Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

BẢNG LẬP THÀNH CUNG MẠNG NAM NỮ KẾT HỢP HÔN NHÂN VÀ NGŨ HÀNH NẠP ÂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.64 KB, 4 trang )

BẢNG LẬP THÀNH CUNG MẠNG NAM NỮ KẾT HỢP HÔN NHÂN
Khoa tử vi lý số là phép cấu tạo các yếu tố căn bản chính xác để giải
đoán hiện tại, cũng như tương lai của mỗi người, nhằm trên định thức cố
hữu là tuổi tác, ngày, giờ, tháng, năm sanh để tìm ra hiện tượng tốt xấu
chung quanh tình duyên gia đạo sự nghiệp và công danh. Riêng phần
đặc biệt giành cho nam nữ đưa đến kết hợp hôn nhân, theo đó còn có
Cung Mạng, mà chiêm tinh học gọi là " Bát san tuyệt mạng" hoặc " Bát
san giao chiến" chẳng hạn. Muốn các bạn nhận định rõ ràng, hiểu biết
tường tận qua lối trình bày sau đây, nếu không nói là công phu tỷ mỉ, thì
cũng chẳng nông nổi thiếu sót đối với các bạn cần được thỏa mãn phần
nào nhu cầu thích đáng trong đời sống, nhứt là vấn đề hạnh phúc lứa
đôi.
Giải thích : cách theo dõi để tìm hiểu Cung Mạng Nam Nữ có được kết
hợp hôn nhân hay không, tốt hoặc xấu, các bạn chỉ cần liếc mắt qua
hàng ngang bởi những " khung kẽ" bắt đầu từ phía trái sang phải : Nam
cung gì ? Nữ cung gì ? Tốt sấu, sống chung và bắt đầu bằng chữ Càn
trong số 8 cung là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
BẢNG LẬP THÀNH NGŨ HÀNH HÒA HỢP HÔN NHÂN NAM NỮ
TƯƠNG SANH VÀ XUNG KHẮC.
Phàm hễ thông thường định lý của tử vi thì có " bốn thứ kỵ" là gồm các
tuổi : Dần, Thân, Tỵ, Hợi, - và Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, - Tý, Ngọ, Mẹo,
Dậu, - tổng số tất cả 12 con giáp được chia là hỏi phần bao trùm " tứ
kiểu kỵ" mà khoa chiêm tinh học gọi là " tứ hành xung" cũng vậy. Các
tuổi này, nếu bất cứ vì lý do nào hoặc vô tình hay cố ý đưa đến cho nam
nữ kết hợp hôn nhân, tức là sự chung sống không sớm thì muộn thế nào
cũng có xảy ra : gia đạo bất hòa, kinh doanh thất bại, khốn khổ gian lao
và cuối cùng là sanh ly tử biệt. Theo đó trước hết là vấn đề dựng vợ gả
chồng ăn đời ở kiếp với nhau. Trong tâm của hôn nhân là Hòa Hợp là
phải tìm tuổi tương sanh nam nữ gồm có " tam hạp" là : Thân, Tý, Thìn ;
Dần, Ngọ, Tuất ; Dậu, Tý, Sửu ; Mùi, Mẹo, Hợi ba tuổi này được coi
như cố hữu định thức của số mạng sum vầy, thuận thảo, phát đạt, bền


vững. Ngoài ra còn có các tuổi " đại lợi đại hạp" như Tý Sửu Mẹo ; Tuất
Dần Hợi Thìn Dậu Ngọ Mùi Tỵ Thân Nó trái với tuổi " đại khắc đại kỵ"
như Dần Tỵ Sửu Ngọ Tý Mùi Mẹo Thìn Dậu Tuất Thân Hợi Cứ hai tuổi
này (2) gặp nhau và chung sống giữa nam nữ là phải gây phiền lụy,
khốn đốn bệnh tật, tiêu hao tù tội và có khi chết chóc nữa là đằng khác.
Càng quan hệ hơn nữa đối với nam và nữ trong vấn đề hôn nhân gây
dựng hạnh phúc, khoa chiêm tinh học đã dành cho các bạn sự tự chọn
lựa " ý trung nhân" của mình bằng cách tìm hiểu về định lý tương đồng,
tương sanh trong phép ngũ hành hòa hợp để trai gái có thể theo bảng
lập thành như sau đây qua Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Đại loại : Thí dụ mạng nam Kim thì nữ mạng gì ? Phụ giải : Phàm hễ học
giỏi, tìm hiểu thì phải chủ tâm cho minh bạch, thấu đáo, rành mạch về
các khoa chiêm tinh tử vi lý số, theo đó đại để qua bản lập thành hôn
nhân ngũ hành hòa hợp, bạn đọc cũng nên lưu ý bởi các điểm ghi nhận
dưới đây :
A Mạng Mộc ( nam hay nữ cũng như nhau) thì chỉ khắc kỵ với mạng
Thổ. Nhưng nếu mạng Mộc hoặc Thổ ở vào ngôi Đại lâm Mộc hay Đại
thổ Trạch, cố nhiên là vượt qua khỏi thâm canh thiên sanh, tức hóa giải,
hòa hợp mà song mạng vợ chồng được tài lộc, quan vị, có uy thế là
khác.
B Mạng Mộc (hai mạng nam hay nữ cùng là Mộc ) hoặc gọi là lưỡng
Mộc tức biến thành Lâm ( rừng ) cũng như lưỡng Thổ ( hai mạng cùng là
Thổ ), tức biến thành Sơn ( núi ). Được vậy mới tương hạp tương sanh,
nam nữ kết hợp trường tồn hạnh phúc.
NGŨ HÀNH NẠP ÂM
Trong "Lục thập hoa giáp" mỗi ngôi do một can và một chi, thuộc về
chánh ngũ hành,hiệp lại thành. Như ngôi : Giáp Tý, can là Giáp thuộc
Mộc, chi là Tý thuộc Thủy. Nếu can và chi hiệp với nhau, theo nhạt luật
thì hóa thành một thứ ngũ hành khác, không giống chánh ngũ hành nói
trên. Như Giáp và Tý hiệp với nhau hóa thành Hải trung Kim gọi là ngũ

hành nạp âm. lục Thập Hoa Giáp có 60 ngôi phân phối cho năm âm
( cung, thương, giác, thủy, vũ ). Một luật nạp ( gồm thâu ) năm âm, thành
ra 12 luật phải nạp 60 âm. Khí phát ở phương đông và hữu hành ( đi về
hướng tay mặt ) còn âm ( tức là năm âm ) khởi ở phương tây và tả hành
( đi về hướng tay trái ). Khí và âm đi ngược chiều nhau mới có sanh biến
hóa.
Đây nói : " khí phát ở phương đông" có nghĩa là : bốn mùa phát từ đông
và hữu hành. Mộc truyền qua Hỏa, hỏa truyền qua Thổ, Thổ truyền qua
Kim, Kim truyền qua Thủy. Còn nói ( âm khởi ở phương tây ) có nghĩa là
: năm âm khởi tại kim và tả hành : Kim truyền qua hỏa, Hỏa truyền qua
Mộc, Mộc truyền qua Thủy, Thủy truyền qua Thổ. Theo phép nạp âm,
ứng theo nhạc luật, can chi đồng loại chủ thể, cách bát sanh tử, có nghĩa
là : Mỗi can chi lấy vợ đồng loại với mình mà sanh con cách tám ngôi.
Phải khởi tính ở ngôi Giáp Tý ( coi bản đồ số một chữ Giáp Tý ). Giáp Tý
đồng loại với Aát Sửu ( cả hai đều thuộpc Kim thương Ngươn). Lấy Aát
Sửu làm vợ, cách 8 ngôi sanh con là Nhâm Thân ( thuộc Kim trung
Ngươn). BẢN ĐỒ NGŨ HÀNH NẠP ÂM (HÌNH VẼ )
Nhâm Thân đồng loại với Quý Dậu ( cả hai thuộc Kim trung Ngươn) lấy
Quý Dậu làm vợ, cách 8 ngôi sanh cháu là Canh Thân ( thuộc Kim hạ
Ngươn ). Tới đây Kim tam Ngươn hết rồi, nên tả hành truyền qua Hỏa ở
phương Nam. Canh Thìn đồng loại với Tân Tỵ ( cả hai đều thuộc Kim hạ
Ngươn ). Lấy Tân Tỵ làmcách 8 ngôi truyền qua Mậu Tý là hành khác
( thuộc Hỏa thượng Ngươn ) lấy Tân tỵ làm vợ, cách 8 ngôi truyền qua
Mậu Tý là hành khác ( thuộc Hỏa thượng ngươn ). Mậu Tý đồng loại với
Kỷ Sửu làm vợ, cách 8 ngôi sanh con là Bính Thân ( thuộc Hỏa trung
Ngươn ). Bính Thân đồøng loại với Đinh Mậu( cả hai đều thuộc Hỏa
trung ngươn ), lấy Đinh mậu làm vợ cách 8 ngôi sanh cháu là Giáp Thìn
( thuộc Hỏa hạ Ngươn ). Tới đay Hỏa tam Ngươn hết rồi, nên tả hành
truyền qua Mộc ở phương đông. Cứ vậy mà tả hành ( hết Mộc rồi tới
Thủy, hết Thủy thì đến Thổ ) cho đến ngôi Bính Thìn, Đinh Tỵ ( thuộc

Thổ hạ Ngươn ) đi giáp một quận ngũ hành thì gọi là tiểu thành. Rồi bắt
đầu trở lại Kim thượng ngươn ở ngôi Giáp Ngọ ( coi bản đồ số 1 chữ
Giáp Ngọ ). Giáp Ngọ đồng loại với Aát Mùi ( cả hai đều thuộc Kim
thượng ngươn ) lấy Ất Mùi làm vợ cách 8 ngôi sanh con là Nhâm Dần
( thuộc Kim trung ngươn ). Nhâm dần đồøng loại với Quý Mẹo ( cả hai
đều thuộc Kim thượng ngươn) lấy quý mẹo làm vợ, cách 8 ngôi sanh
cháu là Canh Tuất ( thuộc Kim hạ ngươn ). Tới đây Kim tam ngươn hết
rồi, nên tả hành truyền qua Hỏa, (hết Hỏa rồi tới Mộc, hết Mộc thì tới
Thủy, hết Thủy thì tới Thổ ) như nói trên. Cứ tính như vậy, cho tới ngôi
Bính Tuất, Đinh Hợi ( thuộc Thổ hạ ngươn ) đi giáp một quận ngũ hành
nữa gọi là đại thành.
NÓI VỀ PHÉP NẠP ÂM CỦA LỤC GIÁP
1- Giáp Tý 2- Giáp Tuất 3- Giáp Thân Nạp âm là đem một chữ thuộc về
Can và một chữ thuộc về Chi gép lai với nhau, để hợp vào với ngũ hành
như là : 1 GIÁP TÝ, ẤT SỬU thuộc Kim
BÍNH DẦN, ĐINH MẸO - Hỏa
MẬU THÌN, KỶ TỴ - Thổ
CANH NGỌ, TÂN MÙI - Thổ
NHÂM DẦN, QUÝ DẬU - Kim
2 GIÁP TUẤT, ẤT HỢI - Hỏa
BÍNH TÝ, ĐINH SỬU - Thủy
MẬU DẦN, KỶ MÃO - Thổ
CANH THÌN, TÂN TỴ - Kim
NHÂM NGỌ, QUÝ MÙI - Mộc
3 GIÁP THÂN, ẤT DẬU - Thủy
BÍNH TUẤT, ĐINH HỢI - Thổ
MẬU TÝ, KỶ SỬU - Hỏa
CANH DẦN, TÂN MẸO - Mộc
NHÂM THÌN, QUÝ TỴ - Thủy
4 GIÁP NGỌ, ẤT MÙI - Kim

BÍNH THÂN, ĐINH MẬU - Hỏa
MẬU TUẤT, KỶ HỢI - Mộc
CANH TÝ, TÂN SỬU - Thổ
NHÂM DẦN, QUÝ MẸO – Kim
5 GIÁP THÌN, ẤT TỴ - Hỏa
BÍNH NGỌ, ĐINH MÙI - Thủy
MẬU THÂN, KỶ DẬU - Thổ
CANH TUẤT, TÂN HỢI - Kim
NHÂM TÝ, QUÝ SỬU - Mộc
6 GIÁP DẦN, ẤT MẸO - Thủy
BÍNH THÌN, ĐINH THÌN - Thổ
MẬU NGỌ, KỶ MÙI - Hỏa
CANH THÂN, TÂN DẬU - Hỏa
NHÂM TUẤT, QUÝ HỢI - Thủy
Trong 60 năm chia làm 6 phần, mỗi phần 10 năm, bắt đầu từ chữ Giáp
đến chữ Quý cho nên gọi là Lục Giáp như : 4 Giáp Ngọ 5 Giáp Thìn 6
Giáp Dần
NGŨ HÀNH NẠP ÂM TƯƠNG SANH
Bảng số 2 TIỂU THÀNH Ở trong mỗi quân ( tiểu thành và đại thành nói
trên ) hai bên cách 8 ngôi sanh con là tốt. Trong đó chúng ta còn thấy:
theo chánh ngũ hành thiên cương tương sanh, đia chi tam hạp lại càng
gia tăng sự tốt hơn nữa. Thí dụ: giáp tý, ất sửu, sanh nhâm thân, quý
dậu, nhâm thân, quý dậu sanh canh thìn, thân tỵ Giáp tý, ất sửu, kim
thượng ngươn sanh nhâm thân, quý dậu: kim trung ngươn sanh canh
thìn, tân tỵ, kim hạ ngươn. Trong đó theo chánh ngũ hành, nói về thiên
can thì giáp và nhâm, nhâm và canh tương sanh. Luận về địa chi thì
thân tý thìn là tam hạp thủy cuộc thế thì ngũ hành nạp âm tương sanh.
Vậy là không khá. Vào những trường hợp nói trên đó, cả hai bên xét về
ngũ hành, can chi đặng tương sanh tương hạp. Còn về ngũ hành nạp
âm thì đồng một loại. Cho nên gọi là đại kiết. Về cách 8 ngôi sao cháu, vì

có can tương khắc thì sự tốn kém hơn. Nhưng nếu bổn mạng khắc ngay
dùng thì cũng không đáng lo ngại. Thí dụ : giáp tý sanh con là nhâm thân
thì tốt, mà sanh cháu canh thìn thì sự tốt không bằng, vì có giáp và canh
khác nhau. Nhưng nếu canh thìn bổn mạng, giàp tý ngay dùng thì ngày
không khắc mạng, cũng không mấy hại. Đó gọi là bang xung ( xung một
bên ) chớ không phải là chánh xung ( xung ngay tẩy ). Ta hãy nhận rõ
hai bản tiểu thành và đại thành ghi trên mỗi đoạn có ba hàng: Hàng thứ
nhất sanh con , cách 8 ngôi, là đại kiết như trên đã nói: Hàng thứ nhì
sanh cháu, cách 8 ngôi nữa là thứ kiết, cũng đã nói như trên. Hàng thứ
ba: loại ngũ hành này truyền qua loại ngũ hành khác. Nếu gặp nạp âm
tương sanh đều là đại kiết. Còn gặp nạp âm tương khắc có khi xấu,
cũng có khi tốt. ( coi bài C sau này).
C. NGŨ HÀNH NẠP ÂM TƯƠNG KHẮC
Theo chánh ngũ hành, kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy
khắc hỏa, hỏa khắc kim, mỗi lần thấy khắc là luôn luôn có hại hại. Theo
ngũ hành nạp âm, có khi hình này khắc hình kia, không phải là xấu, lại
nhờ khắc đó mà ra tốt. Chớ không phải mỗi lần khắc là xấu cả.

×