Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Lý thuyết phát triển - Nghiên cứu các nghiên cứu của trường phái hiện đại hóa cổ điển ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.87 KB, 21 trang )

Lý thuyết phát triển Nhóm 3
Danh sách nhóm 3
1. Phạm Thị Hường
2. Vũ Thị Thành Phong
3. Đới Thị Thơm
4. Trần Thị Thêm
5. Lương Thị Hương
6. Nguyễn Thị Thủy
7. Nguyễn Thị Liên
8. Lê Thị Thu Thủy
9. Đào Thị Trang
10. Đỗ Thị Như Quỳnh
i
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
Phụ lục
ii
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
Nghiên cứu các nghiên cứu của trường
phái hiện đại hóa cổ điển
I, Nội dung cơ bản của các nghiên cứu hiện đại hóa cổ điển
1, Nghiên cứu của McClelland về“ động lực đạt được mục tiêu”
a, Nhóm xã hội nào có trách nhiệm chính đối với sự hiện đại hoá nền
kinh tế của các nước Thế giới thứ 3?
Theo như McClelland (1964) là những doanh nhân trong nước (mà
không phải chính trị gia hay cố vấn phương tây) sẽ đóng vai trò quan trọng.
Do đó McClelland lập luận rằng:
+ các nhà nghiên cứu cần phải vượt qua được nghiên cứu về các chỉ
số kinh tế để nghiên cứu các doanh nghiệp.
+ hoạch định chính sách cần phải đầu tư vào con người không chỉ ở
kinh tế, cơ sở hạ tầng.
+ McClelland khẳng định rằng mục tiêu của hoạt động kinh doanh


không theo đuổi lợi nhuận. Trong khi lợi nhuận là một khía cạnh quan trọng,
nó chỉ là một chỉ bảo của các mục tiêu khác.
Những gì các doanh nhân có thực sự là một mong muốn mạnh mẽ cho
thành tích để làm một công việc tốt. Đối với cách nghĩ mới, để cải thiện hiệu
suất hiện nay, một mong muốn rằng McClelland gọi là “động lực đạt được
mục tiêu ” hoặc cần cho thành tích.
Ví dụ:
- Nếu một người dùng thời gian rảnh rỗi để hưởng cuộc sống hiện đại –
trong các hoạt động như ngủ, bơi lội và ăn uống thì động lực đạt được mục
tiêu của người đó rất thấp.
- Còn nếu một người dành thời gian rảnh rỗi đó của mình nghĩ về bạn
bè, gia đình và các cuộc gặp mặt xã hội, các bữa tiệc trên bãi biển, và vân vân
thì người đó vẫn có một động lực để đạt được mục tiêu thấp.
1
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
- Chỉ khi một người nghĩ về việc làm như thế nào để cải thiện tình hình
hiện tại hoặc cách thực hiện nhiệm vụ một cách tốt hơn thì có thể nói rằng
người đó có một động lực mạnh mẽ để đạt được mục tiêu.
b, Đo lường "Động lực đạt được mục tiêu" như thế nào?
Đối với cá nhân: McCelland đã thông qua phương pháp chiếu để đo động lực
đạt được mục tiêu cá nhân.
Sau khi hiển thị một số hình ảnh cho đối tượng nghiên cứu xem,
McCelland yêu cầu họ viết một câu chuyện rồi sau đó chúng được sử dụng để
đánh giá động lực đạt được mục tiêu của những người kể chuyện. Điều được
giả định ở đây là người kể chuyện không chỉ là nói một câu chuyện mà thực
sự nó sẽ tiết lộ động lực của riêng họ thông qua các tham vọng của họ trong
suốtquá trình kể chuyện.
Ví dụ: sau khi nhìn thấy cảnh một người đàn ông đang nhìn vào một bức
ảnh ở đầu chiếc bàn làm việc:
+ Một nghiên cứu đã nói rằng người đàn ông này đang mơ mộng, ông ta

đang suy nghĩ về các kỳ nghỉ mà ông đã trải qua vào những ngày cuối tuần
trước với gia đình, và đang lập kế hoạch về các chi tiêu trong tuần tới.
+ Một nghiên cứu khác lại nói người đàn ông đó là một kỹ sư đang làm
một bản dự thảo và ông ta đang suy nghĩ về các vấn đề kỹ thuật quan trọng
như làm thế nào để xây dựng một cây cầu mà có thể chịu được những sức ép
của gió lớn.
=> Như vậy rõ ràng đối tượng nghiên cứu là người trong câu chuyện thứ 2
sẽ nhận được điểm số cao hơn về động lực đạt được mục tiêu so với đối tượng
đầu.
Đối với quốc gia: McCleland đo lường thông qua nội dung của các tác phẩm
văn học dân gian vì theo ông các tác phẩm văn học dân gian của một dân tộc
thể hiện ý chí của dân tộc đó, là sự phản ánh tâm lý của người dân trong một
quốc gia, nếu không chúng đã không thể trở thành chuyện dân gian.
Ví dụ: về chủ đề xây dựng thuyền:
2
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
+ các nhà văn học nổi tiếng của một quốc gia nhấn mạnh những trẻ em vui
vẻ thì sẽ cùng nhau xây dựng
+các nhà văn học của một quốc gia khác nhấn mạnh rằng điều cần thiết hơn
là cần có một nhà lãnh đạo sáng suốt để tổ chức và lên kế hoạch hoạt động
xây dựng thuyền.
=> Rõ ràng, nền văn học của quốc gia thứ hai có điểm động lực đạt được
mục tiêu cao hơn điểm của quốc gia đầu tiên.
Kết luận: Những quốc gia nào có điểm động lực đạt được mục tiêu cao sẽ có
sự phát triển kinh tế cao. Ngoài ra ông cũng báo cáo rằng thời gian của sự
phát triển là rất lớn. Những thăng trầm của động lực đạt mục tiêu cũng gắn
với những thăng trầm của sự phát triển kinh tế kinh tế quốc gia.
Ví dụ minh họa: những quốc gia nào có điểm động lực đạt được mục tiêu
cao sẽ có sự phát triển kinh tế cao. Ngoài ra ông cũng báo cáo rằng thời gian
của sự phát triển là rất lớn. Những thăng trầm của động lực đạt mục tiêu cũng

gắn với những thăng trầm của sự phát triển kinh tế kinh tế quốc gia.
c, Nguồn gốc của động lực đạt được mục tiêu là gì?
- Sự giáo dục của gia đình, đặc biệt là của bố mẹ đối với con cái:
+ Đầu tiên cha mẹ cần phải định hướng thiết lập các tiêu chuẩn cao về
thành tích cho con cái của họ. Ví dụ, như con cái của họ sẽ đạt thành tích xuất
sắc trong học tập, để có việc làm tốt và được nổi tiếng, được tôn trọng trong
cộng đồng
+ Thứ hai phụ huynh cần sử dụng các phương pháp khuyến khích nhẹ
nhàng, họ cần mang đến cho con cái của họ sự khích lệ và yêu mến, sẽ thưởng
nếu các em thực sự thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
+ Thứ ba cha mẹ không nên áp đặt chúng, không nên làm mọi thứ cho con
cái, nên để các em phát triển sáng kiến của riêng mình và tạo ra những cách
riêng để xử lý các tình huống khác nhau.
-Hệ thống giáo dục và sự ảnh hưởng của văn hoá phương Tây sẽ truyền
"động lực đạt được mục tiêu" vào các nước Thế giới thứ 3.
3
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
d, Hàm ý chính sách
Do vậy, theo McClelland:
- Nghiên cứu sự phát triển của các nước Thế giới thứ ba nên tập trung
nghiên cứu giới doanh nhân.
- Các nhà lập chính sách cần có chính sách đầu từ vào nguồn nhân lực
đặc biệt phải đẩy mạnh "Động lực đạt được mục tiêu" của các doanh nhân
trong nước.
- Biện pháp để làm điều đó là tăng cường quan hệ giáo dục, văn hoá với
các nước phát triển phương Tây.
2, Nghiên cứu của INKELESS về“ Con người hiện đại”.
a, Câu hỏi nghiên cứu:
- Ảnh hưởng của HĐH đến thái độ, giá trị sống và cách sống của các cá nhân
là gì?

- Khi người dân của các nước Thế giới thứ 3 bị ảnh hưởng của các giá trị
phương Tây thì thái độ của họ có hiện đại hơn trước hay không?
- Quá trình HĐH có gây ra trạng thái tâm lý căng thẳng (Stress) cho người
dân ở các nước Thế giới thứ 3 hay không?
Cách nghiên cứu: Để nghiên cứu những câu hỏi này, Inkeless cũng như
McClelland đã thực hiện nghiên cứu qua các quốc gia. Nghiên cứu của ông
bao gồm các quốc gia: Argentina, Chile, Ấn Độ, nước Do Thái, Nigeria và
Pakistan, các nước này được chọn bởi các quốc gia này nằm tại các vị trí khác
nhau về quy mô và trình độ hiện đại hoá. Inkeless phỏng vấn 6000 thanh niên,
được lựa chọn từ các giai cấp khác nhau như: Nông dân, di dân, công nhân,
công nghiệp đô thị và học sinh. Ông đã phát triển một bảng câu hỏi dài, bao
gồm hơn 300 mục và mất trung bình 3 giờ để hoàn thành một mục, ông nhận
được sự hỗ trợ từ quỹ Rockfeller, quỹ Ford, quỹ khoa học quốc gia, sở y tế,
không quân mỹ, đại học Harvard trong việc thực hiện dự án với quy mô lớn.
4
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
Kết quả: Mức độ HĐH đất nước có ảnh hưởng tỷ lệ thuận đến mức độ
hiện đại của người dân, một đất nước có mức độ công nghiệp hoá càng cao thì
càng hiện đại.
b, Đo lường mức độ hiện đại của người dân.
Inkeless đã phát hiện ra mô hình ổn định của con người hiện đại qua
các quốc gia. Nói cách khác, các tiêu chí được sử dụng để xác định con người
hiện đại ở quốc gia này cũng được áp dụng để xác định con người hiện đại ở
các quốc gia khác. Thước đo mức độ hiện đại của người dân có giá trị từ 0
đến 100.
Một số đặc điểm chung của con người hiện đại:
+ Sự cởi mở với những cái mới: Con người hiện đại sẵn sàng thử hoạt
động mới hoặc sáng tạo ra cách thức mới để làm mọi việc.
+Tăng thẩm quyền độc lập từ các số liệu: Những con người hiện đại
không chịu sự điều khiển của bố mẹ hay những người đứng đầu.

+ Niềm tin trong khoa học: Con người hiện đại tin rằng mình có thể
chinh phục thiên nhiên.
+Tính di động định hướng: Con người hiện đại rất đầy tham vọng, họ
muốn leo lên các nấc thang trong nghề nghiệp.
+ Sử dụng kế hoạch dài hạn: Con người hiện đại luôn luôn lập kế
hoạch trước và biết những gì họ sẽ phải thực hiện trong thời gian tới.
+Hoạt động trong nền chính trị dân sự: Con người hiện đại tự nguyện
tham gia vào những việc cộng đồng, địa phương.
c, Điều gì tạo nên con người hiện đại?
-Giáo dục là yếu tố quan trọng nhất. Cụ thể là mô hình giáo dục
phương Tây sẽ giúp cho việc tiếp nhận các giá trị hiện đại:
Một năm của giáo dục có thể tăng các giá trị hiện đại từ 2 đến 3 điểm
trong quy mô hiện đại hoá 0 đến 100. Inkeless thêm rằng, đó không phải là
chương trình kỹ thuật như nghiên cứu của toán học, hoá học, sinh học – đó là
những vấn đề về chương trình giảng dạy - tiếp xúc với giá trị của giáo viên
5
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
phương Tây, sử dụng sách giáo khoa của phương Tây, xem phim Tây - tất cá
các điều đó đều tạo điều kiện mua lại các giá trị hiện đại.
- Nghề nghiệp: Tác phong làm việc công nghiệp
Nghề nghiệp được đo bằng công việc ở nhà máy cũng có tính độc lập
về các giá trị hiện đại. Có một hiệu ứng xã hội hoá theo hướng nếu một các
nhân nhờ một nền giáo dục tốt mà phát triển thì người đó vẫn có cơ hội trở
nên hiện đại bằng việc làm trong một nhà máy có quy mô lớn.
d, Quá trình HĐH không gây ra trạng thái tâm lý căng thẳng cho người
dân ở các nước Thế giới thứ 3
-Không có sự khác biệt về mức độ căng thẳng tâm lý giữa con người
hiện đại và con người không hiện đại
-Quá trình HĐH không tạo ra sự căng thẳng về tâm lý cho người dân ở
các nước Thế giới thứ 3

3, Nghiên cứu của BELLAH về“ Tôn giáo thời Tokugawa ở Nhật Bản”
a, Vấn đề nghiên cứu:
Bellah (1957) đã tìm hiểu sự đóng góp của tôn giáo Tokugawa vào sự
phát triển kinh tế nhanh chóng của Nhật Bản.
Cuối thế kỷ XIX, làn sóng công nghiệp hoá ở Nhật Bản thắng lợi không
phải bởi các nhà công nghiệp, thợ thủ công hoặc thương gia, mà bởi một lớp
Võ sỹ đạo (Samurai) đó là lớp Samurai khôi phục Hoàng đế, cung cấp một số
lượng lớp các nhà doanh nghiệp và đặt nền tảng cho hiện đại hoá ở Nhật Bản.
Như vậy, nhân tố tôn giáo có phải là nhân tố tạo nên sự hiện đại của xã hội
Nhật Bản?
b, Nền tảng lí thuyết
Thừa hưởng các khái niệm của Thuyết chức năng để phân tích mối quan hệ
giữa tôn giáo và xã hội công nghiệp hiện đại của Nhật:
-Xã hội công nghiệp hiện đại: được định nghĩa dựa trên các giá trị kinh
tế như: Sự hợp lý, tính phổ thông, kết quả đạt được
6
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
-Và một xã hội thiếu các giá trị kinh tế trên thì không thể vượt qua
được các trở ngại của nền kinh tế lạc hậu để trở thành một nền kinh tế năng
động
Trong các tác phẩm của Bellah luôn đề cập đến thái độ và hành động
của một cá nhân đối với các giá trị cuối cùng của mình. Bellah lập luận rằng
nó là một trong những chức năng xã hội do tôn giáo cung cấp và các giá trị
trung tâm mà một xã hội có thể sử dụng làm nền tảng lý thuyết. Bellah tiến
hành nghiên cứu những đặc điểm về tôn giáo Nhật Bản mà có thể cung cấp
một sự thay đổi quan trọng các giá trị trung tâm:
- Đầu tiên, mặc dù thực tế cho rằng có nhiều tôn giáo ở Nhật Bản (bao
gồm Khổng giáo, đạo Phật, đạo Sintô), có thể nói tôn giáo Nhật Bản là thực
thể duy nhất. Điều đó là bởi vì các truyền thống tôn giáo khác có sự thâm
nhập và hợp nhất với nhau.

- Từ các quan sát khác mà Bellah cho rằng tôn giáo Nhật Bản thành lập
hệ thống các giá trị trung tâm của xã hội. Tôn giáo Nhật Bản bắt đầu từ đạo
đức của lớp chiến binh Samurai, sau đó đã trở nên phổ biến rộng rãi, thông
qua các ảnh hưởng của Khổng giáo và Phật giáo nó đã trở thành đạo đức của
toàn bộ người dân Nhật Bản, bao gồm cả sinh hoạt lạc hậu, nông dân ở các
làng xa.
=> Với 2 quan sát, Bellah giải thích các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và
tôn giáo.
c, Ba hình thức quan hệ giữa tôn giáo và phát triển kinh tế ở Nhật
Ảnh hưởng trực tiếp của tôn giáo đến đạo đức kinh tế:
Bellah khảo sát giáo phái Phật của Shinshu. Trong giai đoạn đầu,
Shinshu nhấn mạnh sự cứu giúp chỉ bởi đức tin một mình và ít quan tâm đến
nhu cầu đạo đức, do đó, bất cứ ai có thể được cất giữ, không có vấn đề như
thế nào xấu. Bởi giữa Tokugawa( 1600-1868), tuy nhiên, như một kết quả của
sự thúc đẩy của Shonin Rennyo, cái gọi là người sáng lập thứ hai của giáo
phái, cứu giúp và hoạt động đạo đức được trở nên vững bền liên kết. Không
7
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
có gì hơn là một sự thay đổi của các giá trị tôn giáo trong hành động đó đã
được nhấn mạnh đạo đức là dấu hiệu của cứu giúp.
Bellah ghi chú ba đặc điểm mới có đạo đức đòi hỏi:
- Siêng năng làm việc trong thế giới này, một cách đặc biệt trong sự chiếm
đóng của một ai đó, chiếm đóng là nơi trung tâm trong các nhiệm vụ đạo đức.
- Một tu sĩ ẩn dật thái độ về hướng tiêu thụ hiện nay cũng như có thể nhìn
thấy từ những châm ngôn sau đây:
+Luôn luôn nghĩ được thần thánh bảo vệ.
+Vui vẻ không bỏ bê hoạt động cần cù, sáng và tối.
+ Công việc khó khăn tại gia đình chiếm đóng.
+ Giữ lời nói trong sự lịch sự.
+Không đánh bạc.

+Thay vì mất rất nhiều, phải mất một chút.
- Mặc dù lợi nhuận không trung thực đã bị cấm, lợi nhuận kinh doanh bình
thường được là hợp pháp trong giới hạn tôn giáo qua học thuyết tôn giáo.
Ví dụ: Để kiểm lại dẫn chứng sự ảnh hưởng của tôn giáo Shinshu trong các
ứng xử hiện có của thợ thủ công Nhật Bản. Bellah dẫn chứng sự tập trung của
các ngôi đền Shinshu ở thị trấn thủ công Omi, một số lượng lớn những thủ
công Omi ở danh sách đền thờ và những tuyên bố thường xuyên thực hiện
trong tiểu sử của các nghệ nhân.
Ảnh hưởng gián tiếp của hệ thống chính trị tôn giáo
Ở Trung Quốc, Nho giáo nhấn mạnh rằng sự sản xuất nên có mục đích về
sự đầy đủ, sự hài hoà, sự hội nhập giữa các thành phần khác nhau của xã hội
nhưng ở Nhật Bản như Bellah chỉ ra Nho giáo đã về một nghĩa sau khi được
tích hợp với Phật giáo. Thay vì nhấn mạnh sự hài hoà giữa các thành phần
khác nhau trong xã hội, Nho giáo Nhật Bản đã bênh vực sự phụ thuộc, vị tha
của các thành phần đến toàn bộ tập đoàn.
Sự phụ thuộc nguyên tắc này được phản ánh trong các đạo đức kinh tế
của võ sĩ đạo Nhật Bản: nhiệm vụ và công việc của các võ sĩ Nhật Bản được
8
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
coi như làm đúng nghĩa vụ vô hạn, các võ sĩ Nhật phải làm theo nhiệm vụ với
sự tận tâm hết mình và không với bất kì sự đắn đo.
Sự kêu gọi của nghĩa vụ vô hạn giải thích tại sao các tầng lớp võ sĩ bắt
đầu phục hồi Minh Trị. Theo Bellah, các động lực của các võ sĩ hàng đầu đã
được phục hồi Minh Trị chủ yếu là chính trị chứ không phải là xây dựng kinh
tế các vấn đề được quan tâm với quốc gia ngày càng tăng lên, sự gia tăng của
cải chỉ là một phương tiện để kết thúc.
=> Do đó các võ sĩ chuyển mình thành doanh nhân mạnh mẽ trong quy mô
lớn, không phải vì họ muốn làm giàu, mà họ muốn thông qua các quốc gia
phát triển kinh tế như là một minh hoạ của cách thích ứng của đạo đức võ sĩ
về tinh thần kinh doanh hiện đại, Bellah (1957,p.187) trích dẫn các quy tắc

của nhà Iwasaki, người sáng lập võ sĩ của Mitsubitshi:
+ Hoạt động của tất cả các doanh nghiệp với lợi ích các quốc gia trong tâm
trí.
+ Không bao giờ quên tinh thần của các võ sĩ.
+ Sử dụng nhân sự thích hợp.
Trong quan sát việc tiếp tục các giá trị trung ương Tokugawa trong thời kì
Minh Trị hiện đại Bellah phát biểu rằng các nền kinh tế công nghiệp hiện đại
được tạo bởi các giá trị của một giá trị trước đó.
Ảnh hưởng gián tiếp của tôn giáo thông qua gia đình:
Các nhà thương gia được coi là một thực thể thiêng liêng như biểu tượng tôn
thờ tổ tiên. Các tiêu chuẩn của dịch vụ chăm sóc đến nhà thương gia đã được
thiết lập rất cao, trở thành mối quan tâm trong cuộc sống của những võ sĩ này
nhằm thúc đẩy danh dự gia đình và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thiêng liêng
nhất của các gia đình. Lười biếng hoặc không trung thực sẽ làm suy giảm hiệu
quả kinh doanh và sẽ mang xấu hổ về cho tổ tiên một người.
=> Do đó động lực kinh tế của các tầng lớp thương gia là lợi nhuận gia
đình. Bellah lập luận rằng nghĩa vụ đạo đức của các gia đình là củng cố các
tiêu chuẩn cao của sự trung thực, chất lượng, và có chữ tín. Cố định mức thu
9
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
nhập trong thế giới kinh doanh và cung cấp một động lực mạnh mẽ về hướng
hợp lí hoá kinh tế ở Nhật Bản hiện đại.
Tại Nhật Bản, tuy nhiên do sự hợp nhất giữa Nho giáo và Phật giáo nên
đạo đức của lòng trung thành chiến binh tiếp tục tồn tại, và lòng trung thành
với quốc gia vì thề có giá trị hơn nhiều so với sự quan tâm cho gia đình.
Bellah cho rằng xã hội Nhật Bản như bị chi phối bởi chính trị hay mục tiêu
đạt giá trị, và giá trị này cung cấp các tính năng động kéo xã hội Nhật Bản lại
với nhau để theo đuổi mục tiêu tăng cường sức mạnh tập thể của quốc gia.
Trong tổng hợp, các nghiên cứu của Bellah về tôn giáo Tokugawa cho
thấy nó trực tiếp hay gián tiếp tạo nên một ảnh hưởng thuận lợi về hợp lí hoá

kinh tế của xã hội và gia đình Nhật Bản.
4, Nghiên cứu LIPSET về“ Mối quan hệ giữa Phát triển kinh tế và Dân
chủ”.
a, Vấn đề nghiên cứu
Công việc của Lipset (1963) là việc kiểm tra mối quan hệ giữa dân chủ
và sự phát triển kinh tế.
Lipset đã chỉ ra các câu hỏi cho xã hội như: Liệu giàu thì có dân chủ
không và liệu các xã hội nghèo với một khối lượng lớn thì tập trung những
người lãnh đạo (chính phủ tạo bởi một tầng lớp thượng lưu, chẳng hạn như
chế độ độc tài truyền thống ở Châu Mỹ) hoặc chuyên chế (phổ biến dự trên
chế độ độc tài như là chế độ chủ nghĩa cộng sản hoặc vô sản).
b, Chỉ tiêu phân tích
Dân chủ: -Dân chủ được thể hiện thông qua hệ thống chính trị cung cấp
những cơ hội sửa đổi Hiến pháp để thay đổi sự quản lí của chính quyền.
- Cho phép dân chúng ảnh hưởng tới các quyết định quan trọng của
các cơ quan nhà nước.
4 loại của hệ thống chính trị ở Châu Âu và Mỹ La Tinh:
+ Châu Âu ấn định nền dân chủ (ví dụ như, Vương quốc Anh): với một
quốc gia tiếp tục không bị gián đoạn của một phong trào chính trị kể từ cuộc
10
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
chiến thứ nhất và sự vắng mặt của một phong trào chính trị trái ngược với các
trò chơi( quy tắc của trò chơi ).
+ Châu Âu không ổn định nền dân chủ và chế độ độc tài(ví dụ như,Tây
Ban Nha) những nước trong Châu Âu không đáp ứng được các tiêu chí trên.
+ Mỹ La Tinh nền dân chủ và không ổn định chế độ độc tài(ví dụ như,
Brazil): nước có một lịch sử nhiều các cuộc bầu cử tự do kể từ cuộc chiến
tranh thế giới I.
+ Châu Mỹ Latinh chế độ độc tài ổn định ( ví dụ như, Cuba): các quốc
gia ở Châu Mỹ Latin không đáp ứng được các tiêu chí trên.

Lipset giải thích, là vì điều này cho thấy danh sách các tiêu chuẩn cho
các nước Mỹ La Tinh ít nghiêm ngặt. Tại Châu Âu, chúng tôi tìm kiếm các
nền dân chủ ổn định,trong khi ở Nam Mĩ chúng tôi tìm kiếm các chế độ độc
tài không ổn định.
Phát triển kinh tế: Lipset đã sử dụng các chỉ số khác nhau, bao gồm:
+ Sự giàu có: được đo bằng bình quân thu nhập đầu ngươì, số người trên
một xe máy, số lượng bác sĩ, đài catset, điện thoại, số bài báo trên 1000
người.
+Công nghiệp hoá: Được đo bằng tỉ lệ lao động làm việc trong nông
nghiệp và năng lượng trong mỗi đầu người tiêu dùng.
+ Đô thị hoá: được đo bằng tỉ lệ phần trăm dân số tại các thành phố trên
20000, tại các thành phố trên 100000, và tại các khu vực đô thị.
+ Giáo dục: được đo bằng ghi danh giáo dục tiểu học, giáo dục trung
hoc, giáo dục đại học và ghi danh trên 1000 người
c, Kết quả nghiên cứu
Lipset thấy rằng các quốc gia dân chủ hơn thì sẽ có một sự giàu có trên
mức trung bình, một trình độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá cao, một nền
giáo dục phát triển ở cấp cao hơn
11
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
Ví dụ: Lipset báo cáo thu nhập bình quân đầu người ổn định trên nền
dân chủ Châu Âu là $695, của chế độ độc tài Châu Âu là $308, của nền dân
chủ Mỹ La Tinh là $171 và đối với chế độ độc tài ở Mỹ La Tinh là $119.
Hơn nữa tất cả các thông số về sự phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, đô
thị hoá và dịch vụ đều có mối quan hệ tương quan cao với các biến của nền
dân chủ.Trích dẫn ý tưởng của Lenner, Lipset cho rằng mối tương quan cao
này có thể là kết quả của nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình hiện đại
hoá: bắt đầu từ đô thị hoá theo sau là sự phát triển của giáo dục và phương
tiện thông tin đại chúng, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của các tổ chức dân chủ
cùng tham gia.

d, Giải thích: cái gì giải thích mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh
tế và chế độ dân chủ?
Lipset ( 1963, trang. 45) về cơ bản cung cấp một lời giải thích về tầng
lớp xã hội: “kinh tế phát triển, sản xuất tăng thu nhập, an ninh kinh tế lớn hơn,
và giáo dục đại học phổ biến rộng rãi, chủ yếu là xác định từ các cuộc đấu
tranh của các tầng lớp xã hội” mà gốc là nền tảng của nền dân chủ.
Trước tiên, các tầng lớp thấp hơn ở các nước nghèo kinh nghiệm tình
trạng yếu kém hơn đối tác của mình tại các quốc gia giàu có. khi một quốc gia
là người nghèo, những chia sẻ của hàng hoá, dịch vụ, và các nguồn lực chắc
chắn phải có ít công bằng hơn trong một quốc gia trong đó có tương đối dồi
dào.
Thứ 2, gia tăng khoảng cách giàu nghèo cũng ảnh hưởng đến xã hội. Các
thành viên trong xã hội có thể tự nguyện tham gia các tổ chức chính trị, họ
cung cấp một lực lượng đối kháng để kiểm tra sức mạnh nhà nước, tạo thành
nguồn ý kiến mới cho các phương tiện thông tin đại chúng và giúp đỡ để đào
tạo công dân trong việc tham gia các hoạt động chính trị. Lipset khẳng định
rằng tầng lớp trung lưu cũng giải quyết xung đột bằng phương pháp hoà giải,
đồng thời cũng xử phạt các nhóm cực đoan.
12
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
Thứ 3, tình hình chính trị trong tầng lớp thượng lưu cũng liên quan đến sự
giàu có của một quốc gia. Ở các nước nghèo, các tầng lớp thượng lưu có xu
hướng đối xử với các tầng lớp thấp hơn một cách thô tục và khiếm nhã, vượt
ra ngoài ranh giới của con người. Ở nước nghèo, tầng lớp thượng lưu không
cho tầng lớp dưới có quyền lực chính trị, vì vậy họ thường xuyên phản ứng
cực đoan thông qua các cuộc biểu tình. Mặt khác ở các nước giàu có, nơi có
đủ nguồn lực để phân phối sản phẩm một cách dễ dàng hơn so với các nước
chậm phát triển, mở rộng quyền lợi của người dân.
Lipset hoàn thiện quan điểm bằng cách thêm một yếu tố mới trong công
nghiệp hoá. Theo Lipset: “Bất cứ nơi nào công nghiệp hoá diễn ra nhanh

chóng, thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa nền công nghiệp trước và sau khi tiến
hành công nghiệp hoá, hạn chế các phong trào cực đoan nảy sinh các tầng lớp
xã hội ”
Điều này có nghĩa là một nước diễn ra quá trình công nghiệp hoá chậm,
công nhân được làm việc trong công nghiệp một thời gian dài và xa rời các
vùng nông thôn và những người có thể đã cung cấp cơ sở cho một bên cực
đoan là luôn luôn ở thiểu số. Nếu công nghiệp hoá nhanh chóng, có kết quả
tăng trưởng đột biến, số lượng công nhân không có kĩ năng ở các vùng nông
thôn không thích ứng kịp thời, qua đó cung cấp nhân lực cho hệ thống chính
trị cực đoan.
II, Sức mạnh của trường phái hiện đại hóa cổ điển
1, Trọng tâm nghiên cứu
Họ tập trung nghiên cứu, đặt ra câu hỏi về vấn đề:
+ Các yếu tố nào đã thúc đẩy quá trình hiện đại hoá của các nước thế
giới thứ ba?
+ Hậu quả của hiện đại hoá đối với các nước này?
13
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
Ví dụ:
+ McClelland nếu mối tương quan giữa thầnh tích và động lực mạnh
mẽ thì nền kinh tế cũng phát triển.
+ Bellah xem xét vai trò của tôn giáo Tokugawa trong quá trình tăng
trưởng kinh tế ở Nhật Bản.
+Lipset nói lên vai trò vủa dân chủ trong quá trình phát triển kinh tế ở
các nước thế giới thứ 3.
+ Inkeless thảo luận về những hậu quả của quá trình công nghiệp hoá
do thái độ và hành vi cá nhân.
2, Khung phân tích
Các nghiên cứu có chung một Khung phân tích đó là:
- Các nước Thế giới thứ 3 là lạc hậu và các nước Tây Âu là hiện đại

- Để HĐH hóa theo con đường của các nước phương Tây, các nước Thế giới
thứ 3 cần từ bỏ các bản sắc truyền thống của mình.
Ví dụ: + McClelland muốn áp dụng thành tựu giá trị phương Tây sang các
nước Thế giới thứ 3 như là một phương tiện để thúc đẩy quá trình hiện đại
hoá kinh tế.
+ Inkeless cho rằng, con người hiện đại ở các nước thuộc thế giới thứ
3 có xu hướng mang những đặc điểm của phương Tây như là định hướng di
động, việc sử dụng các kế hoạch dài hạn và tham gia trong các hoạt động.
+Bellah khẳng định rằng các giá trị của phương Tây như kinh nghiệm
và thành tựu khoa học là cần thiết cho việc giải phóng nền kinh tế của các
nước Thế giới thứ 3.
Xuất phát từ những hạn chế của quá trình công nghiệp hoá để đạt được
trình độ phát triển nền kinh tế giống phương Tây (như công nghiệp hoá, đô thị
hoá và phát triển giáo dục) trước khi họ có thể duy trì phong cách giống như
nền dân chủ phương Tây (bao gồm các cuộc bầu cử và thay đổi các nhà quản
lí của chính phủ).
14
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
3, Phương pháp luận
Ngoại trừ việc nghiên cứu của Bellah, các công trình thực nghiệm đã
thảo luận theo xu hướng giống như các cuộc thảo luận ở các nước phát triển
Các nghiên cứu đều phân tích ở tầm vĩ mô: Các kết luận có thể áp dụng
cho tất cả các nước Thế giới thứ 3.
III. Những sự phê bình đối với Trường phái HĐH cổ điển
1. Phát triển theo một chiều hướng duy nhất
Thứ nhất, tại sao các nước Thế giới thứ 3 lại phải đi theo con đường
của các nước Tây Âu? Sinh ra và lớn lên ở các nước phương Tây, các nhà
nghiên cứu hiện đại hoá tin rằng các giá trị văn hoá riêng của họ là tự nhiên
nhất và tốt nhất thế giới. Họ nghĩ rằng các nước phương Tây của họ đại diện
cho tương lai của các nước thế giới thứ ba. Họ còn giả định rằng các nước thế

giới thứ ba sẽ hướng nhiều hơn theo hướng của các nước phương Tây hiện
đại.
Không có cơ sở khoa học chắc chắn để nói rằng các nước Tây Âu là hiện đại,
là tiên tiến còn các nước Thế giới thứ 3 là lạc hậu.
Thứ hai, Các nước Thế giới thứ 3 có thể tìm riêng cho mình con đường
phát triển phù hợp: Trường hợp của Đài Loan, Hàn Quốc
Thứ ba, các nhà phê bình cho rằng các nhà nghiên cứu hiện đại hoá đã
quá lạc quan. Không phải những thành tựu phát triển mà các nước Tây Âu đã
đạt được thì các nước Thế giới thứ 3 cũng sẽ đạt được. Đã có vùng lãnh thổ
có triển vọng về hiện đại hoá bị thất bại như ở Ethiopia, ở đó con người phải
đối mặt với tình trạng thiếu lương thực, còn các quốc gia thì phải đối mặt với
sự tuyệt chủng.
Các nhà phê bình đã điểm ra rằng trên thực tế có rất nhiều các nước thế
giới thứ ba còn tồi tệ hơn trong thế kỷ qua. Dường như quá trình hiện đại hoá
có thể làm ngừng hoặc thậm chí còn có thể chống lại, sửa lại các yêu sách mà
các trừng phái hiện đại hoá đề ra.
15
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
2. Sự cần thiết phải xoá bỏ các giá trị truyền thống
Thứ nhất, các giá trị truyền thống là gì? Phải chăng hệ thống giá trị
truyền thống của các nước Thế giới thứ 3 là đồng nhất và hoà hợp?
- Câu trả lời là không: Hệ thống giá trị của các nước Thế giới thứ 3 là không
đồng nhất và có xung đột. . Ví dụ như Reddfie (1965) đã phân biệt “truyền
thống lớn” (giá trị của các tầng lớp) và “truyền thống nhỏ” (giá trị của công
chúng) các tầng lớp có giá trị trong lĩnh vực thi ca, hội hoạ, khiêu vũ, săn bắn,
giải trí và triết lý trong khi quần chúng nhân dân có giá trị khi họ làm việc
trong lĩnh vực nghiên cứu, siêng năng, tiết kiệm và trong cuộc sống của chính
mình
Thứ hai, phải chăng các giá trị truyền thống và giá trị hiện đại là không
thể tồn tại song song?

- Câu trả lời là chúng có thể tồn tại song song. . Ví dụ,xã hội Trung Quốc
truyền thống nhấn mạnh tầm quan trọng của tính cá biệt truyền thống, ở đó có
một hệ thống kiểm tra khách quan các thành tựu phổ biến. Mặt khác, trong xã
hội hiện đại các giá trị truyền thốnh vẫn luôn tồn tại cho tới nay. Ví dụ như
các giá trị cá biệt (như dân tộc, giớ tính và tuổi) không bao giờ có thể được bỏ
trong một cơ quan hiện đại. Kết quả là, có vẻ như các giá trị truyền thống và
hiện đại luôn luôn cùng tồn tại.
Thứ ba, phải chăng các giá trị truyền thống luôn cản trở sự hiện đại
hoá?
- Câu trả lời là không. Các giá trị truyền thống trong nhiều trường hợp thúc
đẩy quá trình hiện đại hoá: VD. Trường hợp Nhật Bản, , giá trị của “trung
thành với hoàng đế” là một cách dễ dàng “trung thành với công ty” và đã giúp
nâng cao năng suất lao động và cắt giảm dân số.
Cuối cùng, các giá trị hiện đại có thể hoàn toàn thay thế các giá trị
truyền thống được không?
- Câu trả lời là các giá trị truyền thống luôn tồn tại trong suốt quá trình HĐH:
VD. Các bài hát dân ca, truyện dân gian,
16
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
3. Vấn đề về phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của Trường phái HĐH cổ điển có mức độ
trừu tượng cao. Điều đó dẫn đến các nghiên cứu thiếu rõ ràng. Nghiên cứu ở
nước nào, trong giai đoạn nào không được nói rõ.
Ví dụ, là thảo luận về các biến kiểu như particularistic, gán, tập thể, khuếch
tán, và các giá trị Trầm, nó không rõ ràng mà quốc gia ( Nhật Bản, Ai Cập,
hoặc Peru) các trường học, hiện đại hóa? Dang nói về. Nó cũng chưa rõ mà kỳ
lịch sử nào hiện đại hóa là miêu tả. Nó là mười bảy, mười tám này, mười
chín, hoặc thế kỷ XX? Những nhà nghiên cứu Hiện đại hóa neu những lý lẽ
của họ ở cuch một mức cao của sự khái quát mà những mệnh đề của họ bên
ngoài thời gian và những hạn chế không gian.

Trường phái HĐH cổ điển thiếu các nghiên cứu so sánh trước-sau mà
chỉ có các nghiên cứu so sánh giữa các quốc gia về quá trình HĐH.
Ví dụ, để nghiên cứu lí do tại sao Trung Quốc đã thất bại ngay trong bước đầu
tiên của công cuộc hiện đại hoá – trong chiến tranh thế giới thứ 2. Các nhà
phê bình đã tranh luận để tìm ra phương pháp nghiên cứu chính xác bằng cách
nghiên cứu xem Trung Quốc mong muốn điều gì ở thế kỉ XVIII, chuyện gì đã
xảy ra với Trung Quốc từ thời điểm đó và các nhân tố ảnh hưởng tới phương
hướng phát triển của Trung Quốc vào thế kỉ XX như thế nào? Tuy nhiên thay
đổi theo đuổi một phương pháp nghiên cứu lịch sử, các nhà nghiên cứu hiện
đại hoá đơn giản chỉ cần áp dụng một phương pháp xuyên quốc gia. Họ cho
rằng, Trung Quốc thế kỷ XVIII tương tự như Vương quốc Anh thế kỷ XVIII.
Nếu Vương quốc Anh thế kỷ XVIII cần phải đầu tư 10% hoặc nhiều hơn thu
nhập của quốc gia cho nền kinh tế thì Trung Quốc thế kỷ XVIII cũng cần phải
làm như vậy để tăng trưởng kinh tế của họ có thể đạt được đến giai đoạn cất
cánh.
17
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
4. Phê bình về ý thức hệ
Quan điểm của Trường phái HĐH phục vụ cho cuộc "Chiến tranh lạnh" về ý
thức hệ nhằm che giấu sự can thiệp của Mỹ vào tình hình của các nước Thế
giới thứ 3.
Theo như Bodenheimer các nền văn hóa phát triển đã phải chịu 4 tội lỗi
nhận thức luận:
(1)Niềm tin vào khả năng của một mục tiêu khoa học xã hội, miễn
phí của hệ tư tưởng.
(2)Niềm tin vào chất lượng tích luỹ kiến thức.
(3)Niềm tin vào pháp luật phổ quát về khoa học – xã hội.
(4)Truyền bá niềm tin đến các nước Thế giới thứ 3.
“Những tội lỗi nhận thức luận đã dẫn đến sai sót của niềm tin vào sự phát
triển và liên tục gia tăng khả năng thay đổi sự ổn định trật tự, sự phát triển từ

phương Tây đến khu vực thế giới thứ 3, sự suy giảm hệ tư tưởng cách mạng
và truyền bá tư duy khoa học thực dụng” (Almond 1987, trang 445).
5. Bỏ qua vấn đề của sự chi phối của nước ngoài
Trường phái HĐH cổ điển đã lờ đi lịch sử rằng các nước Thế giới thứ 3
đã từng là thuộc địa của các nước Tây Âu.
Họ cũng không quan tâm đến sự thống trị của các tập đoàn đa quốc gia
đối với nền kinh tế của các nước Thế giới thứ 3.
Họ cũng bỏ qua sự bất bình đẳng trong thương mại quốc tế giữa các
nước Thế giới thứ 3 và các nước Tây Âu.
Thậm chí, các nhà Marxist còn cho rằng các nước Thế giới thứ 3 vẫn
đang bị các nước Tây Âu thống trị về chính trị, kinh tế, và văn hoá.
18
Lý thuyết phát triển Nhóm 3
KẾT LUẬN
Như vậy qua tìm hiểu về một số nghiên cứu về hiện đại hóa thời cổ
điển: McClelland nghiên cứu động lực đạt được mục tiêu, Inkeless về con
người hiện đại, Bellah thì nghiên cứu về tôn giáo Tokugawa ở Nhật Bản, và
Lipset Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và dân chủ. Bốn nghiên cứu cho
thấy cách thức các giả định cơ bản của quan điểm hiện đại hóa hình dạng của
tập trung nghiên cứu, các khung phân tích, và phương pháp nghiên cứu hiện
đại hóa. Bốn nghiên cứu cũng chia sẻ một khuôn khổ, hiện đại hóa tương tự.
Ngày nay xu hướng phát triển xã hội về mọi mặt theo hướng hiện đại hóa đã
và đang được thực hiện. Các nghiên cứu này cũng đã được chứng minh và
khẳng định tính đúng đắn của nó. Tuy nhiên thì nội dung các nghiên cứu là
khác nhau.Nghiên cứu nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau.
Có thể nghiên cứu này đúng với quốc gia này nhưng chưa chắc đã đúng với
các quốc gia khác. Vì vậy chúng ta phải biết lựa chọn đúng đắn những lợi ích
đó để áp dụng cho phù hợp với quốc gia mình hướng tới một xã hội văn minh,
một đất nước ngày càng hiện đại hóa.
19

×