Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Giáo dục kỉ năng sống vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT nguyễn thị lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.73 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI- TP SẦM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG –
VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN THỊ LỢI

Người thực hiện: Trịnh Thị Bích Hằng
Chức vụ: Tổ phó CM tổ Văn - GDCD
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

THANH HOÁ, NĂM 2019
1


MỤC LỤC

ST
T

NỘI DUNG

SỐ TRANG

1

1. MỞ ĐẦU


3

2

1.1. Lí do chọn đề tài.

3

3

1.2. Mục đích nghiên cứu.

4

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

4

5

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

5

6

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


5

7

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

5

8

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm.

7

9

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

10

10

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

21

11

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


22

12

3.1. Kết luận

22

13

3.2. Kiến nghị

23

1. Mở đầu
2


1.1 Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp giáo dục, mục tiêu cơ bản là đào tạo con người mới phát
triển toàn diện. Người giáo viên không chỉ trang bị cho mình kiến thức vững vàng,
chuyên môn giỏi mà đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực tổ chức, điều khiển
mọi hoạt động của lớp chủ nhiệm. Tôi nhận thấy rằng vai trò của giáo viên chủ
nhiệm là rất cần thiết và quan trọng, bởi chỉ có giáo viên chủ nhiệm mới có khả
năng không chỉ đơn thuần quản lý học sinh mà phải biết phối hợp với các giáo viên
bộ môn , ban quản lý học sinh trong nhà trường, các tổ chức đoàn thể, hội cha mẹ
học sinh để quản lý theo dõi việc học tập, tinh thần thực hiện nội quy của nhà
trường cũng như việc rèn luyện đạo đức của các em. Nhằm xây dựng lớp học thành
một tập thể đoàn kết, tích cực trong mọi hoạt động, mang tính chất giáo dục toàn

diện, phát huy khả năng tự quản, tự giác của học sinh. Đặc biệt phải giúp học sinh
có khả năng thích ứng và tích cực giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả với những
đòi hỏi và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Nhất là trong tình hình hiện nay đất
nước đang chuyển mình vào xu thế hội nhập toàn cầu, nhà trường cũng đang tiến
đến mục tiêu trường chuẩn quốc gia và khẳng định thương hiệu trong tương lai, đổi
mới phương pháp đào tạo nhằm phát huy tính tích cực trong học tập cũng như hoạt
động của học sinh là một trong các phương hướng cải cách giáo dục nhằm tạo ra
những con người lao động sáng tạo, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước.
Song song với việc “dạy chữ” cho các em, chúng ta cần hết sức quan tâm
đến việc “dạy người”. Vì đây là sự nghiệp giáo dục của toàn Đảng, toàn dân mà
trong đó ngành sư phạm giữ vai trò then chốt. Tuy nhiên trong tình hình hiện nay
một bộ phận không nhỏ học sinh THPT chưa ý thức được mục đích của việc học
cũng như thái độ ứng xử trong giao tiếp với gia đình, nhà trường và xã hội. Cho
nên vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường là trách nhiệm của
tất cả Thầy Cô giáo, đặc biệt là người giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Trong
công tác chủ nhiệm lớp vẫn còn đâu đó có những giáo viên chủ nhiệm lớp quá dễ
dãi, buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm với lớp, với chức năng được giao, để
3


cho học sinh tự do hư đốn, hoặc một số giáo viên chủ nhiệm lớp có tính tình nóng
nảy, thô bạo xử lý tình huống chưa mô phạm, chưa tế nhị linh hoạt dẫn đến có
những học sinh có những lời lẽ thiếu tôn trọng đối với thầy (cô) giáo chủ nhiệm của
mình.
Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi đang còn hình thành những
giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá, song còn
thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích
động vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỷ, lai căng, thực dụng dễ
bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các hiện
tượng vi phạm, sa sút về đạo đức của một bộ phận học sinh trung học phổ thông

trong thời gian vừa qua như: Bạo lực học đường, ăn chơi xa đọa, du nhập các loại
văn hóa phẩm đồi trụy thông qua phương tiện, phim ảnh, game, mạng intenet…làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học tập, đến những quan điểm sống, quan điểm
về tình bạn, tình yêu.Vì vậy mục tiêu của nhà trường đề ra không chỉ trang bị cho
học sinh một hành trang vững chắc về tri thức trên các lĩnh vực về khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội, mà còn giúp các em hình thành một số kĩ năng cơ bản để
thích nghi được với cuộc sống bên ngoài khi các em bước ra khỏi ngôi trường thân
yêu. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng sống – vai trò của giáo
viên chủ nhiệm ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi”
1.2 Mục đích nghiên cứu đề tài
Qua việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng công tác giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh ở trường trung học phổ thông và các khóa chủ nhiện trước,
tôi vận dụng giáo dục kỹ năng sống nhằm nâng cao kỹ năng sống cho học sinh lớp
chủ nhiệm 10H (năm học 2017 -2018) nay là lớp 11H(năm học 2018 -2019)Trường
trung học phổ thông Nguyễn Thị Lợi – Thành phố Sầm Sơn.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về: Giáo dục kỹ năng sống- vai trò của giáo viên
chủ nhiệm ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi
4


1.4 Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm tôi đã vận dụng kết hợp
một số phương pháp như: Phương pháp quan sát, điều tra xã hội học, phương pháp
phân tích tổng hợp, đánh giá.
Thời gian nghiên cứu: 2 năm
2. Nội dung
2.1

Cơ sở lý luận

Giáo dục kỹ năng sống là đề tài không mới. Hiện nay, trên thế giới đã đưa

giáo dục kỹ năng sống vào dạy cho học sinh các trường trung học phổ thông dưới
những hình thức khác nhau.
Khái niệm về kỹ năng và kỹ năng sống
-

Kỹ năng: là năng lực để chúng ta làm một việc gì đó. Kỹ năng không tồn tại

độc lập. Nó là một hình thái của tư duy, của khái niệm. Hình thành khái niệm phải
đi đến kỹ năng. Khi khái niệm được chiếm lĩnh ( chuyển vào trong người học) thì
chúng được biểu hiện ra bên ngoài bằng kỹ năng.
-

Kỹ năng sống: Hiện nay có rất nhiều khái niệm và cách tiếp cận khái niệm

kỹ năng sống.
+ Theo từ điển Wikipedia: “ Kỹ năng sống là tập hợp các kỹ năng của con người có
được qua việc học hoặc trải nghiệm trực tiếp trong cuộc sống dùng để giải quyết
những vấn đề mà con người thường phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày”
+ Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO): kỹ năng sống là “ khả năng có hành vi thích
ứng và tích cực giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả với những đòi hỏi và thách
thức của cuộc sống hàng ngày”
Tuy nhiên, có thể tiếp cận khái niệm kỹ năng sống qua 4 trụ cột của giáo dục
theo UNESCO: Học để biết (learning to know) gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy
phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu
quả…, học để khẳng định bản thân (learning to be) gồm các kỹ năng như: ứng phó
với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…, học để chung sống
5



(learning to live together) gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự
khẳng định, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông…, học để làm việc
(learning to do) gồm các kỹ năng như thực hiện công việc và nhiệm vụ, kỹ năng đặt
mục tiêu, đảm bảo trách nhiệm…
Ở bài nghiên cứu này tôi chỉ thực hiện một phần nhỏ kỹ năng sống (life
skills) là khả năng làm chủ bản thân ở mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với
người khác, với xã hội và khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc
sống. Có thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức
thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.
Vai trò của giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục kỹ năng sống lớp
chủ nhiệm trong thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay:
- Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành chủ yếu cung cấp kiến thức cho
học sinh. Chương trình như vậy được xây dựng theo hướng tiếp cận nội dung dạy
học. Giáo dục kết hợp kỹ năng sống được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực,
tức là xuất phát từ các năng lực mà mỗi học sinh cần có trong cuộc sống và kết quả
cuối cùng phải đạt các năng lực ấy đó là học sinh phải thể hiện được, làm được,
biết vận dụng những kiến thức để giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống,
…Vì thế, việc học tập theo hướng tiếp cận này trở nên gần gũi và thiết thực đối với
cá nhân và cộng đồng.
- Theo đó, nội dung, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá
đều phải hướng tới năng lực tự học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong
học tập, trong cuộc sống; coi trọng rèn luyện kỹ năng sống.
- Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức một số hoạt động
hướng tới việc rèn luyện năng lực cho học sinh như: Tổ chức Chương trình đánh
giá học sinh quốc tế PISA với cách đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức vào giải
quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống; tổ chức cuộc thi vận dụng kiến thức
liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễn; triển khai phương pháp “Bàn tay nặn bột”,
là phương pháp dạy học khoa học được tiến hành dưới sự giúp đỡ của giáo viên,
6



chính học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông
qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình
thành kiến thức cho mình.
- Ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi, GVCN là người có vai trò rất quan trọng
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Mục tiêu giáo dục đang chuyển
hướng từ trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó
cũng khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu cần thiết đưa giáo dục kỹ năng
sống vào trường học với các môn học và các hoạt động giáo dục.
2.2 Thực trạng về công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT ở trường
THPT Nguyễn Thị Lợi hiện nay
Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh và kỹ năng sống của học sinh:
- Theo Điều 2 của luật Giáo dục năm 2005, mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẫm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, nội dung và phương
pháp giáo dục của nhà trường hiện nay còn xem trọng việc “dạy chữ”, chưa quan
tâm đúng mức đến “dạy người”, nhất là việc giáo dục kỹ năng sống và “dạy nghề”
cho học sinh.
- Trong thực tế, khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung dạy học trên
lớp, giáo viên đều phải xây dựng 3 mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ
năng, hình thành thái độ. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và
giáo viên đều nhận thức sâu sắc yêu cầu này.Tuy nhiên, có thể nói rằng do phải
chạy theo thời gian, phải chuyển tải nhiều nội dung và không phải bài học nào cũng
có thể tích hợp dạy kỹ năng sống cho học sinh, nhất là kỹ năng ứng xử với xã hội,
ứng phó hòa nhập với cuộc sống, nên hầu như thực tế trong giờ học chính khóa của
rất nhiều môn không hề dạy tích hợp được kỹ năng sống. Những hạn chế trên ở
7



giáo viên bộ môn thì giáo viên chủ nhiệm lại có lợi thế, có nhiều thời gian tìm hiểu,
quan tâm kịp thời những vấn đề xảy ra trong tâm lí và ứng xử của học sinh.
- Giáo dục kỹ năng sống không bố trí thành một môn học riêng biệt trong hệ
thống các môn học của nhà trường phổ thông bởi kỹ năng sống phải được giáo dục
ở mọi nơi, mọi lúc khi có điều kiện và cơ hội phù hợp. Giáo viên bộ môn ở một số
môn có thể tích hợp kỹ năng sống trong môn học của mình song không thể tham
gia và bao quát các hoạt động của học sinh như giáo dục ngoài giờ lên lớp, qua hoạt
động trải nghiệm, giáo dục bảo vệ môi trường, phòng chống ma túy, giáo dục pháp
luật, sức khỏe sinh sản vị thành niên…Điều này giáo viên chủ nhiệm, nhất là giáo
viên dạy môn có nhiều tiết như môn Ngữ văn ( 4 tiết / tuần) có nhiều cơ hội và điều
kiện để triển khai giáo dục kỹ năng sống.
- Thực trạng kỹ năng sống của học sinh ở trường trung học phổ thông vẫn
còn nhiều hạn chế và nhiều khiếm khuyết cho dù giáo dục kỹ năng sống đã được
quan tâm hơn. Tình trạng học sinh thiếu kỹ năng sống vẫn xảy ra, biểu hiện qua
hành vi ứng xử không phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với các tình huống
trong cuộc sống như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi công cộng; thiếu lễ
độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý thức bảo vệ môi trường,
giữ gìn vệ sinh công cộng, gây phiền hà cho người khác khi sử dụng điện thoại di
động, còn hút thuốc, uống rượu, chửi thề nói tục…hoặc mâu thuẫn dẫn đến bạo lực
học đường.
Nguyên nhân của thực trạng trên
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân: Cả khách quan và chủ quan
Thứ nhất: Ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống chưa được nhận
thức một cách đúng mức trong một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên. Giáo viên
nghiên cứu “Module 35 giáo dục kỹ năng sống” cho học sinh mới chỉ nằm ở sổ bồi
dưỡng thường xuyên mà chưa ứng dụng vào thực tế. Khi thực hiện giáo dục kỹ
năng sống, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng( chưa có nhiều tài liệu cho
giáo viên và học sinh, tiêu chí đánh giá chưa cụ thể…). Tổ chức giáo dục kỹ năng

8


sống có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục khác, nội dung giáo
dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số hoạt động khác
( hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,…) cho nên phải tính đến cơ sở vật chất,
kinh phí để thực hiện.
Thứ hai: Do đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh THPT đặc biệt mới vào lớp
10, đây là tâm sinh lý của lứa tuổi dậy thì, tình cảm của các em chưa bền vững,
không ổn định. Ở lứa tuổi mà cha ông ta xưa từng nói đó là “lứa tuổi ăn chưa no,
nghĩ chưa tới”, nên khả năng làm chủ bản thân còn yếu, trước những tác động tiêu
cực từ môi trường bên ngoài, nên dễ nghe theo lời xúi dục của bạn bè xấu ở ngoài
trường rủ rê đi chơi, trộm cắp vặt, xem những phim ảnh thiếu lành mạnh, chạy theo
lối sống buông thả, lười học tập, nghiệm game, thích uống rượu…
Thứ ba: Một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, suốt ngày họ chỉ lo làm để
kiếm sống hoặc bỏ đi làm ăn xa, gửi con lại cho ông bà đã già. Nhưng cũng có một
số gia đình khá giả, nuông chiều con đáp ứng vô điều kiện mọi nhu cầu vật chất mà
ít quan tâm đến đời sống tinh thần của con cái hoặc là thiếu hiểu biết về tâm sinh lý
lứa tuổi, thiếu kiến thức về giáo dục và chăm sóc con. Không đầu tư đúng cách cho
tương lai con em của mình như cho con tham gia những khóa học kỹ năng sống.
Ngoài ra cũng có gia đình cha mẹ sống không gương mẫu, cha mẹ ly hôn, hay
buông lỏng sự giáo dục con, phó mặc cho xã hội, cho nhà trường, tự nó cũng lớn
cũng sống hết theo kiểu “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”…
Thứ tư: Những hạn chế tác động xấu từ môi trường thời kỳ “Mở cửa hội nhập
những tư tưởng văn hóa xấu, ngoại lai, mặt trái của cơ chế thị trường…có cơ hội
xâm nhập, len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ảnh hưởng không tốt đến
học sinh. Đặc biệt là trường THPT Nguyễn thị lợi lại là một địa điểm du lịch với
rất nhiều vấn đề phức tạp. Các tệ nạn xã hội có lúc đã xâm nhập vào học đường,
học sinh mùa hè có thể kiếm được đồng tiền dễ dàng. Biết kiếm tiền, cũng biết tiêu
tiền nên tình trạng một số học sinh lún sâu vào tệ nạn xã hội, dẫn đến bị suy thoái

về đạo đức, vi phạm pháp luật, số này tuy không phổ biến nhưng có xu hướng gia
9


tăng, làm băng hoại đạo đức, tha hóa nhân cách, gây nỗi đau, đáng lo ngại cho các
bậc cha mẹ, cho nhà trường và xã hội.
Thứ năm: Nhà trường chưa quy mô trong việc phân loại đối tượng trình độ hiểu
biết xã hội của học sinh để tổ chức các khóa học giáo dục kỹ năng sống. Bên cạnh
đó, một số ít giáo viên bộ môn chỉ chú trọng việc cung cấp kiến thức cho học sinh
mà chưa chú trọng việc hình thành một số kỹ năng cơ bản, coi nhẹ việc giáo dục kỹ
năng sống học sinh. Trong quá trình vận dụng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
còn thiếu về mặt nội dung, chưa phù hợp về mặt phương pháp, hình thức tổ chức
còn nghèo nàn, khô khan, nhiều khi còn mang tính khiên cưỡng, nên chưa tạo được
sự hứng thú với học sinh, vì thế hiệu quả công tác tích hợp giáo dục kỹ năng sống
chưa cao.
Từ thực trạng đó cho thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp
chủ nhiệm nói riêng và cho thế hệ trẻ nói chung trong giai đoạn hiện nay là vấn
đề cấp thiết không chỉ với Trường trung học phổ thông Nguyễn Thị Lợi mà đối
với cả sự nghiệp giáo dục.
2.3.Giải pháp để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường
THPT Nguyễn Thị Lợi.
Xuất phát từ thực trạng trên, trong năm học 2018 – 2019 bản thân tôi được
nhà trường phân công chủ nhiệm tiếp lớp 11H. Chủ nhiệm theo lớp đã 2 năm với
nhiều năm kinh nghiệm làm giáo viên chủ nhiệm tôi rất trăn trở về vấn đề này.
Như trên đã trình bày, ở bài nghiên cứu này tôi chỉ thực hiện một phần nhỏ kỹ năng
sống (life skills) là khả năng làm chủ bản thân ở mỗi người, khả năng ứng xử phù
hợp với người khác, với xã hội và khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống
của cuộc sống. Ngay từ những buổi đầu tiếp nhận lớp chủ nhiệm tôi đã chú ý nắm
bắt hoàn cảnh gia đình, tính cách, tâm lý của từng em để từ đó trong công tác giảng
dạy bộ môn cũng như trong công tác chủ nhiệm, tôi đã rất chú trọng đến việc tích

hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua bài dạy Ngữ văn và tất cả những hoạt
10


động của lớp chủ nhiệm. Tôi lập ra kế hoạch thực hiện chung cho tất cả các hoạt
động liên quan đến học sinh lớp chủ nhiệm như sau:
Mục đích của hoạt động:
- Kích thích học sinh tìm hiểu cách giải quyết một vấn đề, một tình huống phát sinh
trong nhiệm vụ mới của học sinh: hoạt động Đoàn thanh niên chào mừng các ngày
20/11,26/3, lao động theo công văn của Thành phố, các cuộc thi như thi HS giỏi
cấp trường, cấp tỉnh, thi học kì.
- Giới thiệu kế hoạch, quy định mới của nhà trường, của các tổ chức đoàn thể trong
nhà trường thông qua việc tạo cầu nối liên kết giữa cái đã biết về nội quy trường
học, thi cử…với cái mới.
- Xử lí các tình huống phát sinh như đánh nhau, mất đoàn kết, học tập giảm sút
nghiêm trọng…
- Tạo cơ hội cho HS vận dụng vốn hiểu biết của mình, kỹ năng vốn có để giải quyết
tình huống. Điều chỉnh những hành vi còn sai lệch, chưa chuẩn mực.
- Hướng dẫn học sinh thực hiện đúng cách, tích cực, có ý nghĩa.
- Tạo cơ hội cho học sinh được thể hiện kỹ năng mà mình học được trong tình
huống mới.
Mô tả quá trình thực hiện
Mô tả quá trình thực hiện
- GV phân công nhiệm vụ phù hợp với - HS lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ
năng lực học sinh ->triển khai kế hoạch ->HS trình bày ý tưởng, kế hoạch và
mới của nhà trường -> lấy ý kiến về việc biện pháp thực hiện nhiệm vụ được giao
thực hiện kế hoạch mới của học sinh -> -> Học sinh chỉnh sửa bằng các trải
hướng dẫn học sinh thực hiện -> kiểm nghiệm và tư vấn giúp đỡ -> Đưa ra
tra việc thực hiện của học sinh -> phân được kế hoạch và biện pháp thực hiện
tích ưu, nhược điểm -> hướng học sinh nhiệm vụ của học sinh tối ưu.

thực hiện theo hướng tích cực.
- HS làm theo nhóm hoặc cá nhân để
- GV phân công nhiệm vụ, chuẩn bị hoạt hoàn thành nhiệm vụ.
động mà theo đó HS phải sử dụng kỹ - Khuyến khích HS thể hiện những điều
năng, hành vi đúng để thực hiện-> giám mà các em suy nghĩ và mới học được.
sát mọi hoạt động, điều chỉnh khi cần - HS làm theo nhóm hoặc cá nhân để
-> phân công nhiệm vụ, chuẩn bị hoạt hoàn thành nhiệm vụ.
động mà theo đó HS phải sử dụng kỹ
năng, hành vi đúng để thực hiện.
Vai trò của GV
Vai trò của HS
- GVCN đóng vai trò khởi động, đưa ra - HS hưởng ứng, chia sẻ,trao đổi, xử lí
các tình huống, nêu vấn đề, ghi nhận, thông tin, ghi chép. Biện pháp chính:
cầu nối...
+ Tư vấn tâm lí.
+ Xử lí những cảm xúc gây cản trở việc
học.
+ Sử dụng kĩ năng mời gọi trẻ hợp tác.
11


+ Cùng nhau giải quyết vấn đề.
- GVCN đóng vai trò là người chỉ đạo - HS là người phản hồi, trình bày ý kiến,
hoặc quan tòa, luật sư…
quan điểm, giải thích về hành vi của
mình…
- GV đóng vai trò là người chỉ đạo, - HS là người thực hiện.
hướng dẫn, hỗ trợ.
Phương pháp thực hiện:
+ Thảo luận nhóm.

+ Hoạt động độc lập của HS.
+ Vấn đáp – gợi mở.
2.3.1.Trong giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tiết sinh hoạt lớp, tiết hoạt động ngoài
giờ lên lớp, các buổi lao động công ích, các tiết hướng nghiệp:
Giáo viên chủ nhiệm dựa vào các bước mình đã lập để giải quyết các tình
huống có vấn đề. Cụ thể hoạt động của chi Đoàn, của Đoàn trường và các tổ chức
khác. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp là người
khởi sướng và cũng là người thấy được rõ nhất sự chuyển biến hành vi theo hướng
tích cực của học sinh. Kỹ năng sống thường gắn với một bối cảnh để học sinh có
thể hiểu và thực hiện một cách cụ thể, đi liền với một tình huống sư phạm mà giáo
viên chủ nhiệm lớp là người tham gia cùng với học sinh giải quyết vấn đề để từ đó
học sinh hình thành được kỹ năng sống cho mình. Đây là con đường dễ tiếp cận mà
mau thích nghi nhất. Vì có thể trong giờ học chính khóa học sinh chưa dám bộc lộ
sở thích tài năng, thiên hướng thực sự của mình thì ngoài giờ lên lớp và các hoạt
động của Đoàn lại là một môi trường hấp dẫn để các em tự tin bộc lộ. Điều này
giáo viên chủ nhiệm nào cũng có thể nhận thấy, đặc biệt là ở nhóm học sinh chưa
thực sự ham học.
- Căn cứ vào kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp của Nhà trường và Đoàn
trường, giáo viên chủ nhiệm phải xác định mục tiêu và hướng đi cho các hoạt động
này. Hoạt động ngoài giờ lên lớp có 3 nhiệm vụ rất rõ ràng đó là củng cố tăng
cường nhận thức; bồi dưỡng thái độ, tình cảm và hình thành hệ thống kỹ năng,
hành vi. Nắm được những nhiệm vụ này sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm có biện pháp
12


phù hợp. Với khẩu hiệu “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” để tổ
chức rèn kỹ năng sống cho học sinh.
- Khi học sinh mới bước vào nhà trường tuần đầu tiên giáo viên chủ nhiệm
cho học sinh nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử truyền thống của nhà trường, tìm hiểu
về người nữ anh hùng Nguyễn Thị Lợi mà nhà trường được vinh dự, tự hào mang

tên.Tìm hiểu về tiểu sử, quá trình hoạt động và chiến công của bà.
- Ở những tuần tiếp theo, giáo viên chủ nhiệm cho học sinh thông qua nội qui
học sinh và nhiệm vụ học sinh. Nắm được những qui tắc ứng xử học sinh nên
không nên làm. Tích hợp dạy kỹ năng sống cho học sinh phải biết kính thầy, mến
bạn, có thái độ tình cảm đúng đắn với ông bà, cha mẹ, người thân, đối với quê
hương, đất nước.
- Qua hoạt động của lớp: mở quỹ tiết kiệm cứ buổi sinh hoạt lớp cả học sinh
và giáo viên tiết kiệm ít nhất từ 5.000 trở lên. Quỹ này sẽ sử dụng nhân đạo từ thiện
những trường hợp cần hoặc khi tết đến xuân về giáo viên chủ nhiệm và học sinh
mua quà đến thăm những gia đình có hoàn cảnh khó khăn trong dịp tết. Tặng sách,
dụng cụ học tập cho những học sinh có ý thức vươn lên trong học tập và tu dưỡng
đạo đức. Quyên góp tiền ủng hộ cho đồng bào vùng lũ, chia khó vùng cao. Mua
tăm ủng hộ người mù. Những việc làm chia sẻ, đồng cảm đó có tác dụng định

13


hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của học sinh một cách tích cực.

Lớp 11H – Tham gia hoạt động tết vì bạn nghèo – nạn nhân chất độc da cam
- Giáo dục truyền thống, lòng tự hào, cội nguồn dân tộc cho học sinh nhân
những ngày lễ lớn của đất nước để các em không quên công ơn của cha anh những
người đã đổ máu hy sinh tuổi trẻ của mình cho đất nước như ngày 03/02, ngày
30/04, ngày 27/07…Tổ chức thăm hỏi những gia đình có công với Cách mạng. Đặc
biệt trường không chỉ được mang tên nữ anh hùng liệt sĩ Nguyễn Thị Lợi mà còn
có tượng đài uy nghi trong trường, chăm sóc bồn hoa cây cảnh dưới chân tượng đài
cũng là thể hiện sự tri ân đối với những người đi trước. Hiểu được lịch sử truyền
thống của nhà trường, hiểu được chiến công của nữ anh hùng điệp báo Nguyễn Thị
Lợi để phấn đấu tu dưỡng trở thành con ngoan trò giỏi. Trở thành con người có ích
cho xã hội

14


Lớp 11H cùng với toàn trường thắp hương tưởng niệm
nhân ngày thương binh liệt sỹ 27/07
- Giáo dục học sinh bằng lao động qua việc vệ sinh lớp học, trường học tạo
một môi trường giáo dục xanh, sạch, đẹp. Hằng năm cứ đến tháng tư hoặc những
dịp đặc biệt của Thành phố, Thành đoàn tổ chức cho học sinh các trường trên địa
bàn tham gia lao động công ích dọn dẹp bãi biển để chào đón một mùa du lịch mới.
Vệ sinh công cộng nơi địa phương mà học sinh cư trú. Đặc biệt trang trí và vệ sinh
lớp học. Lớp phó lao động có nhiệm vụ cắt cử theo bàn theo tổ dọn vệ sinh sạch sẽ
để không khí được trong lành ngoài ra hình thành ý thức giữ vệ sinh chung, bỏ rác
đúng nơi quy định. Trang trí trên lớp nội quy nhà trường, câu khẩu hiệu và những
hình ảnh thân thiện, tích cực.
- Một vấn đề nóng mà xã hội đang rất quan và bức xúc là tình trạng bạo lực
học đường trong các trường học. Để học sinh có thể tránh và ngăn chặn kịp thời
vấn đề có thể xảy ra giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu thêm một số tài liệu có liên quan,
để ý đến thái độ, hành vi, tình cảm của các em. Trong giờ sinh hoạt lớp cung cấp
cho học sinh những kiến thức cần thiết như nguyên nhân dẫn đến bạo lực học
đường ( từ bản thân, gia đình, nhà trường, xã hội), các hình thức bạo lực học đường
(vật chất, thể chất, tâm lý, tình cảm, tình dục), các cấp độ bạo lực học đường ( bị
bạo lực 1 lần – bị bạo lực nhiều lần – bầu không khí bạo lực – khủng bố). Từ đó
15


dạy cho học sinh kỹ năng quản lý cảm xúc tiêu cực, kỹ năng tạo thiện cảm trong
giao tiếp ứng xử, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn hiệu quả. Có thể phát phiếu để học
sinh trả lời các câu hỏi:
+ Làm sao để nhận biết hành vi bạo lực học đường?
+ Hậu quả của bạo lực học đường đối với cả những người chứng kiến?

+ Bạn làm gì khi bị người khác đối xử bạo lực trong học đường?
+ Cần làm gì để không bị đối xử bạo lực?
+ Khi chứng kiến các hành vi bạo lực, bạn có thể liên hệ với những cơ quan
( tổ chức) nào?
- GVCN có thể tổ chức 1 tiết phát phiếu theo chủ đề để học sinh tự trả lời
câu hỏi và phát biểu trước lớp. Ví dụ như chủ đề “ Cách kiềm chế cảm xúc” Giáo
viên phải làm cho học sinh hiểu được trong cuộc sống hiện tại bộn bề lo toan, bận
bịu, nhiều em cảm thấy luôn ẩn chứa bức xúc, nóng giận mà nhiều khi dẫn đến
những hành vi tổn thương cho người khác và cho chính bản thân mình. Bởi những
hành vi bốc đồng, khả năng tập trung và cưỡng lại ham muốn nhất thời cũng như sự
chấp nhặt, tức giận, bất ổn… Khi học sinh nhận thức và kiểm soát được cảm xúc
của mình, các em có thể suy nghĩ rõ ràng và sáng tạo, quản lý sự căng thẳng, tạo
nên tự tin và dễ dàng giao tiếp tốt với người khác. Nhưng nếu không kiềm chế cảm
xúc, bạn sẽ nhầm lẫn, cô lập và nghi ngờ. Làm thế nào để kiềm chế được sự tức
giận, các em suy nghĩ, thảo luận và đưa ra lời giải tốt hơn cho cuộc sống

->

Học

sinh lần lượt đưa ra ý kiến của mình trước tập thể vừa thể hiện khả năng thuyết
trình tự tin trước đám đông, vừa thể hiện kỹ năng nhận thức, đánh giá bản thân và
đánh giá người khác. Sau đó GVCN sẽ hướng dẫn cho học sinh tổng hợp và chốt
lại cách kiềm chế cảm xúc để học sinh có thể ứng dụng vào các tình huống khác
nhau đó là:
+ Nghĩ đến trách nhiệm bản thân.
+Tránh suy nghĩ tiêu cực.
+ Tập trung vào vấn đề cần giải quyết hơn là tranh cãi.
16



+ Không giữ thù hận hay ác cảm.
+Không gửi thư, nhắn tin, bình luận trên mạnh xã hội trong cơn giận giữ.
+ Viết ra giấy những gì tốt đẹp.
+Học cách đối mặt với khó khăn.
+ Bình tĩnh trong mọi tình huống.
+ Học cách nhìn nhận lại.
+ Học cách giải tỏa cảm xúc.
- Theo chủ đề hàng tháng của nhà trường đề ra, giáo viên chủ nhiệm động
viên cho học sinh tham gia các hoạt động văn nghệ, báo tường, thể dục thể thao.
Những hoạt động này học sinh rất tích cực. Qua đó tạo điều kiện tốt để bồi dưỡng
thái độ tích cực của các em đối với bản thân, bạn bè, công việc. Biết hợp tác làm
việc, biết trình bày ý kiến của mình, biết đoàn kết vì một mục tiêu chung…

Lớp 11H – Tham gia văn nghệ trong cuộc thi “Khi tôi 18”
Kỹ năng sống của học sinh chỉ có thể được hình thành thông qua hoạt động
học tập cũng như các hoạt động giáo dục khác trong và ngoài nhà trường mà giáo
viên chủ nhiệm có thể tư vấn hoặc cùng tham gia như:
17


- Bằng nhiều hoạt động trải nghiệm đa dạng, phong phú như: hoạt động văn
hóa, nghệ thuật; hoạt động xã hội, hoạt động ngoại khóa; hoạt động tiếp cận khoa
học – kĩ thuật; hoạt động tham quan, dã ngoại.
- Qua các hoạt động Đoàn do Thành Đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh tổ chức và giới thiệu như: Chương trình “ Học làm người có ích”, Chương
trình “ Một ngày để sống – sống có niềm tin”, “ Một ngày để sống – sống biết tiết
kiệm”, Chương trình “ Tết vì bạn nghèo, nạn nhân chất độc màu da cam”, Chương
trình “ Vượt qua nỗi sợ hãi”, Chương trình “ Khi tôi 18”, Chương trình “ Học kì
quan đội” v.v…

2.3.2.Trong sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và giáo viên bộ môn.
Với nhà trường( Ban giám hiệu) Tham mưu thường xuyên cho Ban giám
hiệu để chỉ đạo tổ chức những buổi giáo dục kỹ năng sống phù hợp. Trình và xin
tham quan giã ngoại, kinh phí tổ chức. Trong những trường hợp cần thiết xin ý kiến
chỉ đạo, trợ giúp.
Với phụ huynh: Thường xuyên gặp gỡ và trao đổi cùng phụ huynh bằng
nhiều hình thức như gặp trực tiếp, liên lạc qua điện thoại hoặc đến thăm nhà học
sinh để thông báo mức độ học tập, tu dưỡng đạo đức, khả năng hiểu biết thích nghi,
ứng xử của học sinh để bồi dưỡng, uốn nắn và khắc phục kịp thời những biểu hiện
sai lệch. Nhưng cũng cần lưu ý rằng phải giao tiếp ở góc độ cởi mở, tâm lý, tế nhị
nhưng chân tình, tránh sự dồn dập gay gắt. Có như vậy giáo viên chủ nhiệm mới
tạo được cho phụ huynh sự tin tưởng và tận tâm hợp tác để giáo dục con em tốt
hơn.
Với giáo viên bộ môn: Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với các giáo viên
giảng dạy bộ môn ở lớp để nắm bắt tình hình của lớp mình chủ nhiệm, những khả
năng đặc biệt, thiên hướng phát triển để định hướng phát triển hoặc những biểu
hiện chưa tốt của các em học sinh để có những biện pháp giáo dục, uốn nắn kịp
thời. Ngăn chặn những tình trạng đáng tiếc có thể xảy ra.
2.3.3.Trong giảng dạy bộ môn Ngữ văn:
18


Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào môn Ngữ văn đặc biệt là những tiết
đọc hiểu văn bản và những bài nghị luận xã hội. Môn Ngữ văn là một môn khoa
học xã hội và nhân văn, môn học không chỉ cung cấp những tri thức về xã hội,
văn hóa, lịch sử, đời sống nội tâm của con người mà còn giúp học sinh có năng
lực giao tiếp, nhận thức về xã hội, con người, bồi dưỡng năng lực tư duy, làm
giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân
cách.
-Đối với các tiết đọc – hiểu văn bản vì thời gian có hạn nên phần lồng

ghép kỹ năng sống thường không nhiều và người giáo viên không có hoặc rất ít
thời gian để lắng nghe những phản hồi từ phía học sinh và kịp thời uốn nắn, hình
thành những kỹ năng tích cực nhưng giáo viên có thể giúp học sinh nhận thức, tư
duy theo hướng tích cực.
Ví dụ:
+ Tiết 10 – 11 theo PPCT khi đọc hiểu văn bản “ Truyện An Dương Vương
và Mị Châu – Trọng Thủy” học sinh tự nhận thức về tinh thần cảnh giác, biết đặt
lợi ích quốc gia lên trên tình riêng, thấy được mối quan hệ giữa cá nhân và cộng
đồng được gửi gắm qua truyền thuyết.
+ Tiết 20 – 21 theo PPCT qua tác phẩm “ Tấm Cám” học sinh nhận thức,
xác định giá trị của cái tốt, cái thiện và có ý thức đấu tranh bảo vệ cái tốt, cái
thiện, chống lại cái ác, cái xấu của cuộc sống.
+ Tiết 38 theo PPCT với bài “ Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm tư duy
sáng tạo được thể hiện qua việc hoạt động nhóm ở cuối giờ: Các em có thể phát
biểu về lối sống đẹp qua bài thơ “ Nhàn”? Bàn về lối sống của Nguyễn Bỉnh
Khiêm qua bài thơ? Đưa ra cách sống phù hợp đối với mỗi người trong cuộc
sống hiện nay? Điều này giúp rất nhiều cho học sinh trong định hướng suy nghĩ
và giải quyết vấn đề một cách thuận lợi.
-Trong khi đó các giờ học làm văn do đặc thù của phân môn, giáo viên có
nhiều thời gian để hình thành cho học sinh kỹ năng làm văn, kỹ năng sống. Đặc
19


biệt là các giờ học làm văn nghị luận xã hội thường gợi nhiều hứng thú, hấp dẫn
với học sinh bởi các em có thể trình bày quan điểm, những suy nghĩ riêng của cá
nhân mình. Người giáo viên qua đó có thể nắm bắt được suy nghĩ, quan điểm
của học sinh, từ đó hướng các em đến một lối sống tốt, có ý nghĩa…
Ví dụ: giáo viên cho học sinh suy nghĩ, viết và trình bày một số đề nghị luận
xã hội có thể tích hợp kỹ năng sống như sau:
+ “Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn” ( Một khúc ca – Tố Hữu )

+ Suy nghĩ của anh/ chị về đạo lí “ Uống nước nhớ nguồn”
+ Anh/ chị suy nghĩ như thế nào về câu nói “ Đời phải trải qua giông tố
nhưng không được cúi đầu trước giông tố” ( Trích nhật ký Đặng Thùy Trâm)
+ Tuổi trẻ học đường phải làm gì để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
+ Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do Unesco đề xướng “
Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”
+ Nhà văn Nga Lep Tôn-xtôi nói “ Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không
có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng
kiên định thì không có cuộc sống”. Anh/ chị hãy nêu suy nghĩ của riêng mình về
vai trò của lý tưởng.
Những tiết nghị luận xã hội này học sinh rất tích cực phát biểu ý kiến cá nhân của
mình, không chỉ hiểu biết hơn về xã hội mà còn tự tin trình bày ý kiến trước tập
thể. Vì vậy giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua các tiết học làm văn nghị
luận xã hội có thể phát huy được tính tích cực, những giá trị tốt đẹp và đánh thức
tiềm năng con người ở mỗi học sinh.
2.3.4.Đặc biệt giáo viên chủ nhiệm vừa là người thầy, vừa là người bạn lớn, vừa
gần gũi, vừa nghiêm khắc, vừa có lí, vừa có tình …
Biết lắng nghe: Giáo viên chủ nhiệm luôn giữ mối quan hệ gần gũi, thân
thiết với học sinh, đặc biệt là với học sinh có những biểu hiện thu mình, không bộc
bạch tâm sự hoặc có nhiều tâm sự. Hãy khuyến khích các em nói ra những điều
20


mình suy nghĩ bằng nhiều cách khác nhau “Lắng nghe và thấu hiểu” là điều mà các
em học sinh mới vào lớp 10 rất cần ở giáo viên chủ nhiệm.
Biết quan tâm: Giáo viên chủ nhiệm quan tâm đến học sinh bằng cách trò
chuyện, hỏi thăm hoàn cảnh gia đình học sinh, từ đó tạo nên được sự thân mật, cởi
mở giữa học sinh với giáo viên chủ nhiệm, thông qua đó giáo viên chủ nhiệm cũng
sẽ nắm bắt được hoàn cảnh sống của từng em để từ đó có những biện pháp giáo dục
với từng em cho phù hợp.

Là “Người bạn lớn”: Giáo viên chủ nhiệm hãy là “người bạn lớn” của học
sinh, điều này làm cho học sinh đang còn rụt rè thấy mình không hề “bị bỏ rơi”,
tình cảm thầy trò được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho những tâm sự, chia
sẻ khi đó những lời động viên, những định hướng của giáo viên chủ nhiệm sẽ đạt
hiệu quả cao.
Nghiêm khắc: Giáo viên chủ nhiệm tỏ ra nghiêm khắc với tất cả học sinh
trong lớp, tôn trọng học sinh, xử lý mọi việc công bằng cho dù là cán bộ lớp hay
học sinh chưa ngoan vi phạm. Như thế học sinh chưa ngoan sẽ cảm thấy giáo viên
chủ nhiệm đều tôn trọng mọi học sinh, không thiên vị, không hề “ghét bỏ” mình.
Vui tính: Ngoài những điều trên, giáo viên chủ nhiệm cần phải có óc khôi
hài, luôn vui vẻ, cởi mở với học sinh, kể cả với những học sinh có biểu hiện chưa
tích cực về nhiều mặt. Điều này giúp cho học sinh có cảm giác dễ gần với giáo
viên, dễ sẻ chia tâm sự, mối quan hệ giữa thầy, trò tránh được sự căng thẳng.
Đặt chữ “tâm” lên hàng đầu: Người giáo viên được xem lã “kỹ sư tâm
hồn”. Chính cái tâm của người giáo viên chủ nhiệm sẽ giúp cho họ có đủ kiên nhẫn
để thực hiện hết trách nhiệm của mình. Đó là năng lực để cảm hóa học sinh. Việc
dùng nhân cách để giáo dục nhân cách chính là việc người thầy dùng nhân cách của
mình để tác động vào học sinh, dạy cho học sinh những kinh nghiệm sống của
mình.
2.4 Những kết quả đạt được.
Năm học 2017 – 2018
21


Lớp



Học lực


số
Giỏi

10H

40

Khá

Hạnh kiểm

TB
SL

Yếu

SL

%

SL %

%

0

0

22 55,0 18 45,0


Tốt

SL % SL
0

Khá

%

SL

TB

%

0 30 75,0 10 25,0

Yếu

SL

%

SL

%

0

0


0

0

-Thi học sinh giỏi các môn văn hóa cấp tỉnh năm học 2017- 2018 trường
THPT Nguyễn Thị Lợi có 5 giải ( 1 giải 3, 4 giải KK), trong đó học sinh lớp 10 H
đạt 2 giải ( 1 giải 3 và 1 giải KK).
- Lớp đạt danh hiệu: lớp tiến tiến
Năm học 2018 – 2019
Lớp



Học lực

số
Giỏi

11H

40

Khá

SL

%

SL


%

1

2,5

34 85,0

Hạnh kiểm
TB

SL
5

%

Yếu
SL %

12,5 0

0

Tốt
SL

%

Khá

SL

35 87,5 5

TB

Yếu

%

SL

%

SL

%

12,5

0

0

0

0

-Thi học sinh giỏi các môn văn hóa cấp tỉnh năm học 2018- 2019 trường
THPT Nguyễn Thị Lợi có 7 giải (2 giải nhì, 2 giải 3, 3 giải KK), trong đó học sinh

lớp 11 H đạt 4 giải ( 1 giải nhì, 1 giải 3 và 2 giải KK)
-Học sinh tham gia biểu diễn văn nghệ quần chúng Tỉnh 2019 được Thành
đoàn tặng 8 giấy khen.
-Cả hai năm học không có trường hợp vi phạm an toàn giao thông, mâu
thuẫn đánh nhau trong lớp trong trường hoặc những tình trạng đáng tiếc xảy ra.
- Lớp đạt danh hiệu: lớp tiến tiến xuất sắc.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1 Kết luận.
-Thế giới đang có những thay đổi mạnh mẽ trên mọi mặt và tác động đến
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, một số chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng
xử, quy tắc ứng xử cũng phải thay đổi theo.
22


-Lứa tuổi học sinh là giai đoạn hình thành những giá trị nhân cách. Đặc biệt
là học sinh cấp III, các em giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, muốn khám
phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, thiếu kinh nghiệm sống nên dễ bị lôi
kéo, kích động hoặc dễ học theo, bắt chước một số thói hư tật xấu du nhập từ thế
giới bên ngoài, từ mạng Internet…
- Sống trong xã hội phát triển, với xu thế toàn cầu hóa, con người cần phải
sớm được trang bị những kỹ năng cần thiết để hòa nhập với cộng đồng. Dạy kỹ
năng sống lại càng cần thiết đối với thế hệ trẻ vì các em là những chủ nhân tương
lai của đất nước. Giáo dục kỹ năng sống góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh.
Kỹ năng sống tốt sẽ giúp học sinh vững vàng đối diện với mọi hoàn cảnh, là chìa
khóa để các em mở ra cánh cửa thành công. Vai trò rất lớn không thể thiếu bóng
dáng của GVCN lớp, mặc dù giáo dục kỹ năng sống đòi hỏi một quá trình lâu dài
và liên tục.
3.2

Kiến nghị.


- Đối với Bộ giáo dục và đào tạo: Có những tài liệu thiết thực để giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh trong trường trung học phổ thông. Chỉ đạo viết các
chuyên đề mang tính ứng dụng để giáo viên các trường học hỏi.
- Đối với sở Giáo dục và đào tạo: Cần tổ chức thêm nhiều lớp tập huấn về
công tác chủ nhiệm cho giáo viên.
- Đối với nhà trường và các tổ chức đoàn thể: Thực hiện cuộc vận động
“Dân chủ - kỷ cương – tình thương – trách nhiệm” để mỗi thầy cô giáo tự hoàn
thiện mình, xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, để học sinh nhìn
nhận, đánh giá người thầy với thái độ “trọng thầy vì đạo đức của thầy”, “phục thầy
vì kiến thức của thầy”, “quý mến thầy vì lòng độ lượng của thầy”.
- Trong quá trình giảng dạy cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh, để tận
tình giúp đỡ các em tiếp thu tốt nhất kiến thức của mình truyền đạt. Tích cực
nâng cao chất lượng giờ dạy, chú trọng yêu cầu hiệu quả việc lồng ghép nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong tất cả các môn học, giờ học.
23


- Tăng cường vai trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc tổ
chức thực hiện “Nếp sống kỷ cương, các phong trào thi đua trong học tập, sinh
hoạt, các hoạt động nội, ngoại khóa, các hoạt động đền ơn, uống nước nhớ nguồn”.
- Tôi thiết nghĩ, các biện pháp trên đây nếu được kết hợp thực hiện đồng bộ
sẽ tạo ra được sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong
quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Trên đây là một số giải pháp mà tôi
đã thực hiện trong công tác quản lý và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở lớp tôi
chủ nhiệm, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự đóng
góp ý kiến của các đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệp của tôi ngày càng
được hoàn thiện hơn.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị


Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình không sao chép nội dung của
người khác
Người viết

Trịnh Thị Bích Hằng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

24


STT
1
2

3

Tên tài liệu tham khảo
Tác giả Joseph Pred - Kỹ năng đối diện nguy hiểm - Biên dịch Nguyễn
Lê Hoài Nguyên- NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh
Tác giả Nguyễn Khánh Phương – Rèn kỹ năng sống cho học sinh –
NXB Đại học Sư phạm
PGS TS. Huỳnh Văn Sơn (chủ biên), Nguyễn Thanh Huân, Nguyễn
Hoàng Xuân Huy, Nguyễn Thị Bích Thảo, Giang Thiên Vũ – Cẩm
nang phòng chống bạo lực học đường – NXB Giáo dục Việt Nam

25



×