Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

rèn phát âm tiếng việt cho học sinh lớp 1 dân tộc mông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.19 KB, 36 trang )



1


ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Tổ chuyên môn Tiểu học






SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
"RÈN PHÁT ÂM TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 1 DÂN TỘC MÔNG"






Họ và tên người thực hiện: Nguyễn Thị Lan
Chức vụ: Cán bộ chuyên môn














TÂN UYÊN, th¸ng 3 n¨m 2013



2


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn chuyên đề
Trường Tiểu học có vị trí, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục. Là nơi tổ chức các hoạt động giáo dục tạo tính tự giác
trong quá trình phát triển của trẻ. Là công trình văn hoá giáo dục bền vững,
nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ. Học sinh Tiểu học là những chủ nhân
tương lai của đất nước, mà bậc Tiểu học là những viên gạch đầu tiên đặt
nền móng để các em bước vào ngưỡng cửa của tương lai. Các kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết và tính toán là các kỹ năng cơ bản của bậc Tiểu học cần
đạt được.
Để kết quả dạy và học có chất lượng cao đối với môn Tiếng Việt,
việc đầu tiên là phải giúp học sinh Tiểu học biết đọc, nói, viết đúng tiếng
Việt từ bậc Tiểu học nhất là đối với học sinh dân tộc thiểu số. Trong đó
nói, đọc tiếng Việt (tiếng phổ thông) là kỹ năng quan trọng nhất: đọc, nói
tiếng Việt có ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học, đọc, nói tiếng Việt trở thành một
đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học; đọc, nói tiếng Việt là

công cụ để học tập các môn học, đọc, nói tiếng Việt tạo ra hứng thú và
động cơ học tập, nó là khả năng không thể thiếu của con người thời đại
công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. chính vì vậy trường học có nhiệm
vụ dạy đọc, nói tiếng Việt cho học sinh nhất là học sinh dân tộc thiểu số
một cách có kế hoạch, có hệ thống. Đây là vấn đề mà các nhà quản lý giáo
dục và các thầy, cô giáo trăn trở trong nhiều năm qua với mong muốn tìm
ra các biện pháp khắc phục hữu hiệu nhất, để đạt được mục đích giáo dục ở
bậc Tiểu học nói chung và ở môn Tiếng Việt nói riêng.
Trong năm học 2010-2011; 2011-2012 Phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện Tân Uyên đã chỉ đạo 09 trường Tiểu học trong huyện thuộc các trường
vùng khó thực hiện chuyên đề “Rèn phát âm cho học sinh lớp 1 là người dân
tộc Thiểu số” đạt hiệu quả tốt đối với học sinh dân tộc Thái, Khơ mú, Dao
nhưng với học sinh dân tộc Mông thì hiệu quả chưa cao. Trong năm học
2012-2013, ngoài một số trường dọc theo quốc lộ 32, các trường có chất lượng
đại trà tương đối ổn định thì đa số các trường có số lượng học sinh là người
dân tộc thiểu số tương đối đông trường đó dân tộc Thái chiếm đa số tỷ lệ là
75,9 %, còn lại là học sinh dân tộc Mông và một số dân tộc khác. Trong số học
sinh các dân tộc thiểu số thì học sinh dân tộc Mông phát âm tiếng Việt là khó
khăn nhất, bởi học sinh dân tộc thiểu số ngôn ngữ tiếng Việt của các em còn
nhiều hạn chế, các em đến trường học phải thường xuyên được rèn bốn kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt. Tuy nhiên hạn chế lớn là các em thường
phát âm sai, đọc lệch chuẩn tiếng Việt. Học sinh dân tộc Mông việc phát âm
của các em theo âm gió, phát âm giống như khi ta phát âm tiếng Anh, chính vì


3

vậy khi phát âm tiếng Việt các em phát âm sai và đọc lệch chuẩn trầm trọng, từ
việc đọc sai, nói sai dẫn đến việc viết sai theo đọc, nói nên khi người khác đọc
văn bản do các em viết đã hiểu sai nội dung văn bản đó.

Căn cứ vào thực tế, thực trạng phát âm tiếng Việt của học sinh lớp 1
dân tộc Mông khi học tiếng Việt và căn cứ vào văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
của Sở Giáo dục và Đào tạo Lai Châu về công tác nâng cao chất lượng
nhất là những lớp đầu cấp và việc cần thiết thực hiện rèn học sinh dân tộc
Mông đọc đúng, tôi đi sâu nghiên cứu tìm hiểu chuyên đề "Rèn phát âm
tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông” từ đó đưa ra một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc, hiệu quả học môn Tiếng Việt cho học
sinh dân tộc Mông.
II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 1, giáo viên dạy lớp 1 của 02 trường Tiểu học (Tiểu học
xã Hố Mít và Tiểu học Hô Be xã Phúc Khoa)
2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông.
III. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng và tìm ra biện pháp hữu hiệu khắc phục, giải
quyết triệt để lỗi phát âm sai tiếng Việt của học sinh lớp 1dân tộc Mông.
Từ đó góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, nâng cao
chất lượng đọc của học sinh nhất là đọc hiểu tiếng Việt, dần dần nâng cao
chất lượng môn học Tiếng Việt của 02 trường Tiểu học, góp phần đưa chất
lượng giáo dục ngày một tốt hơn. Đồng thời đổi mới quan điểm chỉ đạo
của các nhà quản lý giáo dục trong các trường Tiểu học về việc rèn đọc
phát âm đúng tiếng Việt cho học sinh là rất quan trọng nhưng với những
học sinh là người dân tộc Mông thì càng quan trọng hơn vì chỉ có ở bậc
Tiểu học các em mới được rèn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết. Các kỹ năng
này của học sinh có phát triển tốt hay không phụ thuộc vào quá trình rèn
luyện của người giáo viên tiểu học.
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
- Tìm ra được biện pháp sửa sai trong quá trình phát âm tiếng Việt
cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông, chủ yếu là nắm được quy tắc chính âm,

chính tả kết hợp với sử dụng khẩu hình để uốn nắn học sinh.
- Tính sáng tạo khắc phục được những lỗi mà học sinh thường mắc
phải để mỗi giáo viên có hướng rèn luyện, bồi dưỡng hiệu quả việc phát âm
sai tiếng Việt của học sinh dân tộc Mông khi bắt đầu bước vào lớp đầu cấp.



4

PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Cơ sở tâm sinh lí, đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học
Học sinh Tiểu học, con người với cấu tạo đầy đủ các bộ phận của
một cơ thể đang phát triển. Trong đó, cơ quan phát âm, ngôn ngữ phát triển
mạnh, phù hợp với sự tiếp nhận và thực hiện dễ dàng các hoạt động mới
theo chức năng của chúng: chức năng phát âm-tập đọc.
Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân
cách học sinh đang được hình thành, tiềm tàng khả năng phát triển và đang
phát triển.
Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò
mò, thích hoạt động, thích khám phá, thường độc lập, tự lực làm việc
theo hứng thú của mình.
Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tôn sùng nhất, mọi
điều trẻ đều nhất nhất nghe theo, sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu
học phụ thuộc phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy, cô
trong nhà trường.
Rèn phát âm cho học sinh Tiểu học bước đầu đem đến sự vận động
khoa học cho não bộ và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ đem đến những
tinh hoa văn hoá, văn học nghệ thuật trong tâm hồn trẻ, rèn kĩ năng đọc,
hiểu, cảm thụ văn học, rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành

động đúng cho trẻ, phát triển khả năng học tập các môn học khác là điều
kiện phát triển toàn diện cho học sinh Tiểu học trong giai đoạn hiện nay.
Nhân cách học sinh Tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc phụ
thuộc vào quá trình giáo dục của người thầy mà trong đó phương tiện chủ
yếu là nghe, nói, đọc, viết có được trong quá trình học tập. Dạy đọc đặc
biệt là chú trọng việc rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc
Mông, đòi hỏi người thầy phải phát âm chuẩn và có phương pháp dạy học
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học. Ngày nay với sự
phát triển tiến bộ của khoa học, xã hội, giáo dục cần đáp ứng nhu cầu ham
hiểu biết của học sinh Tiểu học và tăng cường giáo dục đạo đức, nhân
cách, rèn kỹ năng sống cho trẻ.
2. Cơ sở ngôn ngữ của việc rèn phát âm
Môn Tiếng Việt lớp 1 là một hệ thống khái niệm ngữ âm, được định
nghĩa bằng cấu trúc ngữ âm của tiếng. Ở điểm xuất phát cấu trúc ngữ âm
của tiếng là một khối liền, một thể đồng nhất (triết học gọi là thể đồng nhất
trừu tượng). Rời khỏi điểm xuất phát, tư duy đi sâu vào bên trong, nhưng
mới đạt đến mức độ thô, phân giải cấu trúc ngữ âm ra làm ba bộ phận cấu
thành: thanh-phần đầu-phần vần. Trong ba bộ phận ấy thanh thì đã rõ ràng


5

gồm 6 thanh là thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh nặng, thanh ngã,
thanh ngang (trên chữ không ghi dấu khi viết). Với hai bộ phận âm đầu
vần, còn phải tiếp tục phân giải, khi nào đến đơn vị ngữ âm nhỏ nhất (các
âm vị) thì mới dừng lại. Có thể mô tả một cấu trúc đầy đủ như sau: Hệ
thống ngữ âm của âm tiết Tiếng Việt có 5 thành phần được sắp xếp theo sơ
đồ sau:
Thanh điệu
5

Vần
Âm đầu
1
Âm đệm
2
Âm chính
3
Âm cuối
4
* Thành phần ở vị trí 1 là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm.
* Thành phần ở vị trí 2 là do âm đệm, đó là nguyên âm trong chữ viết,
được thể hiện bằng chữ o chẳng hạn (Loan); bằng chữ u (Xuân)…
* Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm
chính là hạt nhân của âm tiết.
* Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối, do các phụ âm bán nguyên âm (i,
y, u, o) đảm nhiệm.
* Các thành phần ở vị trí 2, 3, 4 ghép lại với nhau thành một bộ phận
gọi là phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí
còn lại có thể có hoặc không.
- Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc hai bậc: Bậc thứ nhất bao gồm các
thành tố của thành phần vần.
Âm tiết



Bậc 1: Thanh điệu Âm đầu Phần vần






Bậc 2: Âm đệm Âm chính Âm cuối


6

* Thanh điệu là sự thay đổi của những âm tiết: ma, má, mã đối lập với
mà, mả, mạ. Các âm tiết trước đều được phát âm với cao độ cao, các âm
tiết sau phát âm với cao độ thấp.
* Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì
những âm tiết cùng thuộc độ cao lại đối lập nhau về sự biến thiên của độ
cao, trong thời gian âm tiết “la” được phát âm với cao độ hoàn toàn bằng
phẳng; còn “lã” với đường nét biến thiên, cao độ không bằng phẳng, âm
điệu là những đường nét biến thiên về cao độ.
* Nguyên âm trong tiếng Việt được coi là âm chính, nguyên âm là khi
nói âm vị phát ra luồng hơi không có gì cản trở.
VD: Khi phát âm “a, á, â” hơi thoát ra tự do không bị cản trở ở chỗ
nào cho nên “” cũng là nguyên âm. Xét về mặt cấu tạo người ta phân chia
phân biệt nguyên âm đơn và nguyên âm đôi.
+ Nguyên âm đôi là âm vị gồm 2 nguyên âm ghép lại liền nhau. Khi
phát âm thì đọc nhanh, đọc lướt từ âm này sang âm kia đầu mạnh sau yếu
hơn, do đó âm sắc chủ yếu của các nguyên âm đôi là do âm đầu quyết định.
Có 3 nguyên âm đôi đó là: uô, ươ, iê. Xét về độ dài, cần phân biệt nguyên
âm ngắn và nguyên âm dài, nguyên âm ngắn khi phát ra không thể kéo dài,
nếu kéo dài có thể ảnh hưởng đến nghĩa.
+ Phụ âm: Các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiết tiếng
Việt bao giờ cũng là các phụ âm. Phụ âm là âm vị khi phát ra luồng hơi đi
ra bị cản ở chỗ nào đó trong bộ máy phát âm, phụ âm còn lại bị cản trở ở
môi; có loại bị cản ở răng; có loại bị cản ở lưỡi; có loại bị cản ở thanh hầu.
Về phương thức phát âm người ta chia âm phụ thành:

- Phụ âm tắc: Hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi: b, d, t,
s, k, m, p, ng.
- Phụ âm sát: Hơi đi qua kẽ hở miệng: p, v, s, z, l, x, y, h.
- Phụ âm vang: Hơi thoát ra đầu lưỡi và bên lưỡi: m, n, nh.
- Phụ âm ồn: Hơi thoát ra đường miệng có tiếng ồn: b, d, t, k, p, f, v, x,
z, y, h.
- Phụ âm hữu thanh, vô thanh trong các âm ồn: Căn cứ vào chỗ dây
thanh có rung hay không rung người ta chia ra:
+ Phụ âm hữu thanh: Dây thanh rung (d, v, y).
+ Phụ âm vô thanh: Dây thanh không rung (t, k, c, b, s, x, h).
- Về vị trí cấu âm ta phân phụ âm thành:
+ Phụ âm môi: p, b, m, f, v,
+ Phụ âm lưỡi: d, t, s, z, l, n


7

+ Phụ âm hầu: h
Trong các âm lưỡi sự đối lập nhau giữa đầu lưỡi hẹp: r, t, s, z, l, n; đầu
lưỡi quật: đ, a.
Phần vần là do thành phần của âm đệm, âm chính, âm cuối ghép với
nhau thành một bộ phận gọi là phần vần.
Ví dụ: Âm tiết Loan:
O là âm đệm
A là âm chính
N là âm cuối
Oan là phần vần.
Ngôn ngữ học đã chỉ rõ những nội dung cụ thể về các vấn đề của ngôn
ngữ như chữ viết, chính âm, chính tả, nghĩa của từ, câu, đoạn, văn bản, ngữ
điệu, nhịp điệu, tình cảm ngôn ngữ,… Đó là những vấn đề gắn bó trong

việc dạy và học Tập đọc của thầy và trò bậc Tiểu học.
Ngoài ra khi phát âm các âm tiếng Việt cũng chú trọng đến khẩu hình
như sau: Nguyên âm tiếng Việt có nhiều dạng khẩu hình rộng, hẹp khác
nhau, có nhiều nguyên âm đòi hỏi khẩu hình tròn nhiều, tròn ít hoặc tròn
to, tròn nhỏ chẳng hạn:
- Nguyên âm a-khẩu hình mở rộng hơi tròn răng cửa trên hơi lộ ra,
mặt lưỡi bằng, đầu dưới tiếp giáp nhẹ với răng hàm dưới-tính chất âm
không sắc nhọn như i, e, cũng không tối như o, u.
- Nguyên âm e -khẩu hình không rộng, răng trên hơi lộ phần lưng lưỡi
hơi nhô lên tính chất sáng sủa.
- Nguyên âm i-khẩu hình hẹp, răng trên hơi lộ càng ít hơn e, lưng lưỡi
càng tiếp cận lên phía vòm miệng trên. Tính chất sáng nhưng sắc nhọn.
- Nguyên âm o-khẩu hình tròn, nhưng không rộng bằng a, phần giữa
của môi trên nhô ra phía trước một chút tính chất âm u.
- Nguyên âm u-là khẩu hình ô thu nhỏ lại, môi thu gọn và nhô ra ngoài
như khẩu hình huýt sáo, tính chất âm u hơn o.
Trong phát âm tiếng Việt ta cũng cần lưu ý đến phương pháp nhả chữ:
Chữ tiếng Việt là hình thức đơn âm đa thanh, mỗi chữ phát ra một âm nếu
âm thanh khác ta hiểu sang một nghĩa khác.
Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông thực chất là
dạy cho học sinh biết đọc, nói đúng chính âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài,
đọc, nói đúng ngữ điệu, nhịp điệu, dần biết tư duy, tưởng tượng, hình thành
ý thức tốt đẹp trong tâm hồn và có hành động đẹp, nghĩa là học sinh biết
chuẩn ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một nghệ thuật, nghệ thuật trong lao


8

động dạy học sáng tạo của người thầy Tiểu học. Rèn phát âm phải tinh tế,
sáng tạo, hiệu quả nhưng phải gần gũi với thực tế cuộc sống của các em

chính là đã nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu của ngôn ngữ văn
học để chuyển thành văn bản viết tiếng Việt đúng, chính xác.
3. Cơ sở giáo dục và phát triển
Rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc Mông là một
phần thực hành trong các giờ học (đặc biệt là dạy học Tiếng Việt).
Nhiệm vụ quan trọng của nó là hình thành năng lực đọc, nói cho học
sinh. Năng lực đó thể hiện ở 4 yêu cầu: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý
thức (đọc hiểu) và đọc hay (đọc diễn cảm), nói đúng chuẩn. Cần phải
hiểu kĩ năng đọc, nói có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau.
Đầu tiên là giải mã chữ - âm tiếng Việt một cách sơ bộ, đọc, nói
đúng âm, vần, tiếng, từ tiếp theo đọc, nói là phải hiểu được nghĩa của từ,
tìm được các từ, câu “chìa khoá” (chốt, trọng yếu) trong bài, biết tóm tắt
nội dung của đoạn. Với những bài văn biết phát hiện ra yếu tố “văn” và
đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Như vậy, biết
đọc tiếng Việt đồng nghĩa với kĩ năng làm việc với văn bản tiếng Việt,
chiếm lĩnh được văn bản tiếng Việt ở các tầng bậc khác nhau. Người giáo
viên dạy cho học sinh học nói thông qua một số hoạt động kể lại, hỏi-đáp,
đối thoại ; học đọc thông qua các hoạt động luyện tập, phát âm, đọc theo
người lớn, đọc theo tranh có sự hướng dẫn của người lớn,
II. Thực trạng của vấn đề
1. Thực trạng của việc rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh dân
tộc thiểu số nói chung
Rèn phát âm tiếng Việt là nhiệm vụ rất quan trọng đối với giáo viên
Tiểu học. Do đó, vấn đề dạy rèn phát âm tiếng Việt hiện nay đang được
quan tâm, chú trọng. Có nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm nâng
cao chất lượng phát âm tiếng Việt, chất lượng đọc cho sinh lớp 1.
Đối với học sinh dân tộc thiểu số, tiếng Việt không phải là
ngôn ngữ duy nhất để các em tiếp thu kiến thức và nhận biết thế giới
xung quanh, các em đến trường với một ngôn ngữ hoàn toàn khác
ngôn ngữ thường sử dụng tiếng mẹ đẻ, bởi vậy tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng

nhiều đến quá trình học tiếng Việt của trẻ. Một số giáo viên chưa chú
ý đến việc rèn phát âm cho học sinh, chưa thấy được tầm quan trọng
của việc đọc đúng, đọc tốt có tác dụng cao trong quá trình dạy học và
chưa hiểu hết tầm quan trọng của môn học Tiếng Việt trong hệ thống
giáo dục quốc dân. Một số giáo viên thì đã thực hiện tuy nhiên việc
thực hiện chưa đúng cách, chưa phù hợp với thực tế dẫn đến hiệu quả
đạt được chưa cao.


9

2. Thực trạng việc rèn phát âm tiếng Việt cho HS lớp 1 dân tộc
Mông ở 02 đơn vị trường tiểu học
Kết quả khảo sát về phát âm tiếng Việt đầu năm
TT Trường
TS
HS

Giỏi


Khá

TB Yếu

1 TH Hô Be xã Phúc Khoa 45 02 08 20 15
2 Tiểu học xã Hố Mít 41 00 07 15 19
- Sau khi tiến hành khảo sát thực trạng, tổ chức hội thảo, trao đổi,
thảo luận với các giáo viên chủ nhiệm và BGH thống nhất đưa ra một số
thực trạng phát âm sai tiếng Việt ở một số lỗi cơ bản của 86 học sinh lớp 1

dân tộc Mông của hai trường như sau:
Khi học các em thường phát âm sai:
+ 73 em khi phát âm (nói, đọc) bị khuyết âm ví dụ: thuồng luồng
thường phát âm thành thuồn luồn, chín điểm thành chí đỉa
+ 39 em khi phát âm (nói, đọc) thay đổi âm cuối: xà beng biến đổi
thành xà bem, vần em lẫn sang vần eng, nhầm eo/oe, ưu/ươu, eng/anh,
ua/ươ, êch/êc,…
+ 27 em khi phát âm (nói, đọc) lẫn các thanh điệu, nhầm thanh điệu.
+ 24 em khi phát âm (nói, đọc) bị bỏ đi mất nguyên âm o, ơ, ư, e …
+ 31 em khi phát âm (nói, đọc) sai l thành đ, b thành v, t thành th
Từ kết quả trên tôi nhận thấy các nguyên nhân chủ yếu:
* Nguyên nhân về phía học sinh:
Thứ nhất khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số
học sinh dân tộc Mông chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế các em cũng
được trải qua sự chăm sóc của lớp Mầm non, nhưng vốn kiến thức ban đầu
về tiếng Việt, như những mẫu hội thoại đơn giản mang tính bắt đầu, những
kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường Mầm non đã trang bị cho các em,
vì những lý do khách quan khác nhau đã không còn theo các em bước vào
lớp1. Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây, cũng như
các em chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào
môi trường giáo dục phổ thông, tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai
của các em. Việc giao tiếp thông thường với thầy cô giáo đã khó khăn và
cũng có khi là không thể, việc nghe giảng những kiến thức về các môn học
khác nhau bằng tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em. Đến
trường, đến lớp là các em bước đến một môi trường sinh hoạt hoàn toàn xa


10

lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thường trực trong các em, làm giảm tốc độ bước

chân các em đến trường.
Thứ hai học sinh Tiểu học dân tộc Mông học tiếng Việt là học ngôn
ngữ thứ hai. Mặc dù học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối
với các em, trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng
Việt là một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong
đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt
cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên, bản năng.
Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp, người địa phương chỉ
sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì vốn kiến
thức về tiếng Việt ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ
thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi lần các cán bộ xã, huyện về chủ trì
một cuộc họp nào đó ở làng, bản, họ phát biểu bằng tiếng Việt rất khó
khăn. Thói quen này trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời
sống gia đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời
trường, rời lớp. Dần dà các em không thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay
những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp, từ đó, đã khiến cho các em
thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn, vượt khỏi môi
trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp.
Thứ ba mặc cảm của học sinh dân tộc Mông khi đến trường học tiếng
Việt. Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc Mông tại hai đơn vị trường, tôi
nhận thấy rằng, các em học sinh ở đây đã biết ý thức về nguồn gốc của
mình. Cái nghèo luôn nhắc nhở con người sống trong cảnh khốn cùng cần
hiểu sâu sắc về nguồn gốc, về điều kiện, hoàn cảnh sống của bản thân.
Nghèo đã giúp con người ta vươn lên nhưng nghèo cũng làm cho con
người luôn mặc cảm, tự ti, bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Mặc cảm số
phận đã khiến con người không thể thoát khỏi những thiếu thốn vật chất,
không thể vươn xa hơn không gian sống hiện tại. Những học sinh tiểu học
người dân tộc Mông ở đó ít có sự hồn nhiên của trẻ thơ, không chỉ có
"ngày hai buổi đến trường", các em còn phải miệt mài trên nương rẫy trỉa
lúa, trồng ngô, lo cho cuộc sống vật chất của gia đình đang chật vật, thiếu

thốn. Các em phát âm sai nhiều do tiếng mẹ đẻ với tiếng Việt phát âm
khác nhau, người dân tộc Mông khi phát âm chủ yếu là âm gió nên việc
phát âm các nguyên âm tiếng Việt thì dễ dàng, nhưng phát âm phụ âm
tiếng Việt rất khó khăn và hạn chế, từ việc đọc sai tiếng Việt các em
nói sai tiếng Việt và viết văn bản tiếng Việt cũng sai theo đọc, nói nên
khi người khác đọc văn bản tiếng Việt của các em viết sẽ hiểu sai nội
dung văn bản.
* Nguyên nhân về phía giáo viên
- Một số giáo viên chưa biết vận dụng các nguyên tắc dạy học môn
Tiếng Việt trong thực hành giảng dạy.


11

- Việc chuẩn bị bài và lập kế hoạch bài dạy chưa cụ thể, vận dụng
phương pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa đảm bảo quy trình và đặc trưng
bộ môn.
- Việc hướng dẫn học sinh sửa sai chưa kịp thời, chưa tỉ mỉ, chưa
quan tâm đến việc học tập và sử dụng tiếng phổ thông cho các em ở tại gia
đình và trong cộng đồng.
- Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị trong quá trình dạy của thầy và học
của trò chưa hiệu quả.
- Một số giáo viên chưa đầu tư về chuyên môn.
- Giáo viên chưa thật sự đầu tư vào khâu chuẩn bị bài và lập kế
hoạch bài dạy.
- Một số giáo viên chưa coi trọng việc đọc mẫu nên phát âm (đọc
mẫu) chưa đúng với chuẩn. Một số giáo viên còn phát âm theo ngôn ngữ
địa phương các vùng miền của mình nên rất khó khăn khi rèn đọc tiếng
Việt cho học sinh.
- Một số giáo viên khi dạy học còn lạm dụng việc sử dụng tiếng dân

tộc Mông quá nhiều, không đúng cách, không đảm bảo việc dạy tiếng Việt
cho học sinh dân tộc.
* Nguyên nhân về phía gia đình và Ban đại diện cha mẹ học sinh
Ít quan tâm đến việc học tập và sử dụng giao tiếp bằng tiếng phổ
thông cho các em ở tại gia đình và trong cộng đồng, do công tác tuyên
truyền về lĩnh vực này chưa sâu rộng trong Ban đại diện cha mẹ học sinh
và phụ huynh học sinh. Do thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ của người dân
địa phương, bản thân các bậc phụ huynh cũng sai những lỗi đó (đặc trưng
dân tộc).
* Nguyên nhân về công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu
- Ở các đơn vị trường việc chọn tuyển được giáo viên có năng lực
chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm, nhiệt tình trong việc rèn, dạy học sinh
lớp 1 còn gặp không ít khó khăn. Có những giáo viên có chuyên môn vững
vàng, có lòng nhiệt tình trăn trở với lớp học nhưng lại thiếu đi kinh nghiệm
dạy, rèn các kĩ năng cho học sinh…
- Các trường đều xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện chuyên môn
chưa phù hợp theo nhiệm vụ được giao trong từng năm học.
- Ban Giám hiệu các trường đã tạo điều kiện cho giáo viên giao lưu,
dự giờ, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy của các đơn vị Tiểu học
tiên tiến trong huyện xong một số giáo viên chưa thực sự nhiệt tình, chưa
tự giác, chủ động trong việc tự đi dự giờ học hỏi kinh nghiệm và phương
pháp giảng dạy.


12

- Chất lượng đọc tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số còn
chưa cao, nhất là chất lượng đọc của học sinh dân tộc Mông.
- Giáo viên tuyển mới nhiều nên chưa có nhiều kinh nghiệm
trong giảng dạy.

- Ban Giám hiệu các đơn vị trường đã quan tâm tới chất lượng giảng
dạy, nhưng chưa thực sự làm tốt công tác tuyên truyền và chưa thật sự
quan tâm chỉ đạo việc rèn phát âm, rèn đọc tiếng Việt cho học sinh lớp 1 là
dân tộc thiểu số.
- Một số ít các đồng chí quản lí chưa thực sự quan tâm đến việc tổ
chức sinh hoạt chuyên môn theo cụm, chưa tích cực tạo điều kiện cho giáo
viên đi giao lưu học hỏi về chuyên môn.
- Số lượng giáo viên mới quá đông cùng với số lượng giáo viên
nữ trong độ tuổi sinh đẻ nhiều dẫn đến việc lựa chọn giáo viên dạy lớp
1 còn gặp nhiều khó khăn.
* Nguyên nhân về phía Tổ chuyên môn
- Chưa thực sự quan tâm đến việc rèn phát âm tiếng Việt cho học
sinh dân tộc Mông dẫn đến chưa đưa vấn đề thuộc chuyên đề này vào
các buổi sinh hoạt chuyên môn.
Sau thực tế đã tiến hành phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và để
khắc phục chất lượng phát âm (đọc, nói) tiếng Việt của học sinh dân tộc
thiểu số nói chung và của học sinh lớp 1 dân tộc Mông, tôi đã mạnh dạn
trình bày hệ thống biện pháp sau.
III. Các biện pháp rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân
tộc Mông
1. Đối với Ban Giám hiệu các trường
- Tập trung tuyên truyền bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ về
phẩm chất đạo đức, về kiến thức và kỹ năng sư phạm. Tích cực xây dựng
tập thể sư phạm đoàn kết, lớn mạnh về mọi mặt. Tổ chức tuyên truyền rộng
rãi trong cộng đồng và hướng dẫn gia đình biết phối hợp hỗ trợ sử dụng
tiếng phổ thông (tiếng Việt) làm công cụ giao tiếp và sinh hoạt hàng ngày.
- Xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện chuyên môn phù hợp. Xây
dựng kế hoạch bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ đồng thời thực hiện
tốt hoạt động dạy học và sinh hoạt chuyên môn; tăng cường sự chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn kết hợp với đánh giá xếp loại giáo viên

nghiêm túc một lần/tháng. Tập trung thực hiện tốt việc đổi mới phương
pháp dạy học, ứng dụng CNTT, vận dụng kiểm tra, đánh giá xếp loại học
sinh theo đúng Thông tư 32/2009 của Bộ Giáo dục Đào tạo.


13

- Tổ chức phát động và thực hiện tốt các cuộc vận động và các
phong trào thi đua do ngành, cấp trên phát động. Đặc biệt là phong trào
xây dựng môi trường thân thiện, học sinh tích cực gắn với việc xây
dựng trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 nhất là các phong
trào thi đua đổi mới phương pháp giảng dạy, thi giáo viên dạy giỏi các
cấp nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
- Lập kế hoạch phân công dạy phù hợp, Ban Giám hiệu phải phân
công được những thầy cô có kinh nghiệm, tâm huyết theo dạy lớp 1. Có
thể nói phải vừa dạy vừa dỗ các em từ những cái sơ giản ban đầu đến
những kiến thức cơ bản của môn học.
- Tổ chức Hội nghị phụ huynh học sinh có đại biểu của chính
quyền địa phương và cấp trên tới dự, có giáo viên nòng cốt để bàn biện
pháp rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Đây là
nhiệm vụ hết sức quan trọng không riêng chỉ của nhà trường mà của cả
cộng đồng.
- Tích cực tổ chức sinh hoạt chuyên đề, hội thảo theo trường, theo
cụm trường để tìm biện pháp khắc phục tình trạng học sinh phát âm
(đọc, nói) tiếng Việt sai, ngọng như hiện nay. Tiếp tục tạo điều kiện
cho giáo viên đi học hỏi chuyên môn ở các trường khác.
2. Đối với Tổ trưởng tổ chuyên môn
- Sau khi nhận được danh sách học sinh đọc yếu, đọc sai tiếng Việt
của giáo viên báo cáo cần khẩn trương tổng hợp và báo cáo nhà trường.
- Tổ chức họp tổ để phân tích nguyên nhân, bàn và tìm biện pháp

khắc phục, sau đó đề xuất với nhà trường để được giúp đỡ.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên đề “Rèn phát âm tiếng Việt cho HS lớp 1
dân tộc Mông” và thực hành để nâng cao chất lượng đọc, nói đúng tiếng
Việt ở học sinh dân tộc Mông tại các trường có học sinh chủ yếu là người
dân tộc Mông.
- Giao trách nhiệm và thường xuyên đôn đốc, kiểm tra cách khắc
phục tình trạng học sinh đọc yếu, đọc sai ở từng lớp và báo cáo trực tiếp
lên Ban Giám hiệu nhà trường.
3. Đối với giáo viên
Từ khi học trong các trường sư phạm giáo viên đã được biết đến các
nguyên tắc dạy học môn Tiếng Việt, giáo viên phải tư duy lại nắm chắc và
nhớ kỹ các nguyên tắc dạy học môn Tiếng Việt để vận dụng giảng dạy
môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học. Các nguyên tắc đó như sau:




14

* Nguyên tắc thứ nhất: Nguyên tắc phát triển tư duy
Ngôn ngữ và tư duy của con người là hai phạm trù có mối liên hệ
mật thiết, có sự tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Ngôn ngữ là công cụ để tư
duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là tiền đề
và là điều kiện để tư duy phát triển và ngược lại. Mối quan hệ này có
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình dạy Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học.
Mục tiêu đầu tiên của việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học là góp phần hình
thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt, phát triển
tư duy cho học sinh. Điều này được thực hiện thông qua quá trình dạy
học Tiếng Việt, quá trình học sinh từng bước chiếm lĩnh tiếng Việt văn
hoá. Nói cách khác, cùng với quá trình dạy học Tiếng Việt, đồng thời ở

học sinh cũng hình thành và phát triển các thao tác tư duy, các phẩm
chất tư duy. Để phát triển tư duy gắn liền với phát triển ngôn ngữ cho
học sinh, trong dạy học Tiếng Việt, người giáo viên cần chú ý các yêu
cầu cụ thể:
- Trong mọi giờ học đều phải chú ý rèn các thao tác tư duy. Đó là các
thao tác phân tích, so sánh, khái quát, tổng hợp Đồng thời phải chú ý rèn
luyện cho các em phẩm chất tư duy nhanh, chính xác và tích cực
- Phải làm cho HS thông hiểu được ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ.
- Phải tạo điều kiện cho học sinh nắm được nội dung các vấn đề cần
nói và viết trong môi trường giao tiếp cụ thể và biết thể hiện nội dung này
bằng các phương tiện ngôn ngữ.
* Nguyên tắc thứ hai: Nguyên tắc giao tiếp ( nguyên tắc phát triển lời nói)
Hướng vào hoạt động giao tiếp là nguyên tắc đặc trưng của việc
dạy học Tiếng Việt. Để hình thành các kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ, học
sinh phải được hoạt động trong các môi trường giao tiếp cụ thể, đặc
biệt là môi trường văn hoá ứng xử. Chỉ có trong các môi trường giao
tiếp, môi trường văn hoá ứng xử, học sinh mới hiểu lời nói của người
khác, đồng thời vận dụng ngôn ngữ sáng tạo để người khác hiểu được
tư tưởng và tình cảm của các em. Bởi lẽ, ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ
với văn hóa của một dân tộc, nhất là văn hóa ứng xử. Thông qua các bài
tập thực hành đơn giản như giới thiệu về bản thân, gia đình, lớp học,
bạn bè theo mục đích nhất định, học sinh được luyện tập về các kĩ
năng ứng xử trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
Nguyên tắc này yêu cầu
- Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao
tiếp làm mục đích, tức là hướng vào hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết cho học sinh.


15


- Xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, tức là đưa
chúng vào các đơn vị lớn hơn. Ví dụ xem xét từ hoạt động trong câu như
thế nào, câu ở trong đoạn trong bài ra sao.
- Phải tổ chức hoạt động nói năng của học sinh để dạy tiếng Việt,
nghĩa là phải sử dụng giao tiếp như một phương pháp dạy học chủ đạo ở
tiểu học.
* Nguyên tắc thứ ba: Nguyên tắc chú ý tâm lí và trình độ tiếng Việt
vốn có của học sinh
Nguyên tắc này yêu cầu :
- Dạy Tiếng Việt phải chú ý đặc điểm tâm lí học sinh, đặc biệt là bước
chuyển khó khăn từ hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi sang hoạt
động học tập.
- Việc học Tiếng Việt phải dựa trên sự hiểu biết chắc chắn về trình độ
tiếng mẹ đẻ vốn có của học sinh.
Khác với học các môn học khác, học môn Tiếng Việt, học sinh tiếp
xúc với một đối tượng quen thuộc gắn bó với cuộc sống hàng ngày của các
em. Trước khi vào học ở nhà trường, học sinh đã sử dụng tiếng Việt với hai
loại hoạt động nói và nghe, các em đã có một vốn từ nhất định, làm quen
với một số quy luật tạo lập lời nói tiếng Việt một cách tự phát.
Do vậy, yêu cầu thứ nhất khi dạy học Tiếng Việt là phải chú ý đến
trình độ vốn có của học sinh từng lớp, từng vùng miền khác nhau để định
nội dung, kế hoạch và phương pháp dạy học. Yêu cầu thứ hai là phải phát
huy tính chủ động của học sinh trong giờ học Tiếng Việt. Giáo viên cần
phải tạo điều kiện để học sinh hình thành lời nói hoàn chỉnh của mình
trong các cuộc hội thoại, trong các hình thức học tập khác nhau: cá nhân,
nhóm, lớp
* Nguyên tắc thứ tư:Nguyên tắc kết hợp rèn luyện cả hai hình thức
lời nói dạng viết và dạng nói
Nói và viết là hai dạng lời nói có quan hệ chặt chẽ trong việc hoàn

thiện trình độ sử dụng ngôn ngữ của học sinh. Lời nói dạng nói là cơ sở để
hoàn thiện lời nói dạng viết. Lời nói dạng viết là điều kiện để lời nói dạng
nói phát triển. Do vậy, dạy học Tiếng Việt ở tiểu học phải chú ý rèn luyện
cả hai dạng lời nói trên.
* Nguyên tắc thứ năm: Nguyên tắc tích hợp:
Mục tiêu môn Tiếng Việt ở tiểu học có tính chất phức hợp thể hiện ở
chỗ môn Tiếng Việt vừa hình thành cho học sinh các kĩ năng sử dụng
Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói), vừa cung cấp tri thức (gồm tri thức về


16

Tiếng Việt và tri thức về khoa học tự nhiên và xã hội). Cho nên dạy Tiếng
Việt ở tiểu học phải bảo đảm nguyên tắc tích hợp.
Chương trình dạy Tiếng Việt ở tiểu học có các dạng tích hợp sau:
- Tích hợp trong nội bộ môn Tiếng Việt. Đó là sự kết hợp dạy các kĩ
năng đọc, viết, nghe, nói trong từng bài học với dạy các tri thức đơn giản về
tiếng Việt.
- Tích hợp nội dung các môn học khác vào môn Tiếng Việt thể
hiện ở: Ngữ liệu dùng trong các bài học đã góp phần cung cấp các tri
thức về tự nhiên và xã hội cho học sinh. Đồng thời, bài học của các
môn học khác cũng có ngữ liệu để dạy Tiếng Việt và được coi là những
tình huống để rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Thông qua các bài
học, thông qua việc thảo luận trong nhóm, trong lớp về nội dung những
bài học ấy, học sinh được mở rộng vốn từ, học được cách diễn đạt bằng
tiếng Việt và các quy tắc sử dụng tiếng Việt theo các phong cách chức
năng khác nhau. Học sinh có nhiều cơ hội để ứng xử bằng tiếng Việt
thích hợp với các ngữ cảnh khác nhau.
* Nguyên tắc thứ sáu: Nguyên tắc kết hợp dạy Tiếng Việt với dạy văn
hoá và văn học

Về bản chất, kết hợp dạy Tiếng Việt với dạy văn hoá và văn học là
một phương hướng tích hợp trong dạy Tiếng Việt ở tiểu học. Vận dụng
nguyên tắc này, việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học được định hướng như sau:
- Ngoài những ngữ liệu khác, ngữ liệu để dạy Tiếng Việt (các văn bản
dạy Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu ) được lựa chọn từ
những tác phẩm văn học. Trong số các bài có ngữ liệu là văn bản văn học,
tỉ lệ bài thuộc thể loại văn xuôi cao hơn các thể loại khác. Đó là các bài có
nội dung văn học, văn hoá Việt Nam và thế giới.
- Trong quá trình dạy Tiếng Việt cần từng bước cho học sinh nhận biết
cái chân, cái thiện, cái mĩ của văn học thông qua việc nhận biết giá trị thẩm
mĩ của các yếu tố ngôn ngữ trong bài văn. Những nhận biết và cảm xúc đó
sẽ là cơ sở ban đầu của việc học văn ở bậc trung học sau này của học sinh.
- Nhờ dạy Tiếng Việt tích hợp với dạy văn, học sinh được làm quen
với một số thuật ngữ (như tác phẩm, tác giả, nhân vật; thể loại tục ngữ,
câu đố, ca dao, thơ, truyện ), được rèn luyện các kĩ năng cơ bản (như kể
chuyện, tóm tắt chuyện, tìm đại ý, bố cục, nhận xét về nhân vật, về tác
giả, tác phẩm, nêu cảm nghĩ, liên tưởng, phát hiện các biện pháp tu từ,
phát hiện các chi tiết nghệ thuật ).
* Nguyên tắc thứ bảy: Nguyên tắc hướng tới những phương pháp và
hình thức dạy học tích cực
Nguyên tắc này thể hiện:


17

- Kế thừa và phát huy những phương pháp và hình thức dạy học phát
huy tính tích cực của người học đã được vận dụng trong dạy học Tiếng Việt
từ lâu nay.
- Đưa vào những yếu tố mới (những phương pháp, kĩ thuật dạy học
mới) để giúp người học phát huy được tính tích cực trong học tập.

- Tiếp thu và vận dụng một số phương pháp và hình thức dạy học tích cực
đã đạt được nhiều thành tựu ở nước ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Theo nguyên tắc này, việc dạy học Tiếng Việt phải thể hiện tinh thần
chung là hướng vào việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh. Hoạt
động học tập Tiếng Việt của học sinh được hiểu là hoạt động giao tiếp,
hoạt động trí tuệ được thể hiện ra bên ngoài bằng các hành động cụ thể có
thể quan sát được, lượng hoá được (ví dụ, hoạt động tìm tòi phát hiện kiến
thức, thảo luận, tranh luận, trò chơi học tập ).
- Về hoạt động của học sinh trong giờ học theo phương pháp mới:
+ Hoạt động giao tiếp (đặc thù của môn Tiếng Việt).
+ Hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lí thuyết (như các
môn học khác).
Các hình thức tổ chức dạy học: Học sinh làm việc độc lập, theo
nhóm, theo lớp.
- Về hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp mới:
+ Giao việc cho học sinh :
Cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi.
Cho học sinh làm mẫu một phần bài tập.
Cho học sinh tóm tắt nhiệm vụ học tập, dặn dò học sinh thực hiện bài tập.
+ Kiểm tra học sinh:
Xem học sinh có làm việc không.
Xem học sinh có hiểu công việc phải làm không.
Trả lời thắc mắc của học sinh.
+ Tổ chức báo cáo kết quả làm việc của học sinh: báo cáo với giáo viên,
trong nhóm, trước lớp (bằng miệng, bảng con, phiếu học tập, bằng giấy ).
+ Tổ chức cho học sinh đánh giá kết quả học tập của mình và của
bạn. Hình thức đánh giá có thể là: cá nhân, trong nhóm, trước lớp (giáo
viên khen, chê, cho điểm ).
Các nguyên tắc dạy học này được vận dụng dạy học môn Tiếng Việt
trong trường tiểu học, tuy nhiên khi vận dụng người giáo viên phải biết vận



18

dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo, không cứng nhắc, vận dụng phải phù
hợp đối tượng, vùng miền.
Giáo viên phải biết tiếng dân tộc thiểu số để thuận lợi trong việc giao
tiếp và giúp đỡ học sinh nhất là tiếng dân tộc Mông. Tuy nhiên trong giảng
dạy giáo viên không nên quá lạm dụng việc sử dụng tiếng dân tộc mà chỉ
sử dụng nó để làm công cụ hỗ trợ giải nghĩa tiếng, từ tiếng Việt cho học
sinh hiểu thực chất của từ tiếng Việt khi đọc, nói tiếng Việt.
Sau khi nhận lớp phải tiến hành khảo sát, đánh giá, phân loại đối
tượng học sinh, lập danh sách học sinh đọc yếu, đọc sai để tiện theo dõi và
báo cáo cấp trên.
Tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp khắc phục, rèn luyện học sinh hợp
lý, hiệu quả, đề xuất, báo cáo Tổ trưởng, nhà trường để được giúp đỡ thêm.
Lập kế hoạch và thực hiện rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh, bồi
dưỡng ngay trong các tiết học chính khóa, giờ hoạt động tập thể, ngay
cả ở nhà và chủ động gặp gỡ trao đổi với phụ huynh học sinh để thống
nhất biện pháp và phối hợp giúp đỡ học sinh.
Tích cực tự học tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng và
phương pháp giảng dạy. Tích cực tham gia các phong trào thi đua dạy tốt
nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và phương pháp giảng dạy.
Về chuyên môn giáo viên phải thực hiện tốt các khâu sau:
3.1. Khâu chuẩn bị của giáo viên
- Trong thực tế một số giáo viên khi đi công tác vẫn còn phát âm
theo phương ngữ ví dụ giáo viên miền Nam, miền Trung đi giảng dạy ở
miền bắc hoặc giáo viên vùng đồng bằng bắc bộ như ở một số nơi phát âm
âm ch/tr giống nhau, phát âm nhầm lẫn giữa l/n; ui/ôi; uyên/uên Để đạt
được năng lực tốt trong quá trình rèn phát âm tiếng Việt cho học sinh thì

giáo viên phải rèn kỹ năng đọc, khả năng phát âm tiếng Việt thật chuẩn
(theo tiếng Hà Nội chuẩn) trước khi lên lớp.
- Lập kế hoạch bài dạy phải chu đáo, nội dung phải rõ ràng chi tiết,
hình thức tổ chức phải linh hoạt, phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Đối
với mỗi bài phải có đồ dùng và thiết bị để minh họa bài dạy sao cho sinh
động dễ hiểu với học sinh nhất là các đồ dùng nhằm giải nghĩa từ tiếng
Việt bằng đồ vật.
- Trước khi soạn bài cần đọc kỹ bài nội dung giảng dạy, chuẩn bị các
trang thiết bị, đồ dùng dạy học xong mới tiến hành lên phương án giảng
dạy có như vậy những đồ dùng mới được sử dụng phù hợp có hiệu quả
trong tiết dạy. Đồ dùng phải rõ ràng, dễ quan sát, phù hợp với nội dung bài,
đảm bảo thẩm mĩ để thu hút học sinh, tránh gây phản cảm dẫn đến mất tác
dụng trong việc sử dụng đồ dùng và còn mất thời gian của tiết dạy.


19

3.2. Khâu lên lớp của giáo viên
- Giáo viên phải có tác phong sư phạm tốt, luôn thân thiện quan tâm,
gần gũi, giúp đỡ học sinh.
- Tạo nhóm học tập bằng cách phân công học sinh đọc khá, đọc giỏi
giúp đỡ học sinh đọc yếu, hay đọc sai. Tổ chức thi đua giữa các cá nhân
học sinh, giữa các tổ, nhóm, kịp thời động viên tuyên dương khi học sinh
có tiến bộ. Tích cực tổ chức hoạt động nhóm trong lớp để học sinh được
tăng cường trao đổi, giao tiếp bằng tiếng Việt tại lớp học.
- Trong giảng dạy giáo viên chú ý việc sử dụng song ngữ phải đúng
mục tiêu giảng dạy, việc quá lạm dụng sử dụng tiếng dân tộc Mông trong
tiết dạy vô tình tiết dạy tiếng Việt thành tiết dạy tiếng Mông. Giáo viên chỉ
có thể sử dụng tiếng Mông để giải nghĩa từ tiếng Việt trong khi giảng dạy
nhằm giúp học sinh hiểu rõ nghĩa của từ tiếng Việt đó.

- Giáo viên cần chú ý đến việc sử dụng đồ dùng trong tiết dạy: Sử
dụng đồ dùng phải phù hợp về góc quan sát (để ở vị trí dễ quan sát, tất cả
học sinh đều được quan sát), thời gian quan sát (không để trong thời gian
quá ngắn học sinh không kịp quan sát, cũng không để trong thời gian quá
dài học sinh sẽ không tập trung vào những việc làm tiếp theo), mục đích
quan sát.
- Giáo viên cần chú trọng hoạt động đọc mẫu (phát âm mẫu), khâu
rèn kỹ năng đọc (kỹ năng phát âm) cho học sinh trong mỗi giờ dạy Tiếng
Việt. Chú ý lắng nghe, quan sát và kịp thời hướng dẫn sửa sai cho học sinh,
vì đọc mẫu và rèn không tốt dẫn đến học sinh bắt chước đọc sai, đọc ngọng
lâu dần thành quen rất khó sửa.
- Học sinh các dân tộc khác nhau thì cách phát âm cũng khác nhau: Ví
dụ học sinh dân tộc Thái khi phát âm tiếng Việt phát âm không khác nhiều so
với dân tộc kinh; dân tộc Lào khi phát âm các âm lưỡi đều uốn cong và bật
mạnh dẫn đến các âm phát ra gần như đều có thêm dấu nặng. Riêng học sinh
dân tộc Mông khi phát âm, âm phát ra rất nhẹ, như khi ta phát âm tiếng Anh.
Vì vậy khi giáo viên dạy phát âm cần chú ý làm mẫu để học sinh quan sát
được các cơ quan phát âm bên ngoài như môi, răng, lưỡi
- Giáo viên chú ý rèn học sinh bắt đầu từ phần âm tiếng Việt nhất là
các phụ âm tiếng Việt: rèn kỹ việc phát âm khi học ở phần âm như sau:
+ Đối với các âm học sinh phát âm sai nhiều như âm: b/v, l/đ,
t/th, Thì giáo viên phải phân loại đưa về nhóm âm có đặc điểm phát
âm giống nhau, sau đó mô tả và dùng các bộ phận cấu âm để phát âm
mẫu một cách tỉ mỉ. (Ví dụ phụ âm b là phụ âm tắc: Hơi bị cản lại sau
thoát ra đường miệng vào mũi như phụ âm v lại là phụ âm hữu thanh: Dây
thanh rung) hay (phụ âm l là phụ âm sát: Hơi đi qua kẽ hở miệng, nhưng
phụ âm đ lại là phụ âm tắc: Hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào


20


mũi, dây thanh rung) hoặc (phụ âm t thì luồng hơi ra đằng mũi còn phụ âm
th thì luồng hơi sẽ ra theo miệng) Học sinh quan sát khẩu hình và thực
hành theo, giáo viên quan sát, phát hiện kết hợp sửa sai kịp thời. Phải
luyện phát âm thật kỹ nhiều lần, đúng mới thôi. Chú ý hướng dẫn học
sinh cách lấy hơi, nhấn giọng.
+ Đối với các vần học sinh phát âm sai như vần: eo/oe, ưu/ươu,
eng/anh/em, ua/ươ, êch/êc,…thì giáo viên cho học sinh phân tích kỹ
cấu tạo, đánh vần, đọc trơn thạo từng vần rồi mới so sánh sự giống và
khác nhau giữa các vần đã học, so sánh rồi rút ra cách đọc (ví dụ cụ thể
trong các bài mẫu dưới đây). Điểm mấu chốt ta có thể cho học sinh
dùng thẻ để tạo từ, dùng đồ dùng trực quan để giải nghĩa từ kết hợp với
sự hỗ trợ có hiệu quả của tiếng mẹ đẻ. Học sinh nắm vững cấu tạo vần,
tiếng, hiểu nghĩa từ kết hợp quan sát khẩu hình, luyện dần sẽ đọc đúng.
+ Tương tự, các em đọc còn nhầm lẫn chủ yếu giữa thanh ngã và
thanh sắc. Ví dụ: suy nghĩ/suy nghí; nghĩ kĩ/ nghí kí…Thì giáo viên cho
học sinh nắm vững cấu tạo, cách phát âm từng dấu, dùng thẻ tạo từ, nắm
nghĩa của từ qua đồ dùng trực quan hoặc bằng hành động trực tiếp để từ đó
phát âm đúng và tự sửa sai các dấu thanh.
Ví dụ:
ki

k + i = ki kì

kị
- Trong khi học sinh đọc, nói (phát âm) tiếng Việt giáo viên phải
quan sát từng em, phát hiện chỗ các em đọc sai để kịp thời sửa ngay và
hướng dẫn các em đọc theo tốc độ quy định, không quá chậm hoặc quá
nhanh, đọc, nói đủ to cho tất cả các bạn trong lớp nghe được, rèn tư thế
đàng hoàng, tự tin, thỏa mái khi đọc, nói tiếng Việt.

- Đối với những em đọc sai chính âm tiếng Việt, giáo viên phải
rèn luyện để học sinh đọc đúng, đọc đủ, không đọc thừa, đọc sót âm,
tiếng, từ,…Đọc với tốc độ vừa phải, giọng đọc phải phù hợp với yêu
cầu và nội dung từng bài.
- Đối với các em phát âm bị khuyết âm trong tiếng tiếng Việt chú
ý rèn khi phát âm học nghe và quan sát giáo viên đọc: khi học sinh
đọc "thuồng luồng" thường phát âm thành "thuồn luồn", "chín điểm"
thành "chí đỉa" học sinh đọc, nói sai vì khi phát âm các tiếng thuồn
luồn, chí đỉa luồng hơi đi ra không bị chặn các em phát âm sai do


21

không làm được một trong ba yếu tố sau: một là đặt đúng của các vị trí
của các cơ quan phát âm tham gia tạo nên tiếng đó, hai là tạo luồng
hơi chính xác, ba là phối hợp được đặt vị trí đúng và đẩy hơi để phát
tiếng. Nếu phát âm đúng "thuồng luồng" và "chín điểm" hơi sẽ bị chặn
lại ở một vị trí trong khoang miệng, vì vậy khi hướng dẫn giáo viên
cần nắm chắc cách phát âm của các tiếng đó để hướng dẫn học sinh
nắm về cách phát âm học sinh quan sát kĩ khi giáo viên phát âm, vị trí
các cơ quan phát âm và phối hợp giữa các cơ quan đó.
* Một số tiết dạy minh họa

Tiết 111 - 112: Học vần

Bài 56:
uông- ương

I. Mục đích yêu cầu:
- Học sinh đọc được uông, ương, quả chuông, con đường ; từ và câu ứng dụng

- Học sinh viết được : uông, ương, quả chuông, con đường.
- Học sinh khá giỏi đọc trơn được cả bài.
- Học sinh yếu đọc đánh vần cả bài
- Luyện nói từ 2-4 câu theo chủ đề: Đồng ruộng.
- Giáo dục học sinh có ý thức học bài
II. Đồ dùng dạy học
.
* Giáo viên: - Tranh (Hoặc vật thật) quả chuông, con đường.
* Học sinh: Bộ đồ dùng Tiếng việt thực hành
* Dự kiến hình thức tổ chức: Cá nhân, dãy, lớp
III. Các hoạt động dạy và học.

Tiết 1
A. Kiểm tra bài cũ.
- Nhận xét cho điểm
B. Bài mới:

1. Giới thiệu bài- ghi bảng
2. Dạy vần: * uông.
a.Nhận diện vần.

- Hướng dẫn học sinh đọc trơn vần
uông: Giáo viên đọc mẫu, khi đọc vần
uông luồng hơi thoát ra tự do không bị
chặn bởi một bộ phận nào trong
- Học sinh đọc bài eng, iêng
- Viết bảng con, bảng lớp: xà
beng, củ riềng

- Học sinh đọc uông cá nhân, cả

lớp.

- Học sinh quan sát giáo viên làm
mẫu sau đó thực hiện theo: học
sinh đọc cá nhân, đồng thanh:
uông


22

khoang miệng, môi tròn, mở, lưỡi
thẳng. Trong lúc học sinh đọc giáo
viên quan sát, hướng dẫn và uốn nắn tỉ
mỉ cho những em bị sai, cho các em
được đọc lại nhiều lần.
- Vần uông tạo bởi mấy âm?
- Hướng dẫn học sinh gài vần uông
- Hướng dẫn học sinh phân tích vần
uông.
- So sánh vần uông và vần uôn. (giáo
viên nhắc lại cách phát âm vần uôn và
so sánh cách phát âm của vần uông)
? Muốn có tiếng chuông thêm âm gì
* Từ: Hướng dẫn học sinh quan sát
tranh và nêu từ: quả chuông
*Tổng hợp: đọc mẫu
*Vần ương (tương tự vần uông)
- So sánh uông, ương
- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện
đọc tổng hợp

b. Từ ứng dụng

- Giáo viên ghi bảng từ ứng dụng:
rau muống nhà trường
luống cày nương rẫy
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc
trơn các từ và giải nghĩa từ (một số từ
giáo viên có thể sử dụng tiếng dân tộc
Mông để giải nghĩa
- Hướng dẫn học sinh phân tích tiếng
mới và luyện đọc, khi luyện đọc giáo
viên lưu ý hướng dẫn kỹ các tiếng ,từ
có chứa vần uông, ương so sánh kỹ về
cấu tạo và cách đọc với các tiếng, từ
có chứa vần uôn, ươn.
-Sửa phát âm cho học sinh
c.Viết:




- Vần uông được tạo bởi hai âm:
uô+ng
- Học sinh gài uông đọc cá nhân,
lớp
- Đánh vần cá nhân, tổ, lớp
- Học sinh gài tiếng: chuông và
đọc
- Phân tích cấu tạo tiếng và đọc
đánh vần, Đọc trơn cá nhân,

nhóm, lớp.
- Học sinh nêu từ và gài từ. Đọc cá
nhân, cả lớp, phân tích từ, đọc lại
- Đọc cá nhân, nhóm, lớp.
- uông : uô + ng
- ương: ươ + ng
- Học sinh đọc cá nhân, nhóm, lớp.

- Học sinh đọc thầm
- 3 học sinh đọc, tìm tiếng mới và
phân tích.
- Luyện đọc cá nhân, nhóm, lớp.
- Học sinh đọc trơn các từ cá nhân,
nhóm, lớp










23

- Giáo viên hướng dẫn học sinh viết
- Viết mẫu và hướng dẫn qui trình.

- GV bao quát học sinh viết.

* Củng cố tiết 1.
- Đọc lại bài
Tiết 2:
3. Lụyện tập
a. Luyện đọc bài T1.
- Giáo viên nghe và sửa sai phát âm
cho học sinh
* Luyện đọc câu ứng dụng
- Hướng dẫn học sinh quan sát tranh
nêu câu ứng dụng
- Hướng dẫn học sinh luyện đọc
- Sửa sai phát âm cho học sinh sửa
như phần hướng dẫn vần, tiếng.
b. Luyện nói:

- Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu
chủ đề luyện nói
- Treo tranh và hỏi
- Tranh vẽ gì ?
- Những ai trồng lúa, ngô, khoai, sắn.
- Ngoài ra bác nông dân còn làm
những gì ?
- Nhà em ở nông thôn hay thành phố?
c. Luyện đọc bài sách giáo khoa:

- Hướng dẫn học sinh đọc toàn bài.
- Học sinh khá, giỏi đọc trơn cả bài
- Học sinh yếu đọc đánh vần cả bài
d. Luyện viết:


- Hướng dẫn học sinh nêu yêu cầu và
tư thế ngồi viết

- Học sinh viết -báo cáo kết quả


- Học sinh đọc lại bài cá nhân,
nhóm, lớp.


- Học sinh luyện đọc vần, từ ứng
dụng. Cá nhân, nhóm, lớp.

- Quan sát tranh nêu câu ứng
dụng, 3 học sinh đọc
- Tìm và phân tích tiếng mới
- Luyện đọc cá nhân, nhóm, lớp.


- Học sinh quan sát tranh nêu chủ
đề: đồng ruộng
- Cảnh cấy, cầy trên đồng ruộng
- Bác nông dân
- Gieo mạ, tát nước, làm cỏ.
- Học sinh trả lời
- Học sinh nghe và tự sửa câu cho
nhau.

- Học sinh đọc cá nhân, nhóm, lớp.





- Học sinh nêu tư thế ngồi viết bài

- Học sinh viết vở tập viết


24

- Giáo viên bao quát học sinh viết bài

*Trò chơi : Thi tìm tiếng mới
- Giáo viên học sinh tìm và gài tiếng
trên bảng phụ, giáo viên chọn những
tiếng học gài có nghĩa để viết lên bảng
và giải nghĩa một số từ.

- Học sinh gài bảng các tiếng mới
- Học sinh đọc lại các từ vừa gài:
Cá nhân, nhóm, lớp.
4. Củng cố - dặn dò:
- Đọc lại toàn bài
- Nhận xét giờ học
- Về nhà đọc bài và chuẩn bị bài sau


_________________________*****_______________________
Tiết 13-14: Tập đọc
Bài 7: LŨY TRE

A. Mục đích yêu cầu
:
- Học sinh:
+ Đọc trơn cả bài, phát âm được tiếng, từ khó trong bài.
+ Ôn vần : iêng, yêng
+ Hiểu được nội dung của bài.
+ Học thuộc lòng bài thơ.
B. Đồ dùng
:
-Tranh minh hoạ bài học, viết sẵn bài lên bảng.
C. Hoạt động dạy học
:
TG

Hoạt động dạy Hoạt động học

5’



35’
2’
20’
TIẾT 1
I. Bài cũ
:
- Đọc bài" Hồ Gươm và trả lời câu
hỏi 1 ở sách giáo khoa.
- Nhận xét, ghi điểm.
II. Bài mới:


1. Giới thiệu bài:
2. Hướng dẫn luyện đọc:


2 học sinh lên bảng đọc bài và trả
lời câu hỏi.






25




























13’




a. Đọc mẫu:
Đọc toàn bài ở bảng (1 lượt):
Chậm rãi, nhẹ nhàng.
Chia câu bài thơ.
b.Hướng dẫn luyện đọc :
Hướng dẫn học sinh cách đọc
+ Luyện đọc từ khó:
Nêu yêu cầu tìm từ khó
Gạch chân từ khó trong bài
+ Giải thích từ khó:
- Gọng vó (Vật làm bằng tre để
móc vó vào kéo khi đánh cá). Với
các từ mà học sinh dễ lẫn giáo viên
cần phân tích kỹ cách đọc, đọc mẫu

để học sinh quan sát khẩu hình và
luyện tập theo, giáo viên quan sát và
sửa chữa tỉ mỉ)
+ Luyện đọc câu. (Khi học sinh
đọc câu nếu học sinh độc sai từ,
tiếng nào thì giáo viên cho học sinh
dừng lại hướng dẫn cách đọc và
chỉnh sửa luôn)
+ Luyện đọc theo khổ thơ.
Theo dõi sửa sai, nhận xét.
+ Đọc toàn bài.

Nhận xét.

3. Ôn vần iêng yêng

+Tìm tiếng trong bài có vần: iêng
Gạch chân tiếng HS tìm được.
Vần cần ôn là : iêng, yêng (giáo
viên hướng dẫn học sinh cách đọc
vần iêng, yêng; so sánh với iên, yên
về cấu tạo, cách đọc).
Theo dõi bài ở bảng.





Nêu từ khó theo yêu cầu.
Luyện đọc từ khó (cá nhân) nối

tiếp, vài học sinh một từ.
Đọc lại toàn bộ các từ khó (cá
nhân, cả lớp)
Học sinh theo câu (nối tiếp) cho
đến hết bài.







Học sinh đọc theo khổ thơ.
1 học sinh đọc lại toàn bài.
Nhận xét
Cả lớp đọc đồng thanh toàn bài.


Tìm nhanh (nêu miệng)

Đọc lại vần, so sánh vần.
3 tổ thi đua tìm tiếng.
Nhận xét.

×