Shellfish poisoning đã làm
nhiễm độc gần 2000 trường hợp trên toàn cầu hàng năm
(Gusafa M. Hallegraeff, 1991).
Hiện nay, trong nuôi trồng thuỷ sản để tạo thế cân bằng
sinh thái và ổn định bền vững vùng nuôi người ta nuôi kết
hợp các đối tượng ăn động vật như cá, tôm với các đối
tượng ăn lọc mùn bã hữu cơ như động vật thân mềm, hải
sâm. Mô hình này được gọi là “mô hình sinh thái” và hiện
nay đang được nhân rộng ở nhiều nước trên thế giới.
Nước sạch
Nước thải
Hình1. Mô hình nuôi kết hợp tôm (cá) –- bivalvia - rong
biển
Tôm (cá)
Bivalvia (Hầu,
V
ẹm)
Rong biển
Phytoplankton
Mùn bã hu cơ
Oỏc hửụng
Rong, caự
Veùm, hau
Hỡnh 2. Mụ hỡnh nuụi kt hp nhiu i tng trờn bin
1.3. Vai trũ trong y hc
Mt s loi ng vt thõn mm c dựng lm thuc cha
bnh nh: c bu (Pila polita) dựng tr bnh d dy, ngc
Trai tr bnh st, nang Mc cú kh nng cm mỏu. Bo
Ng va l mún n c sn va l v thuc quý cha bnh
quỏng g, c ci xo vi Bo Ng cha bnh tiu ng,
ch phm sinh hc c ch to t Bo Ng Haliotis varia
cú tỏc dng tng cng trớ nh (Nguyn Th Thỏi Võn,
2004). Ngoi ra do cú hm lng protein cao, cú cha
vitamin (c bit l vitamin B
12
) nờn nú c dựng trong
sn xut thuc b, thuc tng lc.
1.4. Vai trũ l sinh vt ch th cho mụi trng
Hầu hết sự có mặt của các loài động vật thân mềm là chỉ số
cho điều kiện môi trường. Vẹm được dùng để kiểm tra mức
độ ô nhiễm của hàm lượng kim loại nặng trong môi trường
biển. Biến động thành phần và số lượng quần thể là chỉ số
đánh giá cho mức độ thay đổi của môi trường sống. Một
trong các hợp chất hoá học gây ảnh hưởng nhiều lên đời
sống của động vật thân mềm đã được nghiên cứu sâu là
chất sơn trên thành tàu thuỷ (Tributyltin - TBT). Các chất
này làm ảnh hưởng lên quá trình phát triển của các loài
sống bám lên thành các con tàu như Vẹm, Giun, Sun và đặc
biệt là các loài Ốc. Các cá thể Ốc gai cái khi tiếp xúc với
chất này sẽ phát sinh cơ quan giao cấu đực có kích thước
chiêù dài tỷ lệ thuận với hàm lượng chất này trong môi
trường gọi là hiện tượng imposex. Hiện tượng này làm gây
tắc nghẽn khả năng đẻ trứng của con cái. Vì vậy, có khả
năng sử dụng loài ốc này làm chỉ thị cho mức độ ô nhiễm
chất sơn trên thành tàu thuỷ trong môi trường biển.
1.5. Tác hại của một số loài động vật thân mềm độc hại
Bên cạnh những mặt có lợi, nhiều loài động vật thân
mềm là sinh vật gây hại. Một số loài Ốc ăn chồi non thực
vật gây tác hại đến mùa màng như ốc Sên (Achatina
fulica); Ốc bươu vàng (Pomacea sp.), một số loài sống đục
khoét thường gây hại cho các công trình thủy, thuyền bè
như Teredo, Pholas, Bankia hay một số loài sống bám làm
tàu thuyền hư vỏ, vận tốc và tải trọng giảm như hà, sun,
một số bám vào các đảo ngầm làm cản trở giao thông
đường biển.
Đã có một số người đã chết sau khi ăn thịt ĐVTM.
Độc tố trong thịt ĐVTM có thể gây chết ngay sau khi ăn
hoặc tồn tại và gây độc mãn tính trong thời gian dài. Các
nạn nhân ăn phải độc tố thường có triệu chứng nôn mửa
hoặc tiêu chảy. Các độc tố này thường được sản sinh ra từ
các loài tảo phù du gọi là các loài tảo độc thuộc nhóm
dinoflagellate: Gonyaulax, Protogonyaulax, Gymnodinium,
Pyrodinium, Nocticula, Ceratium, Protoperidinium .v.v
(M. Mohan Joseph, 1998). Điệp, Hầu, Vẹm, Ngao có thể
tiêu thụ các loài tảo này. Tuy nhiên chỉ một vài loài tảo
thuộc nhóm này có khả năng sinh độc tố. Khả năng sinh
độc tố tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường. Vấn đề này
đang được nghiên cứu. Trong trường hợp tảo phát triển
nhanh – tảo nở hoa – thịt ĐVTM tiêu thụ một lượng lớn tảo
nở hoa này sẽ rất dễ gây độc.
Loài Ốc có nọc độc cần được biết đến như nhóm họ
Ốc nón. Nọc càng độc hơn khi các loài này sử dụng cá làm
thức ăn. Bản chất của nọc độc là các loại protein, các loại
protein này có tác dụng làm tê liệt hệ thần kinh. Tất cả các
loài ốc nón đã biết có khả năng sản sinh ra các loại peptid
có tên chung là conotoxin. Nhiều nghiên cứu trên
conotoxin về trật tự sắp xếp, cơ chế tổng hợp, cấu trúc
gen đã xác định conotoxin cản trở hoạt động của protein
trên màng tế bào, ngăn chặn việc truyền xung động thần
kinh. Thuộc tính này làm cho conotoxin được sử dụng rộng
rãi trong ngành hoá sinh học. Đã có khoảng 200 bài báo đề
cập đến conotoxin. Mặc dù đã có khoảng 100 người đã bị
Conus tấn công và 35 người đã chết nhưng có ít nhất 3 loại
conotoxin có thể được sử dụng làm giảm đau và chữa trị
vết thương. Số lượng các giải thưởng được công nhận về
Conotoxin đã đạt đến con số 50 (Alan Kohn, 2003). Gần
đây người ta đã phát hiện ra loài mực tuộc đốm xanh có thể
gây chết người tại Bình Thuận.