Chóng Mặt, Tai Biến Mạch Não,
Điều Trị Chống Đông (1)
Trường hợp bệnh lý.
- Bà P. 60 tuổi, tiền căn cao huyết áp, không có bảo hiểm nên không
uống thuốc đều. Ngày 12-8 bà bị chóng mặt, “quay mòng mòng”, ói mửa,
đến cấp cứu. Bệnh nhân tỉnh táo, nói bình thường, áp huyết 142/88, không
dấu định vị, CT não bộ bình thường, được cho về, cho uống meclizine
25mg, 3 lần mỗi ngày. Sau 2 ngày bệnh nhân vẫn chóng mặt, ói mửa nên trở
lại cấp cứu; MRI phát hiện sang thương 10x5 mm ở mặt trong của bán cầu
tiểu não phải, về phía sau và bên của não thất thứ tư do nhồi máu cấp-bán
cấp. MRA không thấy động mạch tiểu não sau dưới trái, hẹp ở chỗ phát xuất
của động mạch tiểu não sau dưới phải. Bệnh nhân được nhập viện, điều trị
hạ áp với ức chế men chuyển, hạ mỡ, aggrenox (aspirine-dipyridamol), vật
lý trị liệu, xuất viện sau 2 ngày để tiếp tục theo dõi với bác sĩ gia đình nhưng
bệnh nhân không đến theo dõi. Một tháng sau bệnh nhân lại bị chóng mặt, đi
không vững, bị té nhưng không bất tỉnh, không co giật. Thân nhân đem trở
lại cấp cứu, MRI không thấy tổn thương mới, được bắt đầu điều trị chống
đông bằng coumadine 2.5mg uống 5 ngày mỗi tuần, nghỉ ngày Thứ Bảy và
Chủ Nhật. Bệnh nhân tự ý uống coumadine 2.5mg mỗi ngày kể cả Thứ Bảy
Chủ Nhật. Sau 3 tuần, bệnh nhân thấy nối nhiều vết bầm tím ở da tuy không
bị va chạm. Bệnh nhân nghĩ là bị “tụ máu” và “nghe nói” rằng “aspirine
chống tụ máu” nên tự ý uống thêm aspirine 81 mg mỗi ngày một viên. Các
vết bầm càng nổi nhiều hơn. Thăm khám sinh hiệu ổn, có nhiều mảng xuất
huyết dưới da, không xuất huyết niêm mạc, nước tiểu trong nhưng có nhiều
hồng cầu, INR 7.0, ngưng coumadine. Sau 1 tuần INR 1.3, các vết bầm bắt
đầu nhạt màu, tiếp tục lại coumadine 2.5mg 4 ngày mỗi tuần uống vào Thứ
Hai, Tư, Sáu và Chủ Nhật, không uống Thứ Ba, Năm, Bảy, được giải thích
cặn kẽ về điều trị chống đông, tác dụng phụ, biến chứng, không được uống
aspirine và các thuốc chống đau không steroid, và dặn đến thử máu sau 1
tuần để điều chỉnh liều lượng. Sau 1 tuần không thấy trở lại thử máu, điện
thoại gọi lại, bệnh nhân cho biết tự ý uống mỗi ngày nửa viên 2.5mg, cảm
thấy “ổn” nên không đến thử máu!!!
Trường hợp này cho ta dịp để đề cập đến:
1- chóng mặt,
2- tai biến mạch não,
3- điều trị chống đông.
I Chóng Mặt
Chóng mặt là một triệu chứng rất thường gặp, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, phần nhiều là lành tính nhưng cũng có khi trầm trọng có thể gây
tử vong. Mặt khác nhiều người cũng dùng chữ “chóng mặt” để chỉ những
cảm giác khác nhau, do đó thăm khám một bệnh nhân bị chóng mặt là một
thử thách đối với người thầy thuốc.
* Trước nhất cần biết người nói ”chóng mặt” ngụ ý gì, sau đó tìm
nguyên nhân để chữa. Chóng mặt là ảo giác về di chuyển của bản thân hay
của môi trường, thường là cảm giác quay vòng giống như khi ta quay chung
quay mình nhiều vòng rồi đột ngột ngừng lại, lúc đó thấy các vật chung
quanh quay tròn. Đó là nghĩa của chóng mặt thật sự (vertigo). Nhiều người
cũng dùng từ “chóng mặt” để chỉ cảm giác khác như xây xẩm, hoa mắt khi
đứng dậy mà y khoa gọi là “tiền ngất xỉu” (presyncope), cũng có người nói
chóng mặt khi cảm thấy choáng váng (lightheadedness) hoặc khi đi không
vũng nghĩa là mất thăng bằng (disequilibrium). Các triệu chứng trên có
những nguyên nhân khác nhau.
Trong bài này ta bàn về chóng mặt thật sự (vertigo) là triệu chứng của
bệnh nhân này.
* Chóng mặt là hậu quả của sư mất quân bằng của hệ thống tiền đình,
do tổn thương hay rối lọan của mê đạo (labyrinth), thần kinh tiền đình
(vestibular nerve), hoặc các cấu trúc tiền đình trung tâm ở cuống não (brain
stem). Hệ thống tiền đình, các ống bán khuyên và thạch nhĩ (otolith organ)
cảm nhận sự di chuyển theo đường cong và đường thẳng. Hệ thần kinh trung
ương tiếp nhận và so sánh tín hiệu từ hệ tiền đình bên phải và bên trái. Khi
đầu ở vị trí bất động, có sự quân bình về tín hiệu phát xuất từ hệ tiền đình
hai bên. Khi ta di chuyển, mê đạo phải và trái được luân phiên kích hoạt và
ức chế tạo ra sự khác biệt về họat động của thần kinh số Vlll do đó được não
nhận biết là có sự chuyển động. Khi có tổn thương hay rối lọan của hệ tiền
đình một bên, tín hiệu của hệ tiền đình đó bị nhiễu, sự họat động khác
thường của hệ thống tiền đình được não bộ nhận định nhầm là có chuyển
động tạo ra cảm giác chóng mặt Hệ Tiền Đình
(nguồn Wikipedia)
Thông tin từ mê đạo được chuyển qua phần tiền đình của thần kinh số
Vlll đến nhân tiền đình (vestibular nuclei) ở cuống não và từ đó đến tiểu não,
nhân vận nhãn (ocular motor nuclei) và tủy sống (spinal cord). Sự nối kết
(connection) giữa hệ tiền đình và mắt giúp phối hợp cử động của mắt khi
đầu di chuyển, sự nối.kết giữa hệ tiền đình và tủy sống giúp cơ thể giữ được
tư thế đứng thẳng (upright posture). Sự nối kết với tiểu não giúp điều chỉnh
các họat động kể trên.
* Chóng mặt có thể do ngyên nhân ngoại biên hay trung tâm.
* Phần lớn chóng mặt do nguyên nhân ngoại biên.
- 1 Chóng mặt tư thế (benign positional vertigo) do một mảng calcium
ở ống bán khuyên sau tróc ra. Bệnh nhân cảm thấy quay mòng mòng khi trở
mình trên giường hay khi ngửa đầu ra đằng sau, chỉ kéo dài vài dây, ít khi
quá vài phút, kèm theo buồn nôn nhưng ít khi nôn mửa, không có giảm thính
lực hay ù tai.
- 2 Viêm thần kinh tiền đình (vestibular neuritis) do siêu vi liên hệ đến
phần tiền đình của thần kinh số Vlll, xảy ra đột ngột, kéo dài , kèm theo nôn
mửa, đi không vững. Khi có giảm thính lực một bên gọi là viêm mê đạo
(labyrinthitis).
- 3 Hội chứng Ramsey Hunt do bệnh dời leo (herpes zoster) gồm
chóng mặt, giảm thính lực, liệt thần kinh mặt một bên, đau tai, có mụn nước
nhỏ ở ống tai.
- 4 Bệnh Ménière do tăng áp lực trong ống nội bạch huyết
(endolymphatic duct) gây chóng mặt dữ dội từ vài phút đến vài giờ, kèm
theo nôn mửa, mất thăng bằng, ù tai giảm thính lực và rung giật nhãn cầu
ngang và quay (horizontal-torsional nystagmus).
- 5 Chấn động mê đạo do chấn thương hay chuyển động mạnh của
đầu.
- 6 Dò quanh ống nội bạch huyết (perilymphatic fistula) do chấn
thương ở bao tai chuyển các thay đổi về áp lực vào các thụ thể của macula
và cupula làm cho bệnh nhân bị chóng mặt, ù tai, mất thính lực khi ho, nhảy
mũi, nâng vật nặng hoặc nghe tiếng động mạnh
- 7 Bướu thần kinh thính giác phát triển chậm nên không gây chóng
mặt chỉ gây cảm giác ngả nghiêng, ù tai hoặc mất thính lực một bên.
- 8 Ngộ độc aminoglycoside gây tổn thương tiền đình hai bên nên
bệnh nhân không chóng mặt, chỉ có cảm giác ngoại cảnh di động tới và lui
khi thay đổi vị trí của đầu.
- 9 Viêm tai giữa có thể gây triệu chứng tiền đình, cũng như gây viêm
mê đạo mủ (suppurative labyrinthitis), bệnh nhân chóng mặt, sốt, mất thính
lực, nôn mửa.
* Một số trường hợp do nguyên nhân trung tâm.
- 1 Nhức nửa đầu có thể gây chóng mặt kéo dài từ vài phút đến vài
giờ.
- 2 Thiếu máu cuống não do thuyên tắc hay hẹp động mạch cột sống-
đáy não (vertebrobasilar artery) gây chóng mặt cùng với các triệu chứng
cuống não. Trong khi nhồi máu cuống não gây triệu chứng kéo dài, cơn
thoáng thiếu máu cuống não chỉ gây triệu chứng từ vài phút đến vài giờ.
Hội chứng Wallenberg hay nhồi máu hành tủy bên (lateral medullary
infarction) do tắc động mạch tiểu não sau dưới gây chóng mặt và mất thăng
bằng đột ngột kèm theo vận nhãn bất thường, hội chứng Horner cùng bên,
mất điều hòa chi (limb ataxia) cùng bên, khan tiếng và khó nuốt, mất cảm
giác phân ly (mất cảm giác đau và nhiệt cùng bên ở mặt, đối bên ở thân).
- 3 Nhồi máu và xuất huyết tiểu não gây chóng mặt đột ngột và dữ dội
kèm nôn mửa, mất điều hòa chi, bệnh nhân ngã về bên có tổn thương, rung
giật mắt cũng mạnh hơn về bên tổn thương. CT xác định hoặc lọai bỏ xuất
huyết tiểu não nhưng cần làm MRI để chẩn đoán nhồi máu tiểu não vì nhạy
bén hơn
- 4 Dị tật Chiari gây chóng mặt khi ngửa cổ về phía sau, kèm theo đau
cổ, nhức đầu, khó nuốt và tổn thương của các thần kinh sọ dưới
- 5 Xơ cứng rải rác gây chóng mặt khi mảng xơ cứng gần nhân tiền
đình và vùng rễ của thần kinh số Vlll.
* Thăm khám lâm sàng có vai trò chủ yếu trong việc tìm nguyên
nhân. Trong thực tế 93% các trường hợp do chóng mặt tư thế lành tính, viêm
thần kinh tiền đình cấp hoặc bệnh Ménière, các trường hợp còn lại do thuốc
(rượu, aminoglycosides, phenytoin ), tai biến mạch não, nhức nửa đầu,
viêm mê đạo cấp, xơ cứng rải rác, u não. Các chi tiết như thời điểm xuất
hiện, sự kéo dài trong thời gian, các yếu tố gây ra hoặc làm nặng chóng mặt,
các triệu chứng kết hợp như mất thính lực, triệu chứng thần kinh giúp phân
biệt nguyên nhân ngoại biên với nguyên nhân trung tâm. Ảo giác quay tròn
thường do nguyên nhân ngoại biên nhất là khi kèm theo buồn nôn. Rung giật
nhãn cầu ngang và quay giảm bớt hoặc hết khi bệnh nhân nhìn vào một điểm
cố định là dấu hiệu của chóng mặt do nguyên nhân ngoại biên. Trong chóng
mặt do nguyên nhân trung tâm, rung giật mặt thuần túy ngang, thẳng hoặc
quay tròn, kéo dài và không giảm khi bệnh nhân nhìn vào một điểm cố định.
Cơn chóng mặt càng kéo dài thì càng có nhiều khả năng do nguyên nhân
trung tâm. Chóng mặt buổi sáng khi ngủ dậy thường do nguyên nhân ngoại
biên. Chóng mặt ngoại biên thường xảy ra đột ngột so với chóng mặt trung
tâm ngoại trừ chóng mặt do tai biến mạch não.
Các chi tiết giúp chẩn đoán nguyên nhân.
1- Thời gian.
- vài giây: rối loạn tiền đình, viêm thần kinh tiền đình cấp, bệnh
Ménière;
- vài giây đến vài phút: chóng mặt tư thế lành tính;
- nhiều phút đến một giờ: cơn thoáng thiếu máu của hệ tuần hoàn sau,
dò quanh ống nội bạch huyết;
- nhiều giờ: bệnh Ménìère, dò quanh ống nội bạch huyết, nhức nửa
đầu, u thần kinh thính giác;
- nhiều ngày đến nhiều tuần: viêm thần kinh tiền đình, tai biến, nhức
nửa đầu, xơ cứng rải rác, tâm lý.
2- Yếu tố gây chóng mặt.
- thay đổi tư thể của đầu: chóng mặt tư thế, viêm mê đạo, dò ống bạch
huyết;
- tự phát: tai biến mạch não, viêm thần kinh tiền đình, bệnh Ménière,
nhức nửa đầu;
- viêm đường hô hấp trên: viêm thần kinh tiền đình cấp.
3- Triệu chứng kết hợp.
- nhức đầu: nhức nửa đầu, u thần kinh thính giác;
- thần kinh: tai biến mạch não, xơ cứng rải rác, u góc tiểu não-cầu
não;
- mất thính lực: thường là ngoaị biên như bênh Ménìere, dò quanh ống
bạch huyết, u thần kinh thính giác, trung tâm: cơn thoáng thiếu máu hoặc
nhồi máu của vùng thuộc động mạch tiểu não trước dưới;
- mất thăng bằng nhẹ, có thể đi được: ngoại biên (viêm thần kinh tiền
đình), nặng không đi được: trung tâm (tai biến, u góc cầu nảo tiểu não);
- rung giật mắt: ngoại biên hay trung tâm;
- sợ ánh sáng và tiếng động: nhức nửa đầu.
4- Thăm khám thần kinh.
Thăm khám thần kinh sọ để tìm dấu liệt, giảm thính lực và rung giật
mắt. Rung giật ngang và quay liên hệ đến viêm thần kinh tiền đình cấp, rung
giật thẳng là dấu hiệu tổn thương nhân tiền đình hoặc thùy nhộng (vermis)
của tiểu não. Bệnh nhân chóng mặt ngoại biên mất thăng bằng, có thể đi
được nhưng không dám cử động vì sợ chóng mặt, bệnh nhân chóng mặt
trung tâm không đi được vì mất thăng bằng, bị ngã vì không đứng được.
Nghiệm pháp Dix-Hallpike gây rung giật mắt sau thời gian tiềm ẩn 20 giây,
cùng với bệnh sử chóng mặt và nôn mửa giúp chẩn đoán chóng mặt tư thế.
Rung giật mắt xẩy ra sau thời gian tiềm ẩn và giảm dần sau nhiều nghiệm
pháp liên tiếp trong chóng mặt ngoại biên, trong trường hợp ngược lại cần
tìm nguyên nhân trung tâm như u bướu hay chảy máu hố sau.
* Các xét nghiệm cận lâm sàng như đếm máu, đường, chất điện giải
không giúp chẩn đoán chóng mặt, chỉ giúp loại trừ các bệnh khác. Đo thính
lực giúp chẩn đoán bệnh Ménière.
* Xét nghiệm định hình. Cần làm xét nghiệm định hình ở các bệnh
nhân có nguy cơ tim mạch, có dấu thần kinh và giảm thính lực một bên kéo
dài.Chụp não bộ cắt lớp CT dễ thực hiện cần trong trường hợp khẩn cấp để
xác định hoặc loại bỏ xuất huyết tiểu não vì tiến triển nhanh. Cần làm MRI
để chẩn đoán nhồi máu tiểu não. Cần chụp động mạch não bằng cộng hưởng
từ MRA để chẩn đoán các nguyên nhân mạch máu gây chóng mặt như suy
động mạch cột sống-đáy não, thuyên tắc động mạch mê đao, suy động mạch
tiểu não trước hoặc sau dưới.
Nhìn chung phần lớn bệnh nhân bị chóng mắt thường gặp do nguyên
nhân lành tính có thể chẩn đoán bằng bệnh sử và lâm sàng, một số ít do
nguyên nhân trung tâm và nguy hiểm cần chụp CT và MRI.
Bệnh nhân này đã lớn tuổi, có tiền căn cao áp huyết và cao mỡ trong
máu, điều trị không đầy đủ, bị chóng mặt dữ dội kèm ói mửa kéo dài nên có
nhiều khả năng bị chóng mặt do nguyên nhân trung tâm, nghĩa là tai biến
mạch não. Trường hợp này cũng cho thấy rằng CT chỉ giúp loại bỏ xuất
huyết tiểu não, không đủ nhạy để phát hiện sang thương tiểu não, cần làm
MRI để chẩn đoán sang thương hố sau.
Tham khảo:
Labuguen R.H. Initial evaluation of vertigo. Amer.Fam.Phys. 2006;
73:244-51, 254.
Furman J.M.& al. Pathophysiology, etiology and differential
diagnosis of vertigo. UptoDate, 2008, 16.2
Chóng Mặt, Tai Biến Mạch Não, và ĐiềuTrị Chống Đông (2)
Có thể tóm tắt diễn tiến bệnh của bà P. 60 tuổi (Lâm sàng 3/11/08)
như sau:
1. Bệnh nhân bị chóng mặt, nôn mửa, đến cấp cứu, khám không thấy
dấu định vị, chụp CT không thấy không thấy sang thương, được cho về điều
trị triệu chứng;
2. Bệnh nhân trở lại sau 2 ngày vì tiếp tục chóng mặt, nôn mửa, bác sĩ
thần kinh khám thấy có rung giật mắt, dáng đi không vững, mất phối hợp
trong dấu từ ngón tay đến mũi. MRI cho thấy nhiều vùng nhồi máu nhỏ ở
mặt trong và dưới của bán cầu tiểu não phải và trái ba trong số đó có vẻ bán
cấp và ở vùng của động mạch tiểu não sau dưới phải và trái (posterior
inferior cerebellar artery-PICA). Có nhồi máu cũ ở vùng của PICA trái. Sang
thương có thể do bệnh mạch máu nhỏ hoặc do huyết khối. MRA cho thấy
động mạch PICA phải là chủ yếu (dominant) và bị hẹp ở gốc, không có động
mạch PICA trái. Bệnh nhân được nhập viện, điều trị hạ áp, hạ mỡ, chống kết
tụ tiểu cầu với kết hợp apirine dipyrridamol và tập vật lý trị liệu;
3. Xuất viện tiếp tục đìều trị ngoại trú;
4. Sau hơn 1 tháng, bệnh nhân lại bị chóng mặt đi không vững, bị ngã
nhưng không bất tỉnh, trở lại cấp cứu, sau khi thăm khám, được bắt đầu điều
trị chống đông với coumadin và cho về theo dõi ngoại trú.
Có thể nhận xét như sau:
1. Bác sĩ nhận bệnh đầu tiên đã bỏ sót chẩn đoán vì không thấy dấu
định vị, cho về sau khi CT bình thường. Thăm khám thần kinh là một việc
làm tỉ mỉ và mất nhiều thời gian, bác sĩ đa khoa không chuyên môn thần
kinh và bác sĩ cấp cứu vì khối lượng bệnh nhân đông và vì thời giờ hạn chế,
dễ bị bỏ sót;
2. Bệnh nhân đến khám vì chóng mặt, sau khi chụp CT bình thường,
được cho là bị chóng mặt lành tính, kinh nghiệm cho thấy rằng chóng mặt do
nguyên nhân trung tâm không bao giờ là một triệu chứng riêng rẽ, nhưng
luôn luôn đi cùng các triệu chứng khác, do đó cần thăm khám đầy đủ để tìm
các triệu chứng kết hợp;
3. CT dễ làm, có sẵn ở mọi nơi, thuờng dùng để lọai trừ xuất huyết
não, sau đó làm lại CT sau 2 ngày hoặc làm MRI ngay để xác định nhồi máu
não. CT không phải là xét nghiệm định hình tốt để khảo sát sang thương ở
hố sau vì tiểu não bị che khuất bởi các cấu trúc của hộp sọ. Nếu nghi ngờ
cần làm MRI vì xuất huyết tiểu não và phù tiểu não diễn biến nhanh chóng,
có thể gây tử vong.
Thuyên Tắc Hệ Tuần Hoàn Não Sau
Phần lớn (80%) tai biến mạch não do nghẹt tắc động mạch trong số đó
20% do hệ động mạch cột sống-đáy não. Nhiều trường hợp không được chẩn
đoán. Động mạch cột sống-đáy não cung cấp máu cho cuống não (gồm hành
tủy, cầu não và trung não), tiểu não, thùy chẩm, thùy thái dương sau và đồi
não (thalamus). Đây này là vùng chuyển tiếp giữa bán cầu não và tủy sống,
có nhiêu cấu trúc quan trọng gần nhau do đó một sang thương nhỏ có thể
gây nhiều rối lọan chức năng và cũng có tính chất định vị.
1. Các nguyên nhân là huyết khối, xơ vữa động mạch lớn, bệnh động
mạch nhỏ, bóc tách động mạch. Cao áp huyết tạo hyalinose ở thành động
mạch nhỏ gây các vùng nhồi máu nhỏ. Bóc tách hay xảy ra ở động mạch cột
sống ngoài sọ.
2. Triệu chứng gồm chóng mặt, nhức đầu, nôn mửa, nhìn một thành
hai, mất thị giác, mất điều hòa (ataxia), chúi về một bên, tê, yếu các phần
của hai bên cơ thể. Dấu lâm sàng là yếu chi, mất điều hòa chi, liệt thần kinh
vận nhãn, nói khó, nuốt khó. Bệnh nhân có nhiều triệu chứng kết hợp, ít khi
có một triêu chứng đơn độc.
3. Tắc mạch do huyết khối thường xảy ra ở động mạch cột sống nội sọ
gây nhồi máu tiểu não và ở động mạch đáy gây nhồi máu tiểu não trên, trung
não, đồi não và các vùng của động mạch não sau. Nhồi máu tiểu não gây
chóng mặt, nôn mửa, mất thăng bằng, đi lệch về một bên, không giữ được tư
thế thẳng đứng, giảm trương lực chi, rung giật mắt. Thuyên tắc động mạch
não sau có thể gây bán manh và mù vỏ não. Thuyên tắc đỉnh động mạch đáy
gây buồn ngủ, lơ mơ, không nhớ được các việc mới xảy ra
4. Nghẹt mạch do xơ vữa ở gốc động mạch cột sống gây cơn thoáng
thiếu máu não gồm chóng mặt, mất thăng bằng khi đứng hoặc khi bị giảm áp
huyết hoặc giảm lưu lượng máu. Xơ vữa và nghẹt động mạch cột sống nội sọ
gây thiếu máu hành tủy bên. Xơ vữa và nghẹt động mạch đáy thường gây
triệu chứng hai bên, nếu nặng có thể gây hội chứng “locked-in”, bệnh nhân
bị liệt 4 chi và liệt vận nhãn.
5. Nhồi máu do nghẹt động mạch nhỏ ở cầu não gây liệt mặt, tay,
chân hoặc tay và chân cùng bên không kèm theo rối lọan tri giác hoặc cảm
giác. Các vùng khuyết (lacunes) ở đồi não do bệnh động mạch nhỏ gây tai
biến cảm giác ở mặt, tay chân cùng bên không kèm theo liệt.
6. Bóc tách động mạch cột sống cổ ngoài sọ gây đau ở gáy và cổ, lan
xuống vai. Bệnh nhân chóng mặt, nhìn một thành hai, có triệu chứng hành
tủy bên hoặc nhồi máu tiểu não nếu bóc tách lan lên đến động mạch cột sống
trong sọ.
7. Xét nghiệm gồm MRI, chụp động mạch cộng hưởng từ với chất cản
quang MRA, siêu âm tim, theo dõi nhịp tim, tìm nguyên nhân của huyết
khối do tim.
8. Điều trị cũng giống như trong thuyên tắc mạch của hệ tuần hoàn
não trước gồm hạ áp huyết thận trọng với ức chế men chuyển, hạ mỡ với
statin và vật lý trị liệu.
9. Nếu bệnh nhân đến trong vòng 3 giờ sau nhồi máu não và MRI xác
nhận không bị xuất huyết, có chỉ định điều trị tan cục huyết bằng tPA. Ngay
tại các nước có thu nhập cao cũng chỉ có một số ít bệnh nhân hội đủ điều
kiện thời gian.
10. Điều trị phòng ngừa bằng thuốc chống đông chỉ có hiệu quả trong
nhồi máu do huyết khối, không có lợi trong trường hợp xơ vữa vì biến chứng
chảy máu.
11. Trong các trường hợp khác, điều trị chống kết tụ tiểu cầu có lơi
nhỏ, điều trị aspirin kết hợp với dipyrridamol có kết quả tốt hơn là aspirin
đơn thuần.
(Nguồn: Wikipedia)
Bác sĩ Nguyễn Văn Đích