Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Kinh tế học Vĩ mô - Bài 7 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 38 trang )


Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


173


Nội dung
• Phân tích khái niệm lạm phát và thất nghiệp
• Phân tích các tác động của lạm phát và thất
nghiệp đến nền kinh tế
• Chỉ ra các giải pháp nhằm kiềm chế mức
lạm phát và hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ở Việt
Nam hiện nay
• Bổ sung: Mối quan hệ giữa lạm phát và thất
nghiệp (đường Phillips, và các nhân tố làm
dịch chuyển và di chuyển đường Phillips)




Mục tiêu Hướng dẫn học
• Hiểu được các tác động (tích cực và tiêu
cực) của lạm phát và thất nghiệp của nền
kinh tế
• Hiểu được mối quan hệ giữa lạm phát và
thất nghiệp
• Định hướng và chỉ ra được các giải pháp
nhằm kiềm chế lạm phát và hạ thấp tỷ lệ
thất nghiệp ở các nước nói chung và ở
Việt Nam nói riêng



Thời lượng học

• 7 tiết học
• Học viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham
khảo để chọn ra những tài liệu tham khảo
hữu ích nhất
• Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu
được cung cấp cho môn học này để biết
được trình tự học tập

BÀI 7: THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


174
7.1. Thất nghiệp (Unemployment)
7.1.1. Thất nghiệp và các loại thất nghiệp
7.1.1.1. Các khái niệm liên quan
Để có cơ sở xác định thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp, chúng ta cần phân biệt một vài khái
niệm sau đây:
• Những người trong độ tuổi lao động: Là những người
ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy
định đã ghi trong hiến pháp và phát luật Lao động. Độ
tuổi lao động đối với nam và nữ ở một số quốc gia là
khác nhau, nó tuy thuộc và trình độ, năng lực, sự cống

hiến, và sức khỏe của người lao động. Ở Việt Nam, độ

tuổi lao động đối với nam là từ 16 – 60 tuổi, đối với nữ
là từ 16 – 55 tuổi.
Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động
đang có việc làm hoặc chưa có việc làm những đang
tìm kiếm việc làm. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ giữa lực lượng la
o động và
toàn bộ những người trong độ tuổi lao động (dân số một quốc gia trong độ tuổi lao động).
Ở phuơng Tây, trong nửa cuối thế kỷ 20, tỉ lệ tham gia lực lượng lao động tăng đáng kể,
phần lớn do sự tăng lên của số phụ nữ vào các vị trí việc làm. Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động tăng từ khoảng 5
9% vào năm 1948 đến 66% vào năm 2005; trong đó
tỷ lệ tăng của phụ nữ vào trong đó từ 32% lên 59% và tỷ lệ tham gia của nam giới vào
trong đó giảm từ 78% xuống 73%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là chìa khóa, nhân
tố quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế, tương tự như yếu tố năng suất hay hiệu quả
trong sản xuất.
• Người có việc làm: Là những người đang là
m việc trong các cơ sở kinh tế, giáo dục, văn
hoá, xã hội, v.v.
• Người thất nghiệp: Là người hiện đang chưa có việc làm những mong muốn và đang tìm
kiếm việc làm.
Ngoài những người có việc làm và thất nghiệp, những người còn lại trong độ tuổi lao
động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm người đi
học, nội trợ gia đình, những người k
hông có khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật,
v.v… và một
bộ phận không muốn tìm việc làm với những lý do khác nhau.
Bảng 7.1: Phân loại đối tượng lao động và ngoài độ tuổi lao động
Dân số
Trong độ tuổi lao động Ngoài độ tuổi lao động
Lực lượng lao động


Không tham gia lao động (ốm đau, nội
trợ, không muốn tìm việc)
Ngoài độ tuổi lao động
Có việc làm

Thất nghiệp
Không tham gia lao động ( ốm đau,
nội trợ, không muốn tìm việc)
Ngoài độ tuổi lao động
Các Chính phủ cần phải có chính sách khuyến khích đầu tư để tạo ra thêm công ăn việc làm
cho xã hội ngang qua việc xây dựng và triển khai hệ thống luật và các văn bản pháp qui
Thất nghiệp

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


175
dưới luật, cũng như phải nghiên cứu để xác định và duy trì cho được tỉ lệ lao động “chờ” và
có chính sách đào tạo, cũng như tái đào tạo, lực lượng lao động này. Giải quyết hợp lý tình
trạng thất nghiệp như vừa nói sẽ thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển thực sự.
Khi có công ăn việc làm ổn định, tức có thu nhập ổn định, con người sẽ tham gia làm cho
quá trình lưu
thông tiền tệ trong xã hội tăng tốc nhờ vào việc họ mua sắm, tiêu thụ. Đây là một
điều kiện quan trọng thúc đẩy phát triển về kinh tế của một vùng, một quốc gia. Phát triển về
kinh tế sẽ kéo theo hệ quả là xã hội, văn hóa, giáo
dục,.v.v. cũng phát triển. Vậy, việc cụ thể cần thực hiện là
giải quyết vấn đề tìm việc làm cho những người trong độ
tuổi l
ao động trong xã hội.

Tỷ lệ thất nghiệp: Là tỷ số giữa % số người thất nghiệp
so với tổng số người trong lực lượng lao động. Tỷ lệ thất
nghiệp là chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất
nghiệp của một quốc gia. Cũng vì thế còn có những
quan niệm khác nhau về nội dung và phương pháp tính
toán để nó có khả năng biểu hiện đún
g và đầy đủ đặc
điểm nhiều vẻ của tình trạng thất nghiệp thực tế, đặc biệt
là ở các nước đang phát triển.
Các khái niệm trên chỉ có tính quy ước và có thể khác
nhau giữa các quốc gia.
7.1.1.2. Phân loại thất nghiệp
Phân loại theo đặc tính chủ thể thất nghiệp:
• Theo giới tính: Tỷ lệ thất nghiệp ở nam giới cao hơn
tỷ lệ thất nghiệp ở nữ giới.
• Theo lứa tuổi: Tỷ lệ thất nghiệp ở những người trẻ
tuổi cao hơn tỷ lệ thất nghiệp ở những người cao tuổi.
• Theo vùng lãnh thổ: Khu vực đô thị thường có
tỷ lệ
thất nghiệp cao hơn nông thôn ở các nước đang phát
triển.
• Theo ngành nghề: Tùy thuộc vào từng giai đoạn,
từng thời điểm, các ngành suy thoái thì thất nghiệp
đối với ngành đó gia tăng và ngược lại.
• Theo dân tộc, chủng tộc: Tình trạng thất nghiệp có thể phụ thuộc vào sự phân biệt về
chủng tộc, sắc tộc của một số quốc g
ia.
Phân loại theo lý do thất nghiệp:
• Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp, không
hợp nghề, hợp vùng,…

• Mất việc: Các hãng cho thôi việc do những khó khăn trong kinh doanh,.v.v.
• Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh
niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ c
ông tác,…).
• Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc
nhưng chưa tìm được việc làm.
Khuyến khích đầu tư
Phân loại thất nghiệp

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


176
Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp:
• Thất nghiệp tạm thời: Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số người lao động đang
trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng
(lương cao hơn, gần nhà hơn,…) hoặc những người mới bước vào thị trường lao động
đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi là
m,… Mọi xã hội trong bất kỳ thời điểm nào
đều tồn tại loại thất nghiệp này. Chỉ có sự khác nhau về quy mô
số người và thời gian thất nghiệp.
• Thất nghiệp theo mùa vụ: Thất nghiệp theo mùa vụ cũng là một
phần của nền kinh tế, và thường do thực tế là một số công việc
chỉ thực hiện được theo mùa nhất định như đá
nh cá, làm nông
nghiệp, xây dựng, v.v
• Thất nghiệp cơ cấu: Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi có sự mất
cân đối cung cầu giữa các loại lao động (giữa các ngành nghề, khu vực,…). Loại này gắn
liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường lao

động (tổ chức đào tạo lại, môi giới,…). Khi sự biến động
này là mạnh và kéo dài, nạn
thất nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất nghiệp dài
hạn. Thất nghiệp do cơ cấu là sự mất việc kéo dài trong các
ngành hoặc vùng có sự giảm sút kéo dài về nhu cầu lao động do
thay đổi cơ cấu nền kinh tế.Ví dụ kinh điển là sự dịch chuyển từ
lực lượng lao động chiếm đa số trong nông nghiệp (70% số lao
động) năm
1900 đến hiện nay chỉ chiếm 3%.
o Khi chúng ta có sự thay đổi về cơ cấu trong nền kinh tế,
chúng ta thường có:
Các ngành phát triển cùng với sự tăng lên về nhu cầu lao động cũng như các ngành có
sự suy giảm. Tuy nhiên, số lao động không có việc làm có xu hướng ở không đúng
khu vực hoặc có kỹ năng không phù hợp cho công việc mới – chúng ta chỉ cần suy
nghĩ về những người ngư dân ở Newfoundland (Canada) với trình độ giáo dục lớp 8.
Họ sẽ không trở thành những người lập t
rình máy tính, mặc dù có một sự thiếu hụt lớn
những lập trình viên ở cả nước. Để có được một công việc mới, bạn phải tự thân cố
gắng đào tạo lại, tự thân thay đổi chỗ ở, hoặc bạn chỉ có thể nghỉ hưu. Điều này có thể
khó khăn đối với những người lao động, đặc biệt là nếu họ kh
ông trang trải được việc
đào tạo lại, hoặc nếu họ già hơn.
o Nguồn gốc của những thay đổi trong cơ cấu bao gồm:
 Sự dịch chuyển của các ngành nghề xuất khẩu và nhập khẩu do thương mại quốc tế
tự do hơn.
 Những vi mạch máy tính rẻ dẫn đến sự nở rộ về tự động hoá và robot hoá. (Ví dụ
như có một sự sụt giảm lớn trong nhu cầu đối với nghề hướng dẫn trong ngân hàng

và người trực điện thoại, nhưng có sự tăng lớn nhu cầu về lập trình viên máy tính,
nhân viên nhập dữ liệu,.v.v.).

 Những thay đổi trong thị trường thế giới đối với các sản phẩm nông nghiệp.
 Có những lợi ích kinh tế của thất nghiệp do chuyển đổi nghề đối với cá nhân và xã
hội. Những công nhân trẻ đang trải qua thất nghiệp sẽ cố gắng tì
m kiếm những
công việc phù hợp với khả năng và lợi ích của họ.
Thất nghiệp mùa vụ
Thất nghiệp cơ cấu

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


177
 Lợi ích của việc thay đổi công việc là làm thoả mãn hơn và làm việc hiệu quả hơn.
Lợi ích xã hội do thay đổi công việc kèm theo với quá trình tìm kiếm công việc là
cho phép những người lao động có thể tìm kiếm được những công việc mà họ làm
hiệu quả hơn.
 Mặt khác, những công nhân thất nghiệp do cơ cấu sẽ không tìm được công việc
mới nếu họ không đào tạo lại hoặc thay đổi nơi ở. Thực tế n
ày có nghĩa là một chi
phí lớn hơn đối với người lao động và xã hội – ví dụ, những công nhân thất nghiệp
do cấu trúc không có việc làm trong nhiều giai đoạn. Những người lao động này
chiếm một chi phí lớn trong việc cơ cấu lại nền kinh tế của chúng ta, mặc dù xã hội
thu được lợi ích về dài hạn trong việc dịch chuyển đến những ngành mới này.
• Thất ngh
iệp do thiếu cầu: Loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu chung về lao động
giảm xuống. Nguồn gốc chính là ở sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được gọi là thất
nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu
kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của
loại n
ày là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở

khắp mọi nơi, mọi ngành nghề.
Phân loại theo tiếp cận mô hình cung cầu:
• Thất nghiệp tự nguyện (người lao động tự nguyện
thất nghiệp): Là số lượng người lao động tự nguyện
thất nghiệp do công việc và tiền công chưa phù hợp
với ý muốn của mình. Thất nghiệp tự nguyện chỉ một
tron
g những người “tự nguyện” không muốn làm việc,
do việc làm và mức lượng tương ứng chưa phù hợp với
mong muốn của mình. Bao gồm những người: Mới bổ sung vào lực lượng lao động hoặc tự ý bỏ
việc, do chuyển vùng (chuyển công tác, chuyển nơi ở, di dân), do tính chất thời vụ của công việc,
do thay đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề; do can thiệp
phi kinh tế.

Nghiên cứu điển hình
Thất nghiệp tự nguyện – Bài toán "lùi để tiến"
Không phải ai cũng có thể nhanh chóng tìm được việc làm phù hợp cũng không phải ai
có thể thích ứng và gắn bó lâu dài với công việc của mình. Vì một mức lương chưa
vừa ý, một môi trường làm việc không thuận lợi, có những người sẵn sàng nghỉ việc để
đeo đuổi những cơ hội tốt hơn. Thất nghiệp – với họ chưa bao giờ là điều gì đó tồi tệ.
Lùi một bước …
Thừa kinh nghiệm cũng chẳng phải thiếu khả năng để tạo cho mình cái "mác hàng
hiệu" mà các công ty, doanh nghiệp sẵn sàng "rải thảm" chào đón nhưng những người
"thất nghiệp" thuộc diện này vẫn có thể tự tin… lắc đầu và đợi chờ những điều họ
muốn. Không vội vàng, cuống cuồng xin việc, không lo lắng trước "thảm cảnh" đang
hiển hiện giăng sẵn trước mắt mà những người thất nghiệp bình thường vẫn luôn đối
diện, những người này luôn chuẩn bị tâm thế để xếp mình vào đội ngũ tự nguyện
không đi làm. Thất nghiệp, thiếu việc làm luôn đồng nghĩa với không có thu nhập.
Những người này, hơn ai khác, hiểu rõ những cơ hội sẽ đến và đi. Nhưng cũng chính họ,
hơn ai khác, biết rằng năng lực và "lịch sử thăng tiến" của họ cho phép họ có quyền lựa

chọn cơ hội nào là tốt nhất và phù hợp nhất với bản thân. Trở về nước với tấm bằng
thạc sĩ ngành Xây dựng, với gần chục năm giảng dạy trên đất Mỹ, Tùng tất nhiên trở
Thất nghiệp do thiếu cầu

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


178
thành đích ngắm của các công ty cả trong lẫn ngoài nước đang trong một cuộc chiến
tranh giành nhân sự cao cấp. Với mức lương không dưới 1500 USD/ tháng, Tùng nhận
lời làm cho một công ty sau khi đã có suy tính kĩ càng. Thời gian đầu, Tùng làm việc rất
nhiệt tình, có khó khăn nhưng lúc ấy anh chỉ nghĩ đơn giản là do khác biệt về môi trường
làm việc và anh có thể thích nghi dần qua thời gian. Thế nhưng Tùng nhanh chóng chán
ngán với chuyện họp hành liên miên, những thủ tục hành chính phức tạp và phong cách
làm việc khó có thể thay đổi của các sếp và đồng nghiệp trong công ty, anh xin nghỉ việc
và tiếp tục đầu quân cho một công ty khác. Mọi chuyện vẫn không như mong muốn.
Qua mấy lần như vậy, Tùng rơi vào tình trạng thất nghiệp lúc nào không hay.
Nhiều người vẫn không thể hiểu nổi một người như anh Quang lại đang nằm trong cảnh
thất nghiệp dù anh đã nhiều năm làm việc cho các công ty nước ngoài trong cương vị
của nhà quản lý. Từ bỏ mức lương hàng ngàn đô, từ bỏ vị trí trưởng phòng đang nắm
giữ, anh lui về lo cho gia đình, con cái và tối tối lại đi học thêm tại trung tâm ngoại ngữ,
ôn thi cao học để xây dựng cho mình một con đường mới với nhiều dự tính hoài bão.
Với những du học sinh mới trở về nước như Tuấn Anh, chịu thất nghiệp cũng bởi vì
mức lương không bao giờ được dưới 500 USD/tháng. Chi phí học hành ngốn hết hàng
ngàn đô suốt những năm tháng bên xứ người là lí do chính khiến họ cân nhắc sẽ đầu
quân cho công ty nào có thu nhập cao hơn để bù "vốn".
Để tiến mấy bước
Không vừa ý vì mức lương chưa làm thỏa mãn, vì chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng với
công sức họ bỏ ra, chấp nhận ra đi vì môi trường làm việc không phù hợp để phát triển

năng lực và thăng tiến, có những người đã chịu "thất nghiệp" để chờ đợi những cơ hội
và một tương lai như mình mong muốn. Đó là những cách không giống nhau để
người ta thực hiện những khát vọng của bản thân.
Với những người thất nghiệp kiểu này, công việc và sự săn đón của các công ty đôi khi
trở nên quá thừa vì bản thân họ biết rằng họ có sự chọn lựa cho riêng bản thân. Họ biết
nói không khi cảm thấy không phù hợp và "chưa phải lúc" để lao đầu vào công việc.
Tùng dù thất nghiệp nhưng anh vẫn vừa nghiên cứu chuyên môn, tham gia những dự
án của một công ty hay một tổ chức phi Chính phủ nào đó, vừa chờ đợi những cơ hội
việc làm phù hợp với chuyên môn và năng lực của bản thân. Tùng muốn ứng dụng
những gì đã học được bên xứ người vào công việc, "không thì thật là lãng phí",
Tùng nói, không quên đề cập đến những tính toán mà bản thân đang theo đuổi.
Còn anh Quang sau những khóa học tiếng anh và ôn thi cao học ngành quan hệ quốc tế
đang dọn sẵn đường cho một kế hoạch công việc đúng với mơ ước mà anh đã từng
nung nấu: Ngành ngoại giao. Theo như anh Quang nói thì lương cao, môi trường làm
việc tốt với anh chưa phải là tất cả mà với anh bây giờ, đam mê công việc, lĩnh vực
ngành nghề nào mới là quan trọng.
Bỏ qua những lời mời chào có thể hấp dẫn với người khác, Tuấn Anh vẫn tự tin đưa ra
điều kiện để các công ty "chi đẹp" thì Tuấn Anh mới đồng ý về làm. Với mức lương
trên 500 USD/ tháng, Tuấn Anh mới mong mình hoàn được số vốn không hề nhỏ đã
bỏ ra khi du học. Bằng cấp quốc tế, năng lực và có sẵn kinh nghiệm dắt lưng, Tuấn
Anh không cảm thấy lo lắng gì khi mình đang trong cảnh "ăn không ngồi rồi". Sáng
sáng đi cà phê, lên mạng, thỉnh thoảng cùng hội bạn theo xu hướng làm việc tự do
nhận vài dự án cho chân tay đỡ rảnh rang quá, Tuấn Anh tiếp tục sàng lọc những lời
mời từ phía các nhà tuyển dụng.

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


179
Tự tin với năng lực và kinh nghiệm sẵn có, những người thất nghiệp kiểu này đang tự

tìm lời giải cho bài toán lùi tiến của mình. Thất nghiệp để đón chờ những cơ hội mới,
thất nghiệp để nâng cao khả năng chuyên môn, và họ đang tạo cho mình những
"khoảng lặng" cần thiết cho những dự tính lớn lao trong sự nghiệp.
(Cập nhật lúc 14h00 ngày 5/7/2008 trên báo Kinh tế và Đô thị tại địa chỉ

• Thất nghiệp không tự nguyện (hay thất nghiệp chu kỳ): Do chu kỳ kinh tế gây nên, còn
gọi là thất nghiệp do thiếu cầu (theo trường phái Keynes).
• Thất nghiệp tự nhiên: Thất nghiệp tự nhiên là
mức thất nghiệp xảy ra khi thị trường lao động
đạt trạng thái cân bằng. Nói cách khác, thất
nghiệp tự nhiên là số lượng người lao động
không chấp nhận làm việc ở mức tiền công khi
thị trường lao động câ
n bằng. Số lượng người
thất nghiệp tự nhiên sẽ là tổng số thất nghiệp tự
nguyện, những người chưa có những điều kiện
mong muốn để tham gia vào thị trường lao động.
Thất nghiệp tự nguyện chỉ một trong những người
“tự nguyện” không muốn làm việc, do việc làm
và mức lương tương ứng chưa phù
hợp với mong muốn của mình. Giả thiết này là cơ sở để
xây dựng đường cung: Một đường cung lao động nói chung chỉ ra quy mô của lực lượng lao
động xã hội tương ứng với các mức lương của thị trường lao động, một đường cung chỉ ra
bộ phận lao động chấp nhận việc làm với các mức lương tương ứng của thị trường lao động.
Khoảng cách giữa ha
i đường cung biểu thị con số thất nghiệp.
Tại mức tiền công W
1
số người thực tế tham gia lao động là L
1

; số lượng người nằm trong
lực lượng lao động là L
2
do đó xảy ra hiện tượng dư thừa lao động là đoạn
EF
= L
2
– L
1
,
đây chính là con số thất nghiệp tự nguyện.
Trên đồ thị hình 7.1 dưới đây, đường D
L
là đường cầu lao động, do nhu cầu lao động của
các doanh nghiệp quyết định. Đường S
L
là đường cung lực lượng lao động xã hội. Đường
S
L
' là đường cung bộ phận lao động sẵn sàng chấp nhận việc làm tương ứng với các mức
lương của thị trường lao động.
Tại mức tiền công W
1
số người thực tế tham gia lao động là L
1
; số lượng người nằm trong
lực lượng lao động là L
2
do đó xảy ra hiện tượng dư thừa lao động là đoạn EF = L
2

– L
1
,
đây chính là con số thất nghiệp tự nguyện.
Nếu Chính phủ quy định mức tiền lương tối thiểu, giả sử W
2
cao hơn mức lương cân bằng của
thị trường lao động W
0
. Ở mức tiền lương W
2
, cung lao động sẵn sàng chấp nhận việc làm S
L
'
sẽ lớn hơn cầu lao động. Đoạn
AB trên đồ thị biểu thị sự chênh lệch này. Đó chính là số
người thất nghiệp mà theo “Lý thuyết cổ điển” là bộ phận thất nghiệp tự nguyện bởi xã hội chỉ
chấp nhận làm việc tại mức lương cao hơn W
2
. Tổng số thất nghiệp tự nguyện trong trường
hợp này sẽ là đoạn
AC
(bao gồm thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp theo
lý thuyết cổ điển).
Thất nghiệp tự nhiên

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t



180

Hình 7.1.
Thất nghiệp tự nhiên
7.1.2. Nguyên nhân thất nghiệp
• Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp, không
hợp nghề, hợp vùng,.v.v.
• Mất việc: Các hãng cho thôi việc do những khó khăn trong kinh doanh,.v.v.
• Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh
niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác,.v.v.)
• Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc
nhưng chưa tìm được việc làm.
Kết cục của những người thất nghiệp không phải là vĩnh viễn. Có những người (bỏ việc, mất
việc,.v.v.) sau một thời gian nào đó sẽ được gọi trở lại làm việc, nhưng cũng có một số
người không có khả năng đó và họ phải r
a khỏi lực lượng lao động do không có điều kiện
bản thân phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động hoặc do mất hẳn sự hứng thú làm việc
hay có thể còn vì một nguyên nhân khác.
7.1.2.1. Thất nghiệp theo lý thuyết của trường phái cổ điển

Hình 7.2.
Mức tiền công tối thiểu cao hơn
Quan điểm của trường phái cổ điển cho rằng giá cả và tiền công linh hoạt, thị trường lao
động luôn đạt trạng thái cân bằng, còn có thất nghiệp là do ấn định mức tiền công cao hơn
mức tiền công cân bằng.

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


181

Nhìn vào đồ thị hình 7.2 trên đây ta thấy, thị trường lao động đạt trạng thái cân bằng tại E
với mức tiền công cân bằng là W
0
. Một bộ phận lớn lao động đạt mức tiền công W
1
cao hơn
mức tiền công cân bằng W
0
trên thị trường lao động.
Tại mức tiền công W
1
cầu lao động là L
1
, cung lao động là L
2
. Vì L
1
> L
2
cho nên xảy ra
hiện tượng dư thừa lao động là đoạn
AB , hay xảy ra thất nghiệp. Áp lực để giảm tiền công
xuống trạng thái cân bằng là rất khó.
7.1.2.2. Thất nghiệp theo lý thuyết của Keynes
Quan điểm của trường phái Keynes cho rằng giá cả và tiền công thường cứng nhắc, không
linh hoạt, do đó dẫn đến hiện tượng thất nghiệp.
,
D
L
W

1
W
0

Hình 7.3.
Thất nghiệp do thiếu cầu

Giả sử trong nền kinh tế tổng cầu AD suy giảm, cầu lao động giảm từ D
L
đến D
L
’, do giá cả
và tiền công không linh hoạt nên tại mức tiền công W
1
ta có cầu lao động là L
1
cung lao
động là L
2
, nhìn vào đồ thị ta thấy L
1
< L
2
, dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Lượng người thất nghiệp là:
20 2 1
EE L L
=
− . Thất nghiệp loại này còn gọi là thất nghiệp do
thiếu cầu. Nguồn gốc chính là do ở sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được gọi là thất

nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ
kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn
lan ở khắp mọi nơi,
mọi ngành nghề.
7.1.3. Tác động của thất nghiệp
Thất nghiệp là tình trạng không có việc làm để sinh sống. Khi tình trạng này lan rộng đến
nhiều người trong xã hội, người ta gọi là “nạn thất nghiệp”. Nó là một vấn đề lớn của mọi
xã hội và mọi nền kinh tế, phát triển hay đang phát triển, cần phải tìm cách khắc phục.
Chúng ta có thể xem xét tác động của thất nghiệp thông qua các nội dung sau:
• Thất nghiệp khiến cho nhiều người đành chấp nhận làm những công việc không
đúng nghề khiến họ không thể đóng góp hết khả năng cho xã hội.
Điều này ngăn cản
họ phát triển toàn diện và thực sự.
• Thất nghiệp khiến cá nhân người đó rơi vào tình trạng mất cân bằng tâm lý, do những
thay đổi lớn so với các thói quen làm việc trước đó.
Tình trạng tâm lý bất ổn này có thể
lây lan sang hoặc tác động đến những người sống chung quanh. Đó là chưa kể tới việc
người bị thất nghiệp có thể trở nên sa sút về mặt đạo đức khi ở trong tình trạng không có
chuyện gì chính thức để làm.

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


182
• Mất việc làm ổn định có thể đẩy một người vào tình thế tìm cách bù trừ qua việc nhận
đại một công việc mà đôi khi không trong sáng hoặc phạm pháp, không xứng với
nhân phẩm của họ.
Các tay trùm xã hội đen rất biết tâm lý này và cũng biết cách lôi kéo
để có thêm người “cộng sự”.

• Mất việc kéo dài cũng thường đưa đến tình trạng bất ổn trong gia đình của người bị
mất việc,
không chỉ trong mức độ giảm thu nhập cho gia đình mà, hơn thế nữa, còn có
nguy cơ tạo ra hoặc làm bộc phát những xung đột gia đình.
Đôi khi điều này dẫn đến
tình trạng tan vỡ gia đình, nếu cộng hưởng với nhiều mối mâu thuẫn khác.
Nhìn trong mức độ tác hại thì thấy như vậy, tuy nhiên, xét theo góc độ toàn nền kinh tế xã
hội, thì tình trạng mất việc làm tạm thời trên một tỉ
lệ cho phép trong số những người trong độ tuổi lao
động sẽ là điều kiện để thị trường lao động tự cơ cấu
hóa lại hoặc để xã
hội có thể tổ chức đào tạo lại hay
đào tạo bổ túc tay nghề cho những người đang
không trực tiếp tham gia lao động vào thời kỳ đó.
Một tỉ lệ thất nghiệp hợp lý cho phép xã hội có được
một lực lượng lao động dự phòng cần thiết và nhất
là có điều kiện đào tạo lực lượng lao động “dôi ra”
đó th
eo hướng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật
và tay nghề hơn nữa. Đây là điểm tích cực.
Để cụ thể hơn, chúng ta có thể xem xét tác động của
thất nghiệp đối với từng đối tượng trong xã hội:
7.1.3.1. Đối với bản thân và gia đình
Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao động khác, tiêu
tốn thời gian vô nghĩa, áp lực tâm lý và tất nhiên là
không có khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết
yếu cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Yếu tố sau là
vô cùng trầm trọng cho người gánh vác nghĩa vụ gia
đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên cứu
cụ thể chỉ ra rằng, gia tăng thất nghiệp đi l

iền với gia
tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, và suy giảm chất
lượng sức khỏe.
Một số quan điểm cho rằng người lao động nhiều
khi phải chọn công việc có thu nhập thấp (trong khi
đi tìm cho mình công việc phù hợp) bởi vì các lợi
ích của bảo hiểm xã hội chỉ cung cấp cho những ai có quá trình làm việc trước đó. Về phía
người sử dụng
lao động thì sử dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép với những người
làm công cho mình (như không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất cao, trả
lương thấp, hạn chế cơ hội thăng tiến,.v.v.).
Cái giá khác của thất nghiệp còn thể hiện ở chỗ khi thiếu các nguồn tài chính và phúc lợi xã
hội, các cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với trình độ, năng lực của

nh. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng.
Những thiệt thòi khi mất việc dẫn đến trầm uất, suy yếu ảnh hưởng của công đoàn, công
nhân lao động vất vả hơn, chấp nhận thù lao ít ỏi hơn và sau cùng là chủ nghĩa bảo hộ việc
làm. Chủ nghĩa này đặt ra những rào cản với người muốn gia nhập công việc, hạn chế di

Tìm việc

Tác động của thất nghiệp
với bản thân và gia đinh

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


183
dân, và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm
phán điều kiện lao động nghiêng về giới chủ, tăng chi phí khi rời công việc và giảm các lợi

ích của việc tìm cơ hội thu nhập khác.
7.1.3.2. Ảnh hưởng của thất nghiệp tới xã hội và nền kinh tế
Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn lực
con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. Thất
nghiệp có nghĩa là sản xuất ít hơn, giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô.
Đối với xã hội:
• Có thể đương đầu với các tệ nạn xã hội do người
thất nghiệp gây ra.
• Chi nhiều tiền hơn để giải quyết hậu quả từ phía
thất nghiệp như y tế, trật tự an ninh trong xã
hội,.v.v.
• Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa
và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh
doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm.
Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu
tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ
hội đầu tư cũng ít hơn.
7.1.4. Các giải pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp
Giải pháp của thị trường để giải quyết thất nghiệp theo
mùa và thất nghiệp do thay đổi công việc bao gồm việc
tìm việc tư nhân, quảng cáo của các doanh nghiệp cũng
như người tìm việc, và các trung tâm tìm việc tư nhân.
7.1.4.1. Tạo ra công ăn việc làm mới
Có công ăn việc làm là một nhu cầu chính đáng của
con người trong xã hội, nhất là đối với những người
trong độ tuổi lao động. Do đó, tạo ra công ăn việc làm
đáp ứng “đủ” nhu cầu tham gia lao động của các thành
viên trong xã hội là cần thiết để có thể có được một xã
hội ổn định và phát triển. Đây trước hết là trách nhiệm
của Chính phủ các quốc gia, xét về phương diện quản

lý vĩ mô
, thực hiện thông qua việc hoạch định các
chính sách và hệ thống luật pháp có liên quan.
Thứ đến, cũng cần đến tinh thần trách nhiệm của các
thành viên trong xã hội, cụ thể là các nhà đầu tư và
các doanh nghiệp, xét trên bình diện tham gia sản xuất
kinh doanh. Thật vậy, chính việc mạnh dạn đầu tư sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, công cũng như
tư, mà xã hội có thêm một số việc làm tương ứng.
Đóng
góp này, nếu nhìn riêng lẻ thì không thấy quan
trọng mấy, vì mỗi doanh nghiệp chỉ tạo ra được một
số việc làm, tùy theo ngành nghề và qui mô đầu tư
của doanh nghiệp, nhưng nếu cộng tất cả lại trong
Tạo công ăn việc làm
Đào tạo nghề
Tác động của thất nghiệp tới xã hội

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


184
phạm vi toàn nền kinh tế thì thật đáng kể. Nói theo cách đảo ngược thì nếu trừ đi các đóng
góp loại này của từng doanh nghiệp, cho dù các doanh nghiệp với qui mô nhỏ và rất nhỏ, xã
hội sẽ mất đi một số việc làm tương ứng và con số thất nghiệp dôi ra từ đây đáng phải kể
đến. Và, nếu điều này xảy ra đồng loạt ở nhiều doanh nghiệp – như trong trường hợp h
àng
loạt công ty, xí nghiệp ở Nhật phá sản do biến động tiền tệ vào những năm đầu thập niên
1990, với hàng ngày có đến khoảng 6.000 doanh nghiệp tuyên bố phá sản (theo các bản tin

thời sự vào thời kỳ đó) thì con số người thất nghiệp sẽ tăng vọt gây ảnh hưởng đáng kể tới nền
kinh tế nói chung, nếu tình trạng này kéo dài.
Nếu mỗi công việc làm thường đòi hỏi một trìn
h độ tay nghề hoặc trình độ văn hóa tương
ứng, một vấn đề khác đặt ra là liệu những người muốn tham gia lao động có đáp ứng được
yêu cầu này không? Nói cách khác, cần phải có một hệ thống đào tạo phù hợp và một tinh
thần tự đào tạo tốt.
7.1.4.2. Đào tạo và tự đào tạo nghề nghiệp
Đào tạo là “quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những kinh nghiệm, những
tri thức, những kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm
chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập
và góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước”.
Để có một nghề, người ta, nhất là n
hững người thuộc thế hệ trẻ, cần phải trải qua thời kỳ đào tạo
cần thiết. Đặc biệt ngày nay, trong bối cảnh những thành tựu khoa học kỹ thuật được phát minh
và ứng dụng hầu như tức thì vào sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh được tổ chức theo
những qui trình chặt chẽ và khoa học, thì việc học cho
thành thạo một nghề và, hơn nữa, nắm vững
được mối
liên hệ giữa các ngành nghề cũng như giữa các khâu
khác nhau trong các qui trình sản xuất là điều thật sự
cần thiết để một con người hội đủ khả năng tham gia
lao động góp phần xây dựng xã hội. Ngoài ra, trong
khi đang tham gia hoạt động sản xuất, mỗi người lao
động cũng cần phải tự trau dồi và nâng cao tay nghề
sao cho phù hợp và đáp ứng được với trì
nh độ sản
xuất luôn được nâng cao trong xã hội. Điều này sẽ
đảm bảo cho người đó không bị tụt hậu hoặc bị thải loại vì lý do trình độ nghề nghiệp. Ví
dụ, trong lĩnh vực tin học, một lĩnh vực mới nhưng cũng thay đổi rất nhanh trong việc phát

minh và ứng dụng những kiến thức mới, chỉ cần “dậm chân tại chỗ” trong một thời gian
ngắn, kh
ông lo tự học hỏi thêm, tự cập nhật hóa kiến thức của mình, thì một kỹ thuật viên
hoặc lập trình viên, cho dù có chuyên môn khá cao, cũng sẽ trở thành người tụt hậu không
theo kịp các đồng nghiệp và bị đào thải bởi thị trường.
Đào tạo và tự đào tạo có vai trò quan trọng và cần thiết, nhưng phải đào tạo nghề nào, đào
tạo cho ai? Đấy lại là một vấn đề kh
ác cũng cần quan tâm, vấn đề hướng nghiệp.
7.1.4.3. Vấn đề hướng nghiệp
Chọn đúng nghề, làm việc đúng khả năng là điều quan trọng cần phải lưu ý ngay từ trong
chương trình giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Thật vậy, một người khó có thể trở thành
chuyên nghiệp hay tinh thông một nghề nếu nghề đó không phù hợp với cá tính, tâm lý, thể
lý và sở thích của mình. Trong trường hợp đó, việc hành nghề không đem lại cho bản thân
người đó sự phấn khởi và niềm hạn
h phúc, có chăng chỉ là khả năng thích ứng hoặc nỗ lực
làm việc của bản thân để hoàn thành công việc được giao. Điều này làm cho hiệu quả do
việc hành nghề của người đó mang lại không thể đạt tới mức tối đa. Ví dụ một người có cá
Vấn đề hướng nghiệp

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


185
tính trầm lặng sẽ không thể nào thích hợp được với một nghề đòi hỏi sự bao quát và tính
hoạt bát, như nghề quản trị chẳng hạn. Với tính cách ít nói và thích lặng lẽ làm việc, người
loại này sẽ thích hợp hơn nhiều cho một công việc của phòng thí nghiệm (dĩ nhiên, còn phải
tính đến nhiều yếu tố chuyên môn khác nữa), vốn là loại công việc đòi sự kiên trì tự giam
mình lâu giờ trong phòng nghiên cứu với nhữn
g thí nghiệm lặp đi lặp lại để theo dõi quan
sát. Với cá tính như vậy, người loại này mới cảm thấy niềm vui trong loại công việc mà

những người hiếu động khó có thể hoàn thành cách xuất sắc.
Ngày nay, ta thường nghe nói nhiều đến các loại chuyên nghiệp trong thể thao như cầu thủ chuyên
nghiệp, cây vợt chuyên nghiệp, tay đua chuyên nghiệp, Những người theo các loại “nghiệp” này
là những người vốn say mê và cảm thấy hạnh
phúc khi làm những công việc đó, đến nỗi những
hoạt động ấy trở thành “lẽ sống” của họ (đương nhiên, từ chuyên nghiệp ở đây còn diễn tả rằng
những người này làm công việc đó vì tiền, để kiếm sống). Chính nhờ sự chuyên nghiệp và với
năng khiếu trời phú đặc biệt, họ mới thực hiện được những thao tác thật nhuần nhuyễn v
à điêu
luyện mà những người khác không thể làm được cho dù có tập luyện nhiều đi nữa.
Việc định hướng nghề nghiệp cho con người nói chung, và nhất là người trẻ sắp vào đời nói
riêng, là điều cần thiết và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Nếu thực hiện tốt khâu này,
người ta có thể tận dụng được hết khả năng và năng khiếu trời cho của từng thành viên trong
xã hội phục vụ cho sự ph
át triển và thịnh vượng chung.
Có việc làm, có người lành nghề được đào tạo hoàn chỉnh và biết tự đào tạo tốt là một trong
những điều kiện nền tảng cho xã hội phát triển. Nhưng trên góc độ luân lý xã hội, người ta
còn được kêu gọi và yêu cầu hành nghề có đạo đức và theo lương tâm nghề nghiệp nữa.
7.1.5. Vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam
Ngày nay, ở Việt Nam và nhất là tại các thành phố lớn, nhu cầu tìm việc làm rất lớn. Nhìn
vào bảng số liệu về tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị phân theo
vùng giai đoạn 1996 – 2005 cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực Đồng bằng Sông Hồng và
khu vực Đông Nam Bộ thường chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là hai thành phố Hà Nội và
Hồ Chí
Minh có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất hàng năm.
Bảng 7.2: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động
trong độ tuổi ở khu vực thành thị phân theo vùng


1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

2003 2004 2005 2006
Sơ b


2007
Cả nước 5.88 6.01 6.85 6.74 6.42 6.28 6.01
5.78 5.60 5.31 4.82 4.64
Đồng bằng
sông Hồng 7.57 7.56 8.25 8.00 7.34 7.07 6.64
6.38 6.03 5.61 6.42 5.74
Đông Bắc 6.34 6.60 6.95 6.49 6.73 6.10
5.93 5.45 5.12 4.32 3.97
Tây Bắc

6.42
4.73 5.92 5.87 6.02 5.62 5.11
5.19 5.30 4.91 3.89 3.42
Bắc Trung Bộ 6.96 6.68 7.26 7.15 6.87 6.72 5.82
5.45 5.35 4.98 5.50 4.92
Duyên hải Nam
Trung Bộ 5.57 5.42 6.67 6.55 6.31 6.16 5.50
5.46 5.70 5.52 5.36 4.99
Tây Nguyên 4.24 4.99 5.88 5.40 5.16 5.55 4.90
4.39 4.53 4.23 2.38 2.11
Đông Nam Bộ 5.43 5.89 6.44 6.33 6.16 5.92 6.30
6.08 5.92 5.62 5.47 4.83
Đồng bằng
sông Cửu Long 4.73 4.72 6.35 6.40 6.15 6.08 5.50
5.26 5.03 4.87 4.52 4.03
Hà Nội 7.71 8.56 9.09 8.96 7.95 7.39 7.08

6.84
Đà Nẵng 5.53 5.42 6.35 6.04 5.95 5.54 5.30
5.16
TP. Hồ Chí Minh 5.68 6.13 6.76 6.88 6.48 6.04 6.73
6.58
Đồng Nai 4.61 4.03 5.52 5.65 4.75 514 5.27
4.86

Nguồn: Tổng cục Thống k
ê

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


186
Tỷ lệ thất nghiệp thường tập trung ở lứa tuổi thanh niên. Tính đến năm 2000 số người trong
độ tuổi thất nghiệp là 1,45 triệu người, trong đó khu vực thành thị 692 nghìn người, khu vực
nông thôn là 755 nghìn người, chủ yếu là trong độ tuổi thanh niên và con số này còn cao
hơn trong năm 2003. Tuy nhiên chưa bao giờ sức ép về việc làm trong xã hội ta, đặc biệt là
việc làm cho giới trẻ lại thu hút sự quan tâm của nhiều cấp nhiều ngành và Đoà
n TNCS
Hồ Chí Minh như hiện nay. Thanh niên chiếm 30% dân số cả nước, tương đương với 55,5%
lực lượng lao động toàn quốc, hàng năm có hàng triệu thanh niên đến tuổi lao động cần có
việc làm. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp đã giảm nhưng số người thất nghiệp vẫn tiếp tục tăng. Tỷ
lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn ở mức 8,2% và đang có xu hướng tăng
lên. Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội cho rằng vấn đề cấp thiết đặt ra là đến năm 2005 phải tạo việc làm
mới và ổn định việc làm cho 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao động/năm; Tăng tỷ
trọng lao động trong sản xuất công nghiệp và xây dựng lên 20 – 21%, lao động trong các

ngành dịch vụ lên 22 – 23%/năm, giảm lao động nông nghiệp xuống còn 56 – 57%. Để giải
quyết vấn đề việc làm cho thanh niên, nên xem xét một số
giải ph
áp sau đây:
• Thứ nhất, tạo việc làm cho thanh niên từ khu vực nông
nghiệp.
Thường thì khi nói đến vấn đề giải quyết việc làm
cho thanh niên người ta hay đặt nhiều hy vọng vào khu
vực công nghiệp và dịch vụ. Nhưng ở đây xuất phát từ đặc
thù của một nước nông nghiệp thì khu vực nông nghiệp
đóng một vai trò quan trọng. Chiến lược thanh niên đưa ra
chỉ tiêu "tăng tỷ lệ thời gian lao động trong năm của thanh
niên khu vực nông thôn lên 85% vào năm 2010”. Điều
này tưởng chừng như mâu
thuẫn vì chúng ta đang phấn đấu giảm tỷ lệ lao động nông
nghiệp. Nhưng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp không có nghĩa là thoát ly nông nghiệp.
Như chúng ta đã biết, gần 80% dân số nước ta sống bằng nông nghiệp. Vì vậy tìm việc
làm từ nông nghiệp là một việc làm hết sức tự nhiên và cần thiết.Tuy nhiên giải quyết
việc làm ở đây phải đi theo hướng chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp t
heo hướng nâng cao giá trị sản xuất trên một
ha đất. Cả nước ta hiện có trên 9,3 triệu ha đất nông
nghiệp. Giá trị sản lượng nông nghiệp của chúng ta
khoảng 9 tỷ USD/năm, bình quân 1000 USD/ha. Trong
khi đó Đài Loan chỉ có hơn 900 ngàn ha đất nông nghiệp
mà giá trị sản lượng tới 14 tỷ USD/năm, giá trị tạo ra từ 1
ha đất nông nghiệp của bạn gấp 15 lần ở nước ta. Vì vậy,
điều cần thiết ở khu
vực nông nghiệp hiện nay là phải tạo
ra được một lực lượng lao động có kiến thức, có tri thức

khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học mà
theo chúng tôi, không ai khác ngoài lực lượng lao động trẻ
phải đảm đương trọng trách. Muốn giải quyết việc làm ở khu vực này, cần hướng nghiệp
cho thanh niên học sinh đi vào các ngành nghề nông lâm ngư nghiệp, chế biến, sinh hoá
thực phẩm v
à có kế hoạch trở về phục vụ nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Như vậy vừa giãn được sức ép về việc làm ở khu vực thành thị, khắc phục tình trạng sinh
viên sau khi tốt nghiệp dồn về các thành phố lớn làm việc, vừa tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho khu vực nông nghiệp nông thôn đang cần tri thức khoa học công nghệ trên
con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Đất đai
nông nghiệp cũng là nơi có thể giải
quyết việc làm tại chỗ cho thanh niên bằng cách khuyến khích những người trẻ mở mang
Vấn đề thất nghiệp ở Vi

t Nam
Đất đai nông nghiệp

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


187
các trang trại, lâm trại, ngư trại, tạo các ngành nghề như nuôi trồng thuỷ hải sản, trồng,
chăm sóc và bảo vệ rừng, trồng cây ăn quả, nấm, và các loại cây trồng khác.
• Thứ hai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ hợp hợp tác xã tư nhân phát triển, tạo
thêm nhiều việc làm cho lao động trẻ.
Mười năm qua, kinh tế tư nhân tăng cả về số
lượng, vốn kinh doanh và lao động, tạo ra 40% GDP cho cả nước. Hộ kinh doanh cá thể
có số lượng lớn, phát triển rộng rãi từ nhiều năm nay.
Năm 2000 cả nước có gần 10.000.000 hộ kinh doanh cá thể, hàng ngàn hợp tác xã, v.v
với việc đa dạng ngành nghề sản xuất cũng tạo được hàng triệu việc làm cho nhân dân,

trong đó đối tượng thanh niên chiếm số đôn
g, những mô hình này cần nhân rộng hơn nữa
trong tương lai. Do đó, bên cạnh các hoạt động xã hội Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp
thanh niên cũng nên tổ chức các hợp tác xã thanh niên như HTX nuôi bò giống ở tỉnh
Đồng Tháp mới đây góp phần nhân giống cây con có chất lượng cao và tạo ra việc làm
tại chỗ cho lực lượng thanh niên.
• Thứ ba, giải quyết việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề mũi
nhọn.
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2010 thu hút thêm 4,8 – 5 triệu lao động trẻ vào
khu vực công nghiệp, xây dựng; 2,8 – 3 triệu lao động trẻ vào khu vực dịch vụ như chiến
lược thanh niên đã đề ra thì Nhà nước phải tìm mọi cách thu hút đầu tư nước ngoài vào
khu vực công nghiệp. Chú trọng mở mang các ngành dịch vụ, trong đó có du lịch và
thương mại là 2 ngành luôn có thế mạnh và ít kén chọn nhân công. Còn đối với khu vực
công nghiệp thì ngành Giáo dục Đào tạo v
à Dạy nghề phải có đối sách cung ứng đầy đủ
số lao động có tay nghề, được dạy nghề để đáp ứng yêu cầu, khuyến khích thanh niên
học nghề để tìm việc làm tại các khu công nghiệp tập trung. Tránh tình trạng có việc làm
nhưng thiếu nhân công có tay nghề cao như ở Bình Dương, Đồng Nai, Dung Quất, v.v
thời gian qua.
• Thứ tư, giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động. Để đạt mục tiêu xuất khẩu
0,8 đến 1 triệu lao động và chuyên gia trẻ, Nhà nước phải có kế hoạch mở rộng thị
trường xuất khẩu lao động và chuyên gia, tạo ra nhiều công ty, trung tâm giới thiệu cung
ứng xuất khẩu lao động có tín nhiệm, tránh xảy ra tình trạng lừa đảo, nâng giá dịch vụ lao
động và thiếu thông tin về thị trường lao động cho thanh niên, đặc biệt là thanh niên khu
vực nông thôn. Và cũng cần có kế hoạch hướng dẫn những
kiến thức cần thiết cho người
đi lao động nước ngoài để họ có thể nhanh chóng được nhập cuộc, tự tin khi đến lao động
tại nước bạn, tạo nên chất lượng nhân công cao, bình đẳng với các nước có lao động xuất
khẩu trong khu vực. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần có các cam kết với các nước nhập
khẩu lao động những quy ước về quyền và trách nhiệm của người l

ao động, về các chính
sách bảo vệ nhân phẩm của người lao động Việt Nam ở nước ngoài, không để xảy ra tình
trạng mang con bỏ chợ như Samoa, Malaysia và một số nơi mà báo chí đã đưa.
• Thứ năm, giải quyết việc làm qua việc phục hồi và mở rộng các làng nghề truyền thống.
Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, nhờ phục hồi và đầu tư
cho các nghề truyền thống mà tạo được việc làm cho nhiều người, sản xuất được những
mặt hàng xuất khẩu có giá trị mang lại nguồn lợi đáng kể cho đất nước. Việt Nam là một
nước có nhiều làng nghề truyền thống như chạm khảm, dệt, thêu ren, mây tre đan, Ví
dụ, riêng phía Nam Hà Nội mới đã có 1.116 làn
g nghề, trong đó có 411 làng có 20% số
hộ làm nghề, 120 làng được cấp bằng công nhận làng nghề với hơn 50% số dân sống
bằng nghề truyền thống, giúp hàng ngàn lao động nông thôn, trong đó chủ yếu là thanh
niên có việc làm. Nếu có sự quan tâm đầu tư thoả đáng trên khắp cả nước sẽ có hàng vạn

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


188
làng nghề, không những giải quyết việc làm được cho nhiều thanh niên mà còn bảo tồn
được ngành nghề truyền thống, mang lại lợi ích lâu dài cho quốc gia, dân tộc.
Đối với một quốc gia có số dân phát triển nhanh như nước ta, giải quyết việc làm luôn là
một vấn đề không thể một sớm một chiều. Tuy nhiên nếu Đảng và Nhà nước ta có chủ
trương, chính sách định hướng đúng và ngành giáo dục đào tạo, tổ chức Đoàn thanh
niên,
Hội Liên hiệp thanh niên biết cách tuyên truyền vận động và mỗi gia đình có ý thức trong
việc lựa chọn ngành nghề cho con em thì vấn đề cũng sẽ đơn giản hơn nhiều.
7.2. Lạm phát (Inflation)
7.2.1. Lạm phát và các loại lạm phát
7.2.1.1. Khái niệm

Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung (mức giá trung bình) theo thời gian.
Lạm phát tồn tại ở khắp mọi nơi trong nền kinh tế thị trường. Lạm phát xảy ra khi mức giá
chung thay đổi, khi mức giá tăng lên được gọi là lạm phát, khi mức giá giảm xuống được
gọi là giảm phát.
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện lạm phát gọi là
chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số giá cả c
hung của toàn bộ hàng hoá cấu thành tổng sản
phẩm quốc dân. Nó chính là GNP danh nghĩa/GNP thực tế. Trong thực tế, phải đến cuối
năm mới có thể xác định được chỉ số điều chỉnh GNP, cho nên người ta thường thay thế chỉ
số này bằng một trong hai loại chỉ số giá thông dụng khác: Chỉ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số
giá bán buôn (còn gọi là chỉ số giá cả sản xuất).
Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh sự biến động giá
cả của giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho
nền kinh tế ở một thời kỳ nào đó:
t0
ii
t
00
ii
pq
CPI ( ).100
pq
=



Trong đó: CPI
t
là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t. Chọn năm cơ sở và xác định giỏ hàng cho
năm cơ sở (q

t
) với t biểu thị năm hay thời kỳ thứ t năm hay thời kỳ thứ t, với t = 0 ở năm
cơ sở, và i là dạng viết gọn của mặt hàng tiêu dùng thứ i trong giỏ hàng cơ sở.
Thường người ta lựa chọn một thời kỳ cố định nào đó làm gốc để tính các chỉ số cá thể và tỷ
trọng mức tiêu dùng của các loại hàng hoá. Thời kỳ gốc để tính chỉ số cá
thể và thời kỳ gốc
để tính tỷ trọng tiêu dùng có thể trùng nhau (cùng một năm gốc) và cũng có thể lựa chọn
khác nhau (năm gốc cho giá khác với năm gốc cho cơ cấu tiêu dùng).
Khác với chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn (giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động
giá cả của đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Xu hướng biến động giá
chi
phí tất yếu sẽ tác động đến xu hướng giá cả hàng hoá trên thị trường. Hiện nay ở Việt
Nam, chỉ số được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng (được tính hàng tháng,
hàng quý, hàng năm).
7.2.1.2. Công thức tính tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự biến động
của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát. Thước đo chủ yếu của lạm phát trong một
thời kỳ là tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ này phản ánh sự biến động cũng như mức độ của lạm phát
của thời kỳ đang nghiên cứu và được xác định bằng công
thức:

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


189
tt1
t
t1
CPI CPI
100%

CPI



π= ⋅

Trong đó: π
t
là tỷ lệ lạm phát thời kỳ t, CPI
t
là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t, CPI
t – 1
là chỉ
số giá tiêu dùng thời kỳ t – 1.
Nghiên cứu điển hình
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH LẠM PHÁT CƠ BẢN
Nguyễn Minh Huệ
Tổng cục Thống kê
Những năm gần đây lạm phát trở thành vấn đề thời sự được đề cập thường xuyên trên
phương tiện truyền thông. Lạm phát thường được hiểu là lạm phát giá mua hàng của
người tiêu dùng và được biểu thị bằng chỉ số giá người tiêu dùng, gọi ngắn gọn là chỉ số
giá tiêu dùng (CPI).
CPI được tính dựa trên một giỏ hàng cố định giữa kỳ báo cáo và kỳ gốc. Cơ cấu giá trị
của giỏ đư
ợc sử dụng làm quyền số. Giỏ gồm các mặt hàng giống nhau cả về lượng và
phẩm cấp. Vì vậy, CPI phản ánh sự biến động chi phí để mua cùng một giỏ hàng giữa hai
kỳ. CPI được xây dựng để tính biến động sức mua của đồng tiền, chi phí sinh hoạt, chứ
không phải để tính lạm phát. Thế nhưng, không thể quan niệm sức mua, chi phí sinh hoạt
chỉ thể hiện
qua CPI. Các yếu tố thuế thu nhập, lãi suất tiền gửi, tiền vay và nhiều khoản

chi khác không thể hiện qua CPI. Thêm vào đó, khi giá cả hàng hoá nào đó tăng lên người
tiêu dùng có khuynh hướng mua mặt hàng thay thế với mức giá thấp hơn, trong khi CPI
coi giỏ hàng là không đổi.
Mặt khác lạm phát còn biểu hiện cả chi mua tài sản của doanh nghiệp, chi mua cho tiêu
dùng Chính phủ, chi phí tiền lương. Các loại lạm phát này biểu hiện qua các chỉ số giá
đầu vào, đầu ra của người sản xuất, xuất khẩu, chỉ số tiền lương.
Một số nước công bố cả
lạm phát chung cho các phần của GDP (GDP deflator). Tuy vậy chỉ số này trễ nên ít được
sử dụng.
CPI do Tổng cục Thống kê công bố hoàn toàn theo chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên CPI
được xây dựng dựa trên lý thuyết kinh tế vĩ mô về chi phí sinh hoạt, chứ không phải là lý
thuyết về chi phí lạm phát. Khi lý giải lạm phát là một hiện tượng
tiền tệ, nghĩa là với tốc
độ lưu thông tiền tệ không đổi (V), lạm phát (P) không xảy ra nếu cung tiền (M) không
tăng (M = PQ/V). Trong khi đó CPI lại không chỉ phản ánh tác động của riêng chính sách
tiền tệ mà cả chính sách tài chính, tỷ giá, thời vụ, tác động bất thường, tâm lý, thói quen,
niềm tin người tiêu dùng, tăng dân số, cách tính lạm phát.
Chính sách tài chính: Để tác động đến tổng cầu Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp
nới lỏng hay thắt chặt chi tiêu công cộng, tiền lương, tăng giảm thuế gián thu, tăng giảm
giá của khu vực kinh tế công (giá điện, sách giáo khoa, cước điện thoại), trợ giá, phụ thu,
bảo hiểm thất nghiệp, phát hành tín, trái phiếu hay dùng ngân sách mua dự trữ để nâng đỡ
giá cả. Các biện pháp này tác động trực tiếp đến tổng cầu, đến C
PI.
Chính sách tiền tệ: Để đạt được mục tiêu ổn định giá, kích thích tăng trưởng, Ngân hàng
Trung Ương sử dụng hai công cụ là lãi suất và mức cung tiền bằng cách tăng, giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, mua bán tín phiếu, trái phiếu ở thị trường mở. Hai
công cụ này tác động trực tiếp đến cầu tiền và tài sản tài chính khác, từ đó tác động gián
tiếp đến tổng cầu, đến CP
I.


Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


190
Tác động thời vụ: CPI cũng chịu ảnh hưởng mạnh của yếu tố thời vụ. Vào ngày Tết âm
lịch CPI thường gia tăng, giá gạo thời kỳ giáp hạt, lúc thu hoạch, giá hoa quả vào đầu vụ,
cuối vụ. Theo thông lệ dãy thời gian thì CPI, GDP thường được chỉnh mùa theo phương
pháp X-11,12.
Yếu tố bất thường: CPI cũng chịu tác động của hạn hán, lũ lụt, mưa nắng, hàng nhạy
cảm dễ biến động giá như hàng tươi sống, nhiên liệu. Ví dụ: Gần đến tết Tân Tỵ trời nắng
ấm nên người tiêu dùng quay sang dùng bia, làm
cho giá bia nhích lên; nắng nóng làm giá đá cây
tăng; tắc nghẽn giao thông đường sắt làm giá hoa
quả Nam Bộ bán ở Hà nội tăng nhưng đây nhưng
đây chỉ là mất "cân đối cung cầu nhất thời" h
ay sốc
về "cung".
Cách tính lạm phát: Tỷ lệ lạm phát tháng, quý có thể
so sánh với các kỳ gốc khác nhau.
Gọi
k1
it i,t i,t k i,t k
k(p p )/p

−−
∏= −
là tốc độ biến
động giá hàng i so với kỳ so sánh k.
Khi đó tỷ lệ lạm phát CPI là:


n
k1
tii,ti,tki,tk
i1
k. w(p p )/p )

−−
=
∏= −

(1)
k thường nhận các giá trị 1,3,6,12,24,36. Tỷ lệ lạm phát ở đây chính là số bình quân giản đơn
của các tỷ lệ lạm phát tháng của k tháng.
Giả sử rằng chúng ta có thể phân tách tỷ lệ lạm phát của nhóm hay mặt hàng i thành tỷ lệ
lạm phát trung bình (chung) và các sốc đối với giá mặt hàng i, ta có
CPI
t
i,t i,t
vπ=Π + .
Khi đó tỷ lệ lạm phát mặt hàng i ở kỳ t so với kỳ k là:

k
kk,CPI
t
i,t
j1
1
k
=

π=Π +

(2)
Từ (2) có thể thấy k càng lớn thì độ biến thiên của tỷ
lệ lạm phát càng bé, do các phần nhiễu sẽ khử trừ lẫn
nhau. Vì vậy việc công bố phân tích lạm phát tháng
bình quân q
uý (k = 3), bình quân năm (k = 12) sẽ cho thấy rõ xu thế
lạm phát và ít bị nhiễu hơn với (k = 1). Cách tính này
tương đương với tỷ lệ lạm phát so với tháng cùng
kỳ chia cho 12 hoặc 3.
Một cách tính lạm phát khác là tỷ lệ (%) giữa bình
quân CPI trong 12 tháng liên tục đến tháng hiện tại
và bình quân CPI các t
háng cùng kỳ trừ đi 100. Các chỉ số này phải là chỉ số định gốc hay
chung gốc so sánh (1995=100). Cách tính này có ý nghĩa về thống kê.
Tỷ lệ lạm phát Π
CPI
có thể phân tách thành 2 cấu phần: Tác động xu thế lâu dài hay
thường trực, thường xuyên, ổn định (
p
t
π
) và tác động nhiễu nhất thời, tức thời
()
T
t
ε

CPI P T

ttt
∏=π+ε

P
t
π
thể hiện xu thế lâu dài, thường trực do áp lực cầu được gọi là
lạm phát xu thế dài hạn hay lạm phát cơ bản.
Khi lạm phát CPI bị nhiễu cần chọn cách tách lọc khử nhiễu để lấy ra cấu phần xu thế dài
Tỷ lệ lạm phát
Chính sách tài chính

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


191
hạn
p
t
π . Nếu nhiễu
p
t
π của biến động giá các nhóm hàng thuộc cấu phần CPI có chung
phân bố chuẩn
N(µ δ
2
) thì lạm phát CPI có thể coi là lạm phát cơ bản. Số bình quân là ước lượng không
chệch với phương sai bé nhất.
Khi CPI bị nhiễu nhất thời đến chừng mực mà P
it

/ P
it-k
không tuân theo phân bố chuẩn thì
đồ thị phân bố tần suất thường lệch phải, đỉnh nhọn hơn phân bố chuẩn. Khi đó CPI sẽ
không còn là ước lượng tốt nhất và sẽ phản ánh sai lệch xu thế lâu dài của lạm phát.
Để hoạch định chính sách tiền tệ, NHNN cần một thước đo phản ánh xu thế lâu dài của
lạm phát. Chỉ tiêu này được gọi là lạm phát cơ bản hay lạm phát tiền tệ. Lạm p
hát cơ bản
là chỉ tiêu phản ánh tác động của chính sách tiền tệ, đo lường được các tác động hay áp
lực lâu dài ổn định của cầu đến sự biến động giá cả. Vì vậy chỉ tiêu này cần được tính
toán sao cho loại trừ được tác động của các sốc "cung" nhất thời, điều chỉnh giá không
đều, thuế gián thu, việc gán giá chờ (giá không đổi) khi hàng hoá vắng tạm thời.
Phương pháp xây dựng: Để tính lạm phát cơ bản, ở một số nước người ta sử dụng một
số phương pháp khác nhau như:

Loại trừ chủ quan: Đầu thập kỷ 70, nhiều nước bắt đầu áp dụng tính lạm phát cơ bản
theo "phương pháp loại trừ" một số nhóm/mặt hàng dễ bị sốc "cung" như hàng
LT-TP(F), nhiên liệu, điện năng (E), thuế (T). Cách tính này chỉ cần loại bỏ FET, tính
lại quyền số rồi tính bình quân gia quyền. Tuy vậy việc xác định mặt hàng loại trừ khá
máy móc và không có tính kiểm định. Hiện nay phương pháp này (CPIxFET) vẫn
được áp dụng tại nhiều nước tr
ên thế giới.

Trung vị gia quyền (WM − CPI): Là ước lượng thô nhất khi trung bình gia quyền
không còn là ước lượng tốt nhất cho xu thế trọng tâm. Trung vị là ước lượng tốt hơn
trung bình do nó không chịu ảnh hưởng của các sốc tăng giá tạm thời. Đây cũng là
ước lượng khoa học không tuỳ tiện như CPIxFET.

Trung bình lược bỏ (TM − CPI trimmed mean): Cuối thập kỷ 80 trở lại đây
phương pháp tính giá trị trung bình lược bỏ ngày càng được sử dụng rộng rãi. Khi

phân bố xác suất của phần nhiễu của biến động giá của nhóm ngành hàng có chung kỳ
vọng µ nhưng lại có phương sai khác nhau (
22
ij
σ
≠σ
) thì trung bình mẫu (CPI) là ước
lượng không chệch với phương sai không bé nhất. Khi đó cần loại trừ các nhóm hàng
rơi lệch hẳn về hai phía của đồ thị phân bố tần suất của biến động giá của các nhóm
hàng. Tỷ lệ (%) số nhóm lược bỏ (α) chia đều cả hai phía. Khi loại trừ xong trung
bình mẫu được tính cho các quan sát còn lại. TM − CPI có thể là bình quân giản đơn
hay gia quyền. Chúng tôi không nêu kỹ cách tính toán ở đây. Nếu loại mỗi phía 50
%
thì quan sát còn lại là trung vị và chính là WM − CPI.
Tiêu chí so sánh: Căn cứ để chọn phương pháp tối ưu là trung bình trượt cân giữa 1,
trượt lùi và tiến 6,9,18 quan sát liền kề quan sát hiện tại còn quan sát này là điểm giữa.
Khi đó α tối ưu là TM − CPI có căn bậc hai của sai số bình phương trung bình (RMSE)
2

giữa các dãy kết quả TM – CPI với từng α và dãy bình quân trượt tương ứng nhỏ nhất.
Trung bình trượt cân giữa là số trung bình hai phía quá khứ, tương lai nên phản ánh xu
thế lâu dài, lọc được nhiễu nhất thời tốt nhất.
Việc tính TM – CPI có thể tiến hành theo 2 trình tự ngược nhau. Có thể lấy tỷ lệ bình
quân 3 hoặc 6 tháng của biến động giá hay chỉ số giá rồi mới tính TM – CPI. Ngược lại
có thể tính TM – CPI ngay từ số liệu thô
rồi mới tính lạm phát bình quân 3 – 6 tháng
(công thức 1, k=3).

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t



192
Ngoài 3 phương pháp trên còn có phương pháp "bình quân quyền nghịch đảo độ lệch chuẩn
(SDI) hoặc phương sai (chỉ số Neo-edgeworth). Phương sai ở đây được tính riêng cho từng
nhóm hàng theo thời gian. Mô hình kinh tế lượng: Tự hồi quy véc tơ VAR hay mô hình tính
lạm phát Quah − Vahey cũng đã được tính thử tại một số nước. Mô hình này có ưu thế là
dựa trên lý thuyết tiền tệ nhưng các giả thiết xây dựng mô hình lại không sát thực tế.
Lượng hoá mục tiêu: Tại nhiều nước Ngân hàng TW đặt ra mục tiêu kiểm soát lạm phát
ở mức ổn định 2 – 3% /năm. Việc tính được lạm phát phản ánh chính sách tiền tệ và dự
báo được lạm phát là nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng TW. Vì vậy cần xúc tiến phối
hợp giữa Ngân hàng Nhà nước và TCTK để tính lạm phát cơ bản nhằm bảo đảm tính
khách quan trong tính toán. Nên tính thử, kiểm nghiệm bằng dự báo ngắn và trung hạn
cho 4 phương pháp CPI,TM − CPI, CPIxFET & WM − CP
I. Nếu có thể cũng nên áp dụng
thử mô hình "lạm phát Quah-Vahey". "Lạm phát tháng bình quân năm" nên được dùng làm
chỉ tiêu lạm phát mục tiêu (xem công thức 1).
Khi lạm phát cơ bản được tính toán và dự báo được thì Ngân hàng Nhà nước có thể lượng
hoá mục tiêu hạ giảm lạm phát gắn với chính sách tiền tệ. Kiểm nghiệm kết quả trước khi
công bố lạm phát cơ bản cũng là bước đi cần thiết. Xu thế trái ngược giữa sự tăng nh
anh
mức cung tiền và lạm phát CPI thấp hay âm trong 2 năm gần đây cho thấy tính cấp thiết
của việc tính lạm phát cơ bản. Xem xét nhân tố tác động đến CPI cho thấy cần thận trọng
hơn khi lý giải biến động CPI ngắn hạn một vài tháng. CPI có tăng hay giảm vài tháng
chưa thể nói lên gì nhiều. Lạm phát xu thế lâu dài do áp lực thực sự của cầu mới có ý
nghĩa đáng kể.
Chú giải:
1. TB trượt:
m
1

t
tj
m
ˆ
(2m 1)



π
=+ π


2.
2
jj
ˆ
RMSE ( * ) /n=π−π


7.2.1.3. Quy mô của lạm phát
Với những lần lạm phát xảy ra trong lịch sử, ta nhận thấy chúng thường xuất hiện với tỷ lệ
lạm phát là khác nhau và hình dạng khác nhau. Xét về quy mô, lạm phát sẽ xuất hiện với 3
mức quy mô như sau: Lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã, siêu lạm phát:

Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%
một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây tác động
đáng kể đến nền kinh tế. Trong điều kiện lạm phát
vừa phải và ổn định thì giá cả không khác nhiều so
với mức giá bình thường, do đó đồng tiền vẫn giữ
được phần lớn giá trị của nó trong thời gian tương đối

dài, việc kinh doanh tương đối ổn định, thị trường

không có những cơn sốt hay sự đảo lộn lớn.

Lạm phát phi mã là loại lạm phát xảy ra khi tỷ lệ lạm
phát tăng tương đối nhanh, với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số
trong năm. Ví dụ: tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam năm
2008 là 12,63%.
Lạm phát phi mã

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


193
• Siêu lạm phát là loại lạm phát xảy ra khi tỷ lệ lạm phát từ 3 con số trở lên. Ví dụ: Năm
2008, Zimbabwe hiện là quốc gia có tình trạng siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử của
thế giới. Với tỷ lệ lạm phát vượt mức 40 triệu %, người dân Zimbabwe lâm vào cuộc đấu
tranh sinh tồn thực sự. Dòng người dài xếp hàng trước cửa ngân hàng để chờ rút tiền đã
trở thành cảnh tượng quen thuộc ở Zi
mbabwe thời gian này. Muốn rút được tiền, người ta
phải dậy từ rất sớm để “xí” chỗ. Tất cả những người đến đây đều mang hy vọng rút một
khoản tiền Zimbabwe tương đương với 1 – 2 USD. Đây là hạn mức rút tiền tối đa mà
Chính phủ Zimbabwe mới công bố hồi tháng trước. Dù ít ỏi như vậy nhưng không phải ai
cũng có thể rút tiền, không ít người đã phải ra về trong
tuyệt vọng. Hạn mức rút tiền đã
tăng lên vào ngày 28/9/2008, nhưng với tỷ lệ lạm phát vượt mức 40 triệu %, giá trị của
khoản tiền được rút cũng chỉ là một con số rất nhỏ. Các chuyên gia kinh tế đều nói rằng,
sự sụp đổ kinh tế của Zimbabwe đang tăng tốc. Khi Chính phủ Zimbabwe in thêm nhiều
tiền hơn bao giờ hết, tỷ lệ lạm phát như con ngựa bất kham
, tăng từ 1.000% vào năm

2006 lên đến 12.000% vào năm 2007. Đây là một con số quá cao đến nỗi chính phủ phải
bỏ đi 10 chữ số 0 trên tờ tiền Zimbabwe vào tháng 8/2008 để đảm bảo máy tính có thể
tính được. Nếu không có động thái này, 1 USD có thể tương đương với 10.000 tỷ USD
Zimbabwe.
Một khi lạm phát quá cao sẽ gây ra biến động lớn đối với một nền kinh tế như: Các hợp
đồng kinh tế đã được ký
kết theo chỉ số giá cũ hoặc theo hợp đồng với đồng tiền chi trả là
đồng ngoại tệ mạnh nào đó, do vậy đã gây phức tạp cho việc tính toán hiệu quả của hoạt
động kinh doanh, lãi suất thực tế giảm tới mức âm dẫn đến thị trường tài chính khủng
hoảng. Giá trị của đồng bản tệ mất giá nghiêm trọng, dân cư giữ tiền ở mức tối thiểu cần
thiết
và tích lũy nhiều hàng hóa gây ra tình trạng khan hàng giả tạo càng đẩy mức lạm
phát tăng cao.

7.2.2. Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế, mà các yếu tố đưa đến
tăng giá lại rất đa dạng và phức tạp; mức độ tác động của chúng có thể rất khác nhau, tuỳ
thuộc vào đặc điểm cụ thể của một nền kinh tế trước và trong quá trình xảy ra lạm phát. Vì
vậy, phần này sẽ đề cập đến một số lý thuyết và quan điểm n
hằm lý giải những nguyên nhân
gây ra và duy trì thúc đẩy lạm phát.
7.2.2.1. Lạm phát cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá
tiềm năng. Điều này được minh hoạ đồ thị dưới. Trong thực tế, khi xảy ra lạm phát cầu kéo
người ta thường nhận thấy lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể
và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hoá.
Bản chất của lạm p
hát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về
hàng hoá có thể sản xuất được, trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.
Hình 7.4 cho thấy, khi tổng cầu tăng, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD

1
đến AD
2
, mức giá
chung tăng lên từ P
1
đến P
2
, lạm phát xảy ra.

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


194

Hình 7.4.
Lạm phát cầu kéo
Tổng cầu tăng làm tăng mức giá và GDP thực tế tăng. Tiền công tăng, đường ASS dịch
chuyển sang trái , mức giá tăng cao hơn, trong khi đó GDP thực tế giảm.
GDP thực tế(tỷ USD)

Hình 7.5.
Lạm phát cầu kéo

Hình 7.5 cho thấy, khi cầu tăng mạnh, đường AD
0
dịch chuyển lên trên (AD
1
), mức giá

chung tăng lên từ 100 đến 103. Giả sử tiền công tăng, đường ASS dịch chuyển sang trái,
mức giá chung tăng cao hơn từ 100 đến 110, trong khi GDP thực tế giảm xuống, mức giá
chung ngày càng tăng cao, lạm phát càng tăng nhanh.
7.2.2.2. Lạm phát chi phí đẩy
Khi sản lượng chưa đạt tiềm năng vẫn có khả năng xảy ra lạm phát và trên thực tế đã xảy ra
lạm phát ở nhiều nước, kể cả ở các nước phát triển cao. Đó là đặc điểm của lạm phát hiện
đại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng,
tăng thêm thất nghiệp nên cũng còn gọi là “lạm phát đình trệ”.

c cơn sốc giá cả thị trường đầu vào đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng dầu, điện,…) là
nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao. Theo hình 7.6, giá đầu vào tăng, tổng cung suy
giảm, đường ASS dịch chuyển sang trái từ ASS
0
→ ASS
1
làm cho sản lượng giảm từ mức
Y
0
→ Y
1
, giá cả tăng lên từ mức P
0
→ P
1
gây nên tình trạng lạm phát. Tổng cầu không thay
đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng lại giảm xuống.

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát



195

Hình 7.6.
Lạm phát chi phí đẩy
Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân sau: Thiên tai,
chiến tranh, sự biến động chính trị, kinh tế,… Đặc biệt sự biến động giá dầu lửa do OPEC
trong những năm 1970 hoặc giai đoạn 2007 – 2008, đã gây ra lạm phát đình trệ trầm trọng
trên quy mô thế giới.
7.2.2.3. Lạm phát dự kiến
Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng tiếp
tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều đều với một tỷ lệ tương
đối ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ, và vì mọi người đã có thể dự
tính trước mức độ của nó nên còn được gọi l
à lạm phát dự kiến. Mọi hoạt động kinh tế sẽ
trông đợi và ngắm vào nó để tính toán điều chỉnh (ví dụ điều chỉnh lãi suất danh nghĩa, tiền
lương danh nghĩa, giá cả trong các hợp đồng kinh tế, các khoản chi, tiêu ngân sách,…).

Hình 7.7.
Lạm phát được dự đoán trước
Sự gia tăng tổng cầu được dự đoán trước làm tăng lạm phát nhưng không làm thay đổi GDP
thực tế.
Hình 7.7. ở trên cho thấy lạm phát dự kiến xảy ra như thế nào. Khi giá đầu vào tăng, đường
tổng cung trong ngắn hạn dịch chuyển từ ASS
0
→ ASS
1
→ ASS
2
, dịch chuyển lên trên cùng
một tốc độ. Khi đó Chính phủ sẽ dùng các biện pháp điều chỉnh và làm tăng tổng cầu AD

cùng từ AD
0
→ AD
1
→ AD
2
, chỉ số giá tăng từ 110 → 121 → 133.

Vì lạm phát đã được dự
kiến nên chi phí sản xuất (kể cả tiền lương) và cả nhu cầu chi tiêu cũng được điều chỉnh cho

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phá
t


196
phù hợp với tốc độ lạm phát. Như vậy, sản lượng vẫn giữ nguyên nhưng giá cả đã tăng đều
đặn theo dự kiến.
Tỷ lệ lạm phát dự kiến một khi đã hình thành thì trở nên ổn
định và tự duy trì trong một thời gian. Những cú sốc mới trong
nền kinh tế (có thể từ trong nước hoặc từ nước ngoài) sẽ đẩy
lạm phát khỏi tình trạng ì.
7.2.2.4. Lạm phát do lý thuyết số lượng tiền tệ
Khi nghiên cứu lý thuyết số lượng tiền tệ chúng ta đã biết đẳng
thức MS/P = MD(r, Y) khi thị trường tiền tệ cân bằng, không
gây lạm phát.
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (r)
và (Y) là ổn định (Y đạt mức tiềm năng), cầu tiền thực tế là không đổi và do vậy M/P cũng
sẽ không thay đổi. Điều đó có nghĩa là nếu lượn
g cung tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá

cả (P) cũng sẽ tăng với tỷ lệ tương ứng, nói cách khác tỷ lệ lạm phát sẽ bằng tỷ lệ tăng tiền.
Như vậy, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Điều này xảy ra trong thực tế khi nền kinh tế
gặp phải một cơn sốc (ví dụ giá dầu tăng lên) làm cho lượng tiền thực tế nhất t
hời giảm
xuống. Chính phủ cần phải tăng mức cung tiền danh nghĩa để đảm bảo nhu cầu tiền thực tế.
Nhưng vì sản lượng và việc làm không đổi, lãi suất
thực tế cũng không đổi, chỉ có mức cung tiền danh
nghĩa, giá cả cũng như tiền lương danh nghĩa tăng lên.
Lý thuyết này dựa trên giả định mức cầu tiền thực tế
không đổi,
một giả định chưa có cơ sở chắc chắn và
chưa phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, lịch sử lạm phát
cũng chỉ ra rằng, không có cuộc lạm phát cao nào mà
không có sự tăng trưởng mạnh về tiền tệ. Lượng tiền
tăng càng nhanh thì lạm phát càng cao, và bất kỳ một
chính sách vĩ mô nào giảm được tốc độ tăng tiền cũng
dẫn đến giảm tỷ lệ lạm ph
át và điều này đặc biệt phù
hợp với thời kỳ ngắn hạn.
Khi ngân sách thâm hụt lớn, các Chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh
nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát (như lạm phát cầu kéo). Và một khi giá
cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và
lạm phát tiếp tục tăng vọt. K
iểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm
phát. Tuy nhiên, các Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân qua bán tín phiếu.
Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm lên nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu
thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in
tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát là một điều chắc chắn.
7.2.2.5. Lạm phát và lãi suất
Lãi suất thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho vay và người đi vay đều có thể

chấp nhận được. Nếu khác đi sẽ tạo ra mức dư cầu hoặc dư cung và sẽ đẩy lãi suất này về
mức ổn định. Nhưng lãi suất danh nghĩa lại biến động theo lạm phát. Khi lạm phát thay đổi
lãi suất danh nghĩa sẽ thay đổi theo, để duy trì lãi suất thực tế ở mức ổn định.
Vậy l
ãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát.
Phân phối thu nhập

Lý thuyết số lượng tiền tệ

Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát


197
Khi tỷ lệ lạm phát tăng, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền,
càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất
giá càng nhanh, tăng mức độ gửi tiền vào Ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị
trường để mua về mọi hàng hoá có thể dự trữ, gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị
trường h
àng hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao.
7.2.3. Tác động của lạm phát
Nếu giá cả của các loại hàng hoá tăng với tốc độ đều nhau thì loại lạm phát này thường
được gọi là lạm phát thuần tuý, loại lạm phát này hầu như không xảy ra. Trong thực tế các
cuộc lạm phát thường đều có hai đặc điểm đáng quan tâm sau đây:

Tốc độ tăng giá cả thường không đồng đều giữa các loại hàng hoá.

Tốc độ tăng giá và tăng lương cũng xảy ra một cách không đồng thời.
Hai đặc điểm trên đây dẫn đến sự thay đổi tương đối về giá cả (hay là giá cả tương đối đã
thay đổi). Tác hại chủ yếu của lạm phát không phải ở chỗ giá cả tăng lên mà ở chỗ giá cả
tương đối đã thay đổi. Những tác hại đó là:


Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên
giữa các cá nhân, tập đoàn, v.v
. đặc biệt đối với những ai
giữ nhiều tài sản có giá trị danh nghĩa cố định (ví dụ tiền
mặt) và những người làm công ăn lương. Tác động chính
của lạm phát về mặt phân phối sinh ra từ những sự khác
nhau về quyền sở hữu và sử dụng các loại tài sản. Khi các
tác nhân trong nền kinh tế có những khoản nợ dài hạn với lãi
suất cố định thì việc tăng
giá cả là một cái lợi tự nhiên đối
với họ. Ngoài ra tác động của lạm phát về mặt phân phối còn
nảy sinh từ những tác động không được dự đoán trước đối với giá trị thực tế của cải của
các tác nhân trong nền kinh tế. Nói chung thì lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ
những người có tài sản với lãi suất danh nghĩa cố định sang tay những người có những

khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố định. Sự giảm lạm phát
không được dự đoán trước sẽ có tác động ngược lại. Tóm lại,
lạm phát chỉ làm xáo trộn thu nhập và tài sản, phân phối lại
một cách ngẫu nhiên của cải trong nhân dân mà không có tác
động riêng lẻ nào đối với một tác nhân trong nền kinh tế.

Tác động đối với sản lượng và công ăn việc làm: Có
những biến dạng về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền
kinh tế, đặc biệt khi lạm phát tăng nhanh cùng với sự thay
đổi mạnh mẽ của giá cả tương đối. Có những doanh
nghiệp, ngành nghề có thể “phất” lên và trái lại cũng có
những doanh nghiệp và ngành nghề suy sụp, thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh
doanh. Tác động đối với mức sản lượng nói chung là trong thời kỳ lạm
phát tăng lên bất

ngờ thường là những thời kỳ công ăn việc làm nhiều và sản lượng cao, lạm phát có thể
làm thay đổi cơ cấu kinh tế và việc làm, đặc biệt khi lạm phát tăng nhanh cùng sự thay
đổi mạnh của giá cả tương đối, có những hãng sản xuất – kinh doanh có thể phát triển và
ngược lại có những hãng cũng bị phá sản hoặc đổi hướng kinh doanh. Thế nhưng, trong
thời gian d
ài không có mối quan hệ tất yếu giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, không
có mối quan hệ trực tiếp giữa lạm phát với mức sản lượng và công ăn việc làm.
Sản lượng và công ăn
việc làm
Tốc độ tăng giá

×