Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn xây dựng- sử dụng bài giảng và bài tập theo hướng phân hoá nêu vấn đề để nâng cao hiệu quả giảng dạy bài khái quát về nhóm halogen hoá học 10 thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.64 KB, 27 trang )

I. MỞ ĐẦU
I.1. Lí do chọn đề tài
Nước ta đang trên con đường đổi mới toàn diện xây dựng một đất nước công
nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ từ một nước
nông nghiệp về cơ bản trở thành nước công nghiệp,nông nghiệp hiện đại và hội
nhập với cộng đồng quốc tế. Để đạt được mục tiêu trên thì nhân tố tri thức khoa
học kỹ thuật của con người là nhân tố quyết định hàng đầu của viêc đổi mới đất
nước . Điều này đặt ra những yêu cầu mới của hệ thống giáo dục nước ta hiện
nay là - “Xây dựng mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình , phương pháp giáo
dục và đào tạo”
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế đó thì việc đổi mới nội dung và phương
pháp giáo dục là một việc làm mang tính cấp thiết, để đạt được hai mục tiêu cơ
bản: Một là phải phát huy được tính tích cực trong học tập, hình thành , phát
triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong học tập cũng như trong đời
sống của học sinh. Hai là xuất phát từ yêu cầu xã hội hoá giáo dục là phải thực
hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả học sinh, đồng thời khuyến khích
phát triển tối đa năng lực phát huy tốt nhất sở trường của mỗi cá nhân học sinh.
Muốn đạt được các mục tiêu đó, trong quá trình dạy học phải lựa chọn phương
pháp phù hợp với nội dung dạy học cho từng đối tượng học sinh vùng ,miền và
đối tượng học sinh giỏi ,khá,trung bình và yếu kém nhằm tích cực hoá nhận
thức hình thành năng lực giải quyết vấn đề và năng lực hoạt động sáng tạo cho
mỗi đối tượng học sinh.
Các mục đích đó sẽ đạt được nếu áp dụng một cách khoa học phương pháp
dạy học phân hoá nêu vấn đề. Đây là một hình thức dạy học kết hợp hai phương
pháp dạy học là dạy học phân hoá và dạy học nêu vấn đề. Trong đó, dạy học nêu
vấn đề đáp ứng được mục tiêu thứ nhất, còn dạy học phân hoá nhằm đáp ứng
được mục tiêu thứ hai.
Trong cùng một lớp học khả năng nhận thức của từng học sinh là khác
nhau.Vì vậy việc truyền thụ kiến thức ở các mức độ cho từng đối tượng cho học
1
sinh của giáo viên là vấn đề rất quan trọng. Đây là lí do mà tôi lựa chọn đề tài: “


xây dựng - sử dụng bài giảng và bài tập theo hướng phân hoá – nêu vấn đề
để nâng cao hiệu quả giảng dạy bài Khái quát về nhóm halogen Hoá học lớp
10 THPT”
I.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “ xây dựng bài giảng và bài tập theo hướng phân hoá – nêu
vấn bài Khái quát về nhóm halogen hoá học 10. Qua đó làm tăng hướng thú tự
tin và nâng cao chất lượng dạy và học hoá học ở trường THPT.
I.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Nghiên cứu cơ sở lí luận và quy trình giảng dạy phân hoá nêu vấn đề trong
dạy học ở trường THPT.
2. Nghiên cứu nội dung cấu trúc chương trình hoá học THPT, chương trình hoá
học 10 THPT.
3. Xây dựng hệ thống bài giảng và bài tập theo hướng phân hoá nêu vấn đề phần
phi kim Hoá học lớp 10 THPT nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy và
học.
4. Thực tập sư phạm nhằm kiểm tra, đánh giá hiệu quả và tính khả thi của đề tài
I.4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
I.4.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình dạy học hoá học ở trường THPT.
I.4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân hoá nêu vấn đề trong giảng dạy và
học tập phần halogen Hoá học lớp 10 THPT.
I.5. Phạm vi nghiên cứu
Xây dựng hệ thống bài giảng và bài tập theo hướng phân hoá nêu vấn đề
Khái quát về nhóm halogen Hoá học lớp 10 THPT
I.6. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận về nhận thức và tính tích cực nhận thức.
2
- Nghiên cứu nội dung các chương hoá học vô cơ lớp 10 ban cơ bản
- Điều tra thực tiễn: điều tra cơ bản về năng lực tư duy của học sinh.

- Trao đổi kinh nghiệm với giáo viên hoá học trong và ngoài tỉnh.
-Xây dựng hệ thống bài giảng và bài tập theo hướng phân hoá nêu vấn đề
phần phi kim Hoá học lớp 10 THPT cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy.
- Thực nghiệm sư phạm và xử lí kết quả.
I.7. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng hệ thống bài giảng và bài tập phân hoá nêu vấn đề đảm bảo
tính khoa học, lôgic về nội dung và cấu trúc, phù hợp với từng đối tượng học
sinh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học Hoá học nói chung, phần phi kim
Hoá học lớp 10 THPT nói riêng
II. NỘI DUNG
II.1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ DẠY HỌC PHÂN HOÁ -NÊU VẤN ĐỀ
II.1.1 Dạy học phân hoá
II.1.1.1 Khái niệm:
Dạy học phân hoá xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa sự thống nhất
và sự phân hoá, tức là thể hiện sự kết hợp giữa hoạt động “đại trà” với giáo dục
“mũi nhọn” giữa “phổ cập” với “nâng cao” trong dạy học ở trường phổ thông
và nó được tiến hành theo tư tưởng chủ đạo sau:
a) Lấy trình độ phát triển chung của học sinh làm nền tảng. Nội dung và phương
pháp trước hết phải phù hợp với trình độ và điều kiện chung của từng đối tượng
học sinh.
b) Sử dụng những biện pháp phân hoá giúp học sinh yếu kém vươn lên trình độ
chung, khích lệ được các học sinh khá giỏi có khả năng tìm tòi phát hiện một số
vấn đề cụ thể. Các cách dạy học này dựa vào “vùng phát triển gần nhất” của
học sinh tức là chỉ cần gợi ý nhỏ là học sinh có thể giải được bài toán tương đối
khó khăn hơn so với sức của học sinh.
3
c) Đưa ra nội dung bổ sung và biện pháp phân hoá nhằm giúp học sinh khá giỏi
đạt đựợc những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những yêu cầu cơ bản
đặt ra từ mục tiêu của bài học.

Như vậy, dạy học phân hoá vừa đảm bảo tính vừa sức và khuyến khích học
sinh phát huy tối đa trí lực vốn có của mỗi cá nhân khi vượt qua chướng ngại
nhận thức. Nếu vấn đề đưa ra quá khó thì học sinh sẽ thấy không hứng thú, lúc
bấy giờ học tập như là một chướng ngại khó khắc phục, học sinh sẽ không được
đặt vào tình huống có vấn đề nên không thấy sự hấp dẫn lôi cuốn khi tìm kiếm,
phát hiện nhanh kiến thức . Ngược lại vấn đề đưa ra quá dễ sẽ gây cho học sinh
sự nhàm chán, không kích thích tư duy tích cực của học sinh. Đây là một nguyên
tắc quan trọng mà giáo viên cần phải hết sức lưu ý trong quá trình dạy học theo xu
hướng đổi mới nhằm khơi gợi, kích thích, đòi hỏi người nghiên cứu suy nghĩ,
tìm tòi và phát huy đến mức cao nhất.
II.1.1.2 Các phương pháp phân hoá
Quan điểm xuất phát
Trong một lớp học, một khối học cũng vậy có nhiều học sinh với những
đặc điểm giống nhau ví dụ như lứa tuổi, trình độ phát triển tâm sinh lý tương đối
đồng đều… sự thống nhất này là cơ bản, nhờ đó ta mới có thể dạy học cùng một
chương trình. Tuy nhiên vẫn có nhiều em trình độ nhận thức cao hơn nhiều so
với các bạn cùng lứa do đó việc áp dụng phương pháp dạy học phân hoá có tác
dụng rất lớn. Trong thực tiễn có thể có hai phương pháp phân hoá chính áp
dụng cho việc giảng dạy ở trường phổ thông là:
- Phân hoá trong cùng một lớp học.
- Phân hoá trong cùng một khối học (lớp chọn) hoặc theo trường (trường điểm,
trường chuyên).
*Phân hoá trong cùng một lớp:
Trong một lớp gồm nhiều cá thể khác nhau, khác nhau về trình độ nhận thức,
khác nhau về đặc điểm tâm sinh lý, mỗi học sinh là một chủ thể nhận thức khi có
cùng tác động sư phạm vào các học sinh khác nhau sẽ có các phản ứng khác
4
nhau. Sự phản ứng khác nhau đó có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực ảnh
hưởng đến quá trình dạy học. Do đó người giáo viên cần có sự “phân biệt hoá,
cá thể hoá” làm trong quá trình dạy học phát huy được tính tích cực, hạn chế tối

đa mặt tiêu cực của sự khác nhau đó, đồng thời tạo điều kiện để học sinh phát
huy ở mức độ cao nhất. Muốn vậy người giáo viên cần nắm và hiểu tâm lý của
mỗi học sinh, của từng lứa tuổi học sinh.
Tóm lại từ yêu cầu xã hội đối với người lao động là giống hoặc khác nhau,
từ sự giống và khác nhau về trình độ và việc phát triển nhân cách từng học sinh
đòi hỏi quá trình dạy học thống nhất cùng với những biện pháp phân hoá nội tại.
dạy học phân hoá cần phải xây dựng kế hoạch lâu dài, cụ thể.
*Phân hoá bài nội dung bài giảng : Khi phân hóa các bài giảng trên lớp
cần lưu ý một số đặc điểm sau:
- Phân hoá nội dung, phương pháp phù hợp với trình độ của mỗi đối tượng học
sinh.
- Phân hoá yêu cầu về khả năng tư duy độc lập, bài giảng dành cho đối
tượng học sinh yếu kém chứa nhiều yếu tố dẫn dắt để học sinh dễ tiếp nhận kiến
thức
*Phân hoá bài tập về nhà: Khi phân hoá bài tập về nhà cần lưu ý một số điểm sau :
- Phân hoá về số lượng bài tập cùng loại phù hợp với đối tượng để đạt cùng một
yêu cầu.
- Phân hoá nội dung phù hợp với trình độ của mỗi học sinh.
- Phân hoá yêu cầu về mặt tính độc lập, bài tập cho đối tượng học sinh yếu kém
chứa nhiều yếu tố dẫn dắt để học sinh suy nghĩ làm bài tập ở mức cao hơn.
- Ra riêng bài tập tạo tiền đề xuất phát cho học sinh yếu kém để chuẩn bị những
bài sau và ra riêng bài tập nâng cao cho học sinh khá giỏi.
* Phân hoá theo khối học, theo trường học:
II.1.2 Dạy học nêu vấn đề
II.1.2.1 Khái niệm
5
Dạy học nêu vấn đề là kiểu dạy học mà thầy tạo ra những tình huống có vấn đề,
điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, để hoạt động tự giác và tích cực và để giải
quyết vấn đề mà thông qua giải quyết những vấn đề đó học sinh có khả năng
lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng và đạt được những mục đích học tập khác.

- Dạy học nêu vấn đề là một hệ phương pháp dạy học phức tạp, đa năng tức
là nó có thể được áp dụng vào nhiều phương pháp dạy học khác nhau, trong đó
phương pháp xây dựng bài toán ơrixtic (tình huống có vấn đề) giữ vai trò chủ
đạo,. gắn bó phương pháp khác tập hợp thành một hệ thống toàn vẹn.
II.1.2.2 Mối quan hệ giữa dạy học nêu vấn đề và dạy học phân hoá
a. Sự phân hoá trong dạy học nêu vấn đề.
Nói chung tính phân hoá nên có cho mọi hình thức dạy hoc. Vì trong mỗi lớp
học, ngoài những đặc điểm chúng ta mỗi cá thể học sinh là một đối tượng riêng
biệt với mức độ tư duy khác nhau, với sự định hướng khác nhau. Cho nên xu
hướng dạy học mới phải khêu gợi, kích thích, đòi hỏi con người suy nghĩ, tìm tòi
và phát huy đến mức cao nhất. Đối với dạy học nêu vấn đề, tính phân hoá của nó
lại càng cần thiết để phát huy ưu thế của nó. Vì nếu vấn đề đưa ra không vừa sức
hoặc khó khăn thì học sinh sẽ không được đặt vào tình huống có vấn đề để lôi
cuốn họ và việc tìm kiếm, phát hiện kiến thức nhanh. Từ đó, học sinh sẽ thấy
học tập như là một hướng ngại khó khắc phục. Ngược lại vấn đề đưa ra quá dễ
sẽ gây cho học sinh nhàm chán, không kích thích tư duy tích cực của học sinh.
Sự phân hoá trong dạy học nêu vấn đề được thể hiện ở hai hình thức:
- Phân hóa về mặt tổ chức của dạy học nêu vấn đề, đó là các mức độ của
dạy học nêu vấn đề gồm: Thuyết trình nêu vấn đề, Đàm thoại nêu vấn đề,
Nghiên cứu nêu vấn đề.
- Phân hoá về nội dung và mức độ phức tạp của vấn đề nghiên cứu. Mỗi
vấn đề nghiên cứu có thể được phân hoá thành các câu hỏi và bài tập có mức độ
khó tăng dần để phù hợp với từng đối tượng và cá thể học sinh, đó là các mức
độ:
+ Tái hiện kiến thức
6
+ Phân tích - so sánh
+ Vận dụng sáng tạo kiến thức trong tình huống mới .
b.Yếu tố nêu vấn đề trong dạy học phân hoá
Ưu điểm chính của dạy học nêu vấn đề là phát huy tính tích cực, tự lực tìm kiếm

tri thức của học sinh thông qua quá trình hình thành kỹ năng phát hiện và giải
quyết vấn đề học tập. Còn ưu điểm của dạy học phân hoá là vừa sức và sát đối
tượng trong giáo dục. Vai trò của dạy phân hoá và việc sử dụng các bài tập phân
hoá sẽ được phát huy tính tích cực hơn nhiều nếu biết áp dụng các yếu tố của
dạy học nên vấn đề. Bởi vì, nếu như đặc tính nêu vấn đề của dạy học thúc đẩy
hoạt động hoá tư duy của học sinh thì việc phân hoá trong dạy học sẽ tạo điều
kiện thuận lợi để áp dụng dạy học nêu vấn đề vào việc nghiên cứu tài liệu và cả
những bài ôn tập tổng kết “nếu như tính vấn đề của việc dạy học làm hoạt động
hoá nhận thức của học sinh, kích thích các trạng thái tâm lý như ham muốn
hiểu biết và ham học hỏi thì việc phân hoá trong dạy học sẽ tạo điều kiện để sử
dụng các cảm xúc tích cực này vào thực tiễn của quá trình dạy học”. Và nếu
như trong dạy học truyền thống việc tổ chức giờ học chỉ giúp học sinh tái hiện
kiến thức, học thuộc nội dung chương trình SGK hoặc rèn luyện kỹ năng giải
bài tập theo các mẫu bài quen thì việc tổ chức dạy học nêu vấn đề có sử dụng
các bài tập phân hoá trong giờ học sẽ dẫn học sinh vào tình huống mà học cần
khái quát hoá kiến thức ở mức độ mới. Kết luận mang tính suy luận trong phạm
vi toàn bộ chương trình và ở những bài mang tính chất nghiên cứu.
II.2 THỰC TRẠNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG BÀI GIẢNG –
BÀI TẬP THEO PHƯƠNG PHÁP PHÂN HÓA NÊU VẤN ĐỀ Ở CÁC
TRƯỜNG THPT
Phần lớn giáo viên chỉ xây dựng và thiết kế bài giảng một cách chung chung
cho mức học sinh trung bình chứ chưa thực sự xây dựng và sử dụng một cách
phân loại bài giảng cho nhiều đối tượng học sinh,dẫn đến còn nhiều sự bất cập
trong quá trình nhận thức của học sinh. Để giải quyết vấn đề trên tôi thấy rằng
việc: “ xây dựng - sử dụng hệ thống bài giảng và bài tập theo hướng phân
7
hoá – nêu vấn đề để nâng cao hiệu quả giảng dạy phần phi kim hoá học 10 ”
là rất cần thiết
II.3. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG BÀI GIẢNG VÀ BÀI TẬP THEO
HƯỚNG PHÂN HOÁ NÊU VẤN ĐỀ

II.3.1. Nguyên tắc xây dựng
II.3.1.1 Nguyên tắc chung
Trên cơ sở thực hiện việc phân hoá chất lượng học sinh (khả năng nhận thức và
tư duy) chúng ta có thể chuẩn bị hệ thống các bài giảng và bài tập với mức độ
khác nhau.
Đối với một bài giảng, tùy thuộc vào đối tượng dạy học chúng ta có thể thiết kế
thành các mức độ khác nhau phù hợp với khả năng tư duy nhận thức của từng
đối tượng HS
* Đối với mức độ thấp: tức là khả năng nhận thức và tự lập thấp. Với đối tượng
này thì giáo viên nên sử dụng phương pháp :
- Phương pháp thuyết trình – giải thích để nhằm diễn giải nội dung dạy học
một cách dễ hiểu nhất. Hoặc sử dụng phương pháp thuyết trình thông báo.
- Khi dạy các tiết luyện tập thì giáo viên nên đưa ra các bài tập cơ bản tương
đối dễ và hướng dẫn học sinh một cách cụ thể.
- Sử dụng phương pháp trực quan (dùng thí nghiệm đơn giản dễ nhận thấy
như chứng minh các tính chất vật lý của các chất ).
* Mức độ trung bình: Tức là năng lực nhận thức và khả năng tự lập trung bình.
Đối với đối tượng học sinh này thì giáo viên có thể sử dụng các phương pháp sau:
- Sử dụng các phương pháp thuyết trình tái hiện - thông báo và thuyết trình
giải thích để dạy các nội dung khó và phức tạp.
- Sử dụng phương pháp trực quan (thí nghiệm ở mức độ đơn giản) với hình
thức minh hoạ hoặc diễn dịch chỉ đòi hỏi trò hoạt động nhận thức thụ động, lời
nói của thầy là nguồn thông tin chủ yếu.
- Sử dụng phương pháp đàm thoại tái hiện vì phương pháp này chỉ đòi hỏi trò
nhớ lại và trả lời các câu hỏi do thầy đặt ra.
8
- Sử dụng phương pháp đàm thoại giải thích - minh họa có kèm theo thí
nghiệm. Nội dung giải thích sẽ cấu tạo thành hệ thống câu hỏi - lời giải đáp.
Như vậy sẽ giúp người học dễ nhớ hay rất phù hợp với đối tượng dạy học này
Tóm lại với 2 đối tượng dạy trên thì vấn đề cơ bản là giáo viên phải tìm ra

đúng nguyên nhân học kém để có biện pháp xử lý thích hợp nhất, luôn khuyến
khích, động viên, kiên trì giúp đỡ, đặc biệt là phải chú ý bồi dưỡng phương pháp
học tập, phương pháp tư duy, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học
sinh chứ không làm thay họ.
* Mức độ khá - giỏi: Tức là năng lực nhận thức và khả năng tự lập cao. Do đặc
điểm về trình độ nhận thức khá cao nên đối với đối tưọng dạy học này giáo viên
nên sử dụng các phương pháp sao cho có thể phát huy được tính tích cực nhận
thức của học sinh tức là phải hướng học sinh tích cực tự lực giành lấy kiến thức
bằng cách tìm hiểu, khám phá và giành sáng tạo. Cụ thể, giáo viên nên sử dụng
các phương pháp sau:
- Rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học, tự lực làm việc độc lập với sách
giáo khoa.
- Đàm thoại nêu vấn đề, đặt học sinh vào các tình huống có vấn đề và hướng
dẫn họ cách tự lực tìm ra phương hướng giải quyết.
- Thí nghiệm theo hình thức qui nạp hoặc sử dụng thí nghiệm có tính chất
nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu để giúp học sinh phát hiện một tính chất
mới, một khái niệm mới hoặc nghiên cứu một nội dung hay một vấn đề dưới
dạng bài tập nghiên cứu. Muốn vậy giáo viên cần phải gây được động cơ hứng
thú học tập của học sinh cũng như nhu cầu nhận thức của họ.
- Bên cạnh đó có thể sử dụng phương pháp thuyết trình nêu vấn đề.
Như vậy khi dụng các phương pháp trên áp dụng cho học sinh khá - giỏi thì
kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẫn với
nhau. Các vấn đề quan trọng, các hiện tượng then chốt có lúc diễn ra mội cách
đột ngột, bất ngờ.
9
Tương tự, đối với nội dung của mỗi bài tập chúng ta thiết kế thành 3 vấn đề
theo ba mức độ với mục đích hướng đến việc phát triển khả năng tìm tòi tự học
và cụ thể hoá mức độ kiến thức của học sinh.
* Vấn đề thứ nhất: (mức độ 1) cần hướng học sinh nêu ra đựơc các tính

chất riêng biệt của các tính chất ,các hiện tượng, cách lý giải những nguyên nhân
đơn giản nhất, trình bày lại những kiến thức cơ bản dựa vào trí nhớ.
* Vấn đề thứ hai: (mức độ 2) học sinh biết vận dụng kiến thức vào điều
kiện mới, sử dụng kiến thức vào điều kiện thức tế. Để hoàn thành vấn đề này
cần có sự phân tích so sánh để nêu ra được các điều kiện cơ bản đối với một số
lớn các chất, các hiện tượng.
* Vấn đề thứ ba: (mức độ 3) là mức độ cao nhất trong ba mức độ, mức độ
này yêu cầu không chỉ phân tích, so sánh mà còn khái quát hoá các số liệu thu
được sử dụng chúng trong điều kiện mới phức tạp hơn.
II.3.1.2 Các kiểu phân hóa cụ thể đối với bài giảng và bài tập phân hoá
a. Đối với các bài giảng, trên cơ sở mối quan hệ giữa mục đích - nội dung -
phương pháp dạy học và các yếu tố chi phối phương pháp dạy học để thực hiện
phân hóa trong bài giảng hóa học phù hợp với đối tượng học sinh theo quy trình
sau:
* Nghiên cứu nội dung tài liệu sách giáo khoa
Trong suốt quá trình giảng dạy của một người giáo viên, để có được một
bài dạy hay, lôi cuốn học sinh thì người giáo viên cần phải có một sự chuẩn bị
chu đáo từ nhiều phía, trước tiên cần phải nắm rõ được mục tiêu và nội dung của
bài dạy. Muốn vậy người giáo viên không chỉ nghiên cứu kỹ nội dung tài liệu
sách giáo khoa mà còn phải tìm hiểu và nghiên cứu qua các tài liệu tham khảo
khác có liên quan đến bài học đó. Trên cơ sở đó giáo viên sẽ xác định được mục
đích cần dạy, cũng như nội dung cốt lõi, nền tảng bài đó là gì., từ đó lựa chọn
phương pháp dạy học thích hợp nhất. Quan trọng nhất đối với sự thành công của
10
một bài lên lớp là sự kết hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng
đối tượng học sinh.
Xác định chính xác những mục đích của bài học:
- Tìm hiểu những yêu cầu của chương trình: Những tài liệu tham khảo liên
quan đến nội dung bài học. Đánh giá kiến thức, kỹ năng, thái độ học tập cũng
như trình độ năng lực nhận thức của từng đối tượng HS.

- Từ đó xác định hệ thống những mục đích của bài.
+ Yêu cầu về nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần có.
+ Yêu cầu về giáo dục tình cảm, thái độ, cách nhìn nhận đánh giá sự vật.
+ Yêu cầu phát triển năng lực nhận thức như so sánh khái quát cũng như các
khả năng sáng tạo, đổi mới.
Xây dựng nội dung bài học
Từ mục đích giảng dạy giáo viên sẽ xây dựng nội dung bài học cụ thể:
-Xác định mục đích tư tưởng chính của bài.
-Xác định những tri thức chính và phụ.
-Sắp xếp nội dung dạy học theo một trình tự logic và khoa học như sách giáo
khoa.
- Bổ sung vào nội dung sách giáo khoa những số liệu hiện đại, nhưng câu
chuyện lịch sử hay những tấm gương gắn liền với cuộc sống và sản xuất ở địa
phương, hoặc những thành tựu mới trong khoa học kỹ thuật, những đổi mới của
đời sống xã hội nhằm làm phong phú bài dạy, làm cho bài dạy phù hợp với tình
hình thực tế địa phương cũng như có thể bắt nhịp với thời đại.
- Xây dựng mô hình cấu trúc nội dung bằng một sơ đồ Grap và xác định
rõ thời gian hợp lý tương ứng với nội dung, phân hoá nội dung dạy học sao cho
phù hợp với các đối tượng học sinh.
* Xác định và phân loại đối tượng dạy học
- Giữa các lớp
- Trong một lớp
* Quy trình phân hóa
11
Quy trình trên được cụ thể hoá qua bảng sau:
Mục đích dạy
học
Nội dung bài
giảng
Phương pháp

Học sinh yếu Trung bình Khá - giỏi
b/ Hóa học là một môn khoa học thực nghiệm có lập luận. Tức là lí thuyết và
thực nghiệm gắn bó với nhau làm sáng tỏ và sâu sắc bản chất, hiện tượng của
các quá trình hóa học. Vì vậy phân hoá các bài tập hoá học có thể theo nguyên
tắc khác nhau, theo đặc thù nguyên tắc khoa học.
Bài tập lý thuyết: Là những bài tập chỉ dựa vào kiến thức lý thuyết loại này
phân hoá thành 3 mức độ:
- Mức độ 1: Tái hiện kiến thức lý thuyết
- Mức độ 2: Tái hiện và giải thích
- Mức đô 3: Vận dụng sáng tạo và suy luận linh hoạt kiến thức ở điều kiện mới.
* Nội dung bài tập: Khái quát các nguyên tắc thu khí trên cơ sở tính chất vật
lý và đặc điểm cấu tạo.
* Thiết kế theo kiểu phân hoá- nêu vấn đề
- Mức độ 1: Viết cấu hình electron của clo? ( Z=17)
- Mức độ 2: Từ cấu hình electron của clo nêu các số oxihoá có thể?
- Mức đô 3: Giải thích các số ôxi hoá của clo dựa vào cấu hình electron của clo?
Nhận xét: về mức độ phân hoá và tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu
+ Ở mức độ 1: ở mức độ này chỉ yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức cũ
kiến thức ở đây cần chính xác, chỉ cần học sinh hiểu cơ bản .
+ Ở mức độ 2: Đòi hỏi khó hơn, ở mức độ này cần đòi hỏi học sinh không
những hiểu mà còn phải biết dự đoán một số yếu tố khác từ các yếu tố cơ bản
đã học.
+ Ở mức độ 3: Mức độ này đòi hỏi khả năng cao hơn mức độ 1, mức độ 2 là
đòi hỏi học sinh phải giải thích được các yêu cầu đề ra.
Bài tập lý thuyết - Lý thuyết thực nghiệm:
12
Là những bài tập có nội dung đòi hỏi học sinh phải có kỹ năng quan sát,
giải thích hiện tượng, thực hiện những thao tác, thực hành.
* Thiết kế theo kiểu phân hoá- nêu vấn đề
- Mức độ 1: Tái hiện các bước của loại bài tập thực hành đó

- Mức độ 2: Vạch ra các công đoạn thực hành dựa trên sự hướng dẫn nhất
định, dự đoán hiện tượng xảy ra và giải thích
- Mức độ 3: Học sinh tự vạch ra các công đoạn thực hành, dự đoán hiện
tượng và giải thích
Ví dụ:
*Nội dung bài tập: Phân biệt các muối KCl, KBr, KI và chứng minh quy
luật hoạt động hoá học của các halogen?
* Thiết kế theo kiểu phân hoá- nêu vấn đề
Mức độ 1: Có 3 ống nghiệm đựng các muối KCl, KBr, KI.
Hãy dùng phản ứng trao đổi để phân biệt 3 chất này. Biết rằng AgCl kết tủa
trắng, AgBr kết tủa vàng nhạt, AgI kết tủa màu vàng.
Mức độ 2: Có 3 ống nghiệm đựng các muối KCl, KBr, KI. Hãy đề xuất phương
pháp phân biệt các muối trên bằng cách tách các halogen ở dạng khí.
Mức độ 3: Có 3 ống nghiệm đựng các muối KCl, KBr, KI. Hãy nêu các phương
pháp nhận biết các muối trên. Đề xuất quy trình nhận biết.
Nhận xét về mức độ phân hoá và tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu
+ Mức độ 1: Học sinh thực hiện các thao tác theo chỉ dẫn rõ ràng của giáo
viên, theo đó để giải quyết yêu cầu của bài toán.
+ Mức độ 2: Chỉ gợi ý hoá chất còn các bước thao tác và giải thích thì học
sinh tự tìm hiểu
+ Mức độ 3: Tự tìm hoá chất, các bước vạch ra quy trình và quá trình tiến
hành, mức độ này khó hơn mức độ 1, 2.
Bài tập tổng hợp: Những bài tập này có thể phân hoá bằng cách: Phân hoá
theo mức độ giải quyết sự phức tạp hoá hoặc phức tạp hoá điều kiện bài toán.
- Giảm sự phức tạp hoá hoặc phức tạp hoá yêu cầu bài toán.
13
- Giảm sự phức tạp hoá hoặc phức tạp hoá cả điều kiện và yêu cầu bài toán
ghép nội dung các bài tập khác nhau thành một bài tập mới.
Ví dụ
1. Viết cấu hình electron của các halogen ở dạng tổng quát?

2. Số eletron độc thân ở trạng thái cơ bản các halogen là bao nhiêu?
3. Tổng số electron khối p của nguyên tử nguyên tố X là 11 xác định vị trí của
X trong hệ thống tuần hoàn?
Nhận xét :
- Mức độ 1: là giảm yêu cầu tính toán
- Mức độ 2: là bài toán gốc
- Mức độ 3: phức tạp vấn đề, yêu cầu học sinh cần xét nhiều trường hợp
II.4.XÂY DỰNG BÀI GIẢNG THEO HƯỚNG PHÂN HÓA NÊU VẤN
ĐỀ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY BÀI KHÁI QUÁT VỀ
NHÓM HALOGEN HÓA HỌC LỚP 10
II.4.1 BÀI GIẢNG KHÁI QUÁT VỀ NHÓM
Xem Phần phụ lục
II.4.2.CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP CỦA LỚP THỰC NGHIỆM
Qua đợt thực nghiệm chúng tôi đã theo dõi và đánh giá chất lượng, kiến thức,
khả năng vận dụng linh hoạt kiến thức để giải quyết những vấn đề học tập. Trả
lời các câu hỏi và giải bài tập theo các mức độ phân hoá. Chúng tôi thấy rằng, ở
các lớp thực nghiệm, trong giờ học đa số học sinh sôi nổi tham gia vào quá
trình tìm kiếm kiến thức cả về chiều rộng và chiều sâu do các câu hỏi,bài tập đã
được phân hoá phù hợp với từng cá nhân học sinh. Nhìn chung các học sinh ở
nhóm thấp đã rất cố gắng vươn lên, hoàn thành tốt các bài tập của mình để
được chuyển lên nhóm cao hơn. Như vậy, dạy học phân hoá, nêu vấn đề bên
cạnh nâng cao chất lượng học tập cụ thể, thì còn có tác dụng quan trọng là tạo ra
động lực từ bên ngoài của mỗi học sinh.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
14
1. Kết luận.
Từ những việc đã làm chúng tôi rút ra những kết luận sau.
a. Những kết quả đạt được.
Dạy học phân hoá - nêu vấn đề đã thực sự là một phương pháp dạy học phù
hợp với mục đích – nội dung - đối tượng. Việc phối hợp các phương pháp đã gây

hứng thú, lôi cuốn HS tham gia vào quá trình chiếm lĩnh tri thức, tạo nên không
khí học tập sôi nổi, phát huy được tối đa tính tích cực trong học tập của mỗi học
sinh. Do đó chất lượng học tập của HS được nâng cao.
Việc thiết kế các bài giảng và bài tập hoá học theo kiểu phân hoá - nêu vấn
đề đã có tác dụng phát triển các năng lực nhận thức, tư duy sáng tạo, kỹ năng
thực hành và kỹ năng chuyển từ tư duy lý thuyết sang tư duy thực hành cho mọi
đối tượng học sinh.
b. Khó khăn và thuận lợi khi áp dụng đề tài:
* Thuận lợi: Dạy học phân hoá - nêu vấn đề sát với đối tượng học sinh nên
rất được học sinh ủng hộ, học sinh học tập nhiệt tình nên đạt kết quả tốt.
* Khó khăn:
- Dạy học phân hoá - nêu vấn đề yêu cầu giáo viên phải phân hoá trình độ
học sinh. Điều này đòi hỏi giáo viên phải nắm bắt rõ tình hình học tập cũng như
các đặc điểm tâm lý của HS để phân hoá đối tượng học sinh trong lớp để từ đó
đề ra các phương pháp dạy học phù hợp với từng loại đối tượng HS. Viêc làm
này đòi hỏi sự kiên trì chịu khó của giáo viên.
2. Một số ý kiến đề xuất.
Qua quá trình nghiên cứu hoàn thành sang kiến tôi thấy: Để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và việc nâng cao
hiệu quả dạy học hoá học nói riêng theo hướng phân hoá - nêu vấn đề chúng tôi
có một số đề xuất sau:
a. Về nội dung, cấu trúc chương trình.
15
- Cần phân bố hợp lý thời gian của từng nội dung trong một bài giảng hoá
học để có thể phù hợp với mục đích và đối tượng dạy học
- Trong quá trình giảng dạy ngoài việc sử dụng những tài liệu có sẵn thì
mỗi giáo viên phải tự xây dựng cho mình một hệ thống câu hỏi, bài tập riêng
đảm bảo tính hệ thống, tính logic, đầy đủ về loại, dạng. Phân hoá nội dung đó
thành các mức độ khác nhau phù hợp với từng đối tượng học sinh và không
nên ra những bài tập tính toán quá phức tạp.

b. Biện pháp để giáo viên cải tiến phương pháp dạy học hoá học nói chung
và bài tập hoá học phân hoá nêu vấn đề nói riêng là:
- Trong điều kiện hiện nay, cần phải đưa vào áp dụng đại trà phương pháp
dạy học phân hóa bằng bài toán phân hóa, để kích thích mọi đối tượng đều phải
động não, nâng cao dần khả năng tư duy và hứng thú học tập
- Cần tăng cường trang bị cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm cho các trường
THPT, để học sinh có thể làm bài tập thực hành, vì đây là loại BT rèn năng lực
tư duy và phong cách làm việc khoa học có hiệu quả nhất.
Do điều kiện thời gian có hạn, kinh nghiệm của bản thân chưa nhiều
nên đề tài không tránh khỏi hạn chế. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Ngô Ngọc An: Bài tập trắc nghiệm hoá vô cơ (NXB Đà Nẵng 2005)
2- Nguyễn Ngọc Bảo: Phát huy tính tích cực, tính tự lực của học sinh trong quá trình
dạy học .Bộ giáo dục-1995
3- Phan Thanh Bình. Đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông. Nghiên cứu
giáo dục số 2 – 1998.
4- Nguyễn Cương, Nguyễn Thị Sửu, Nguyễn Đức Dũng, Lê Văn Năm, Hoàng Văn
Côi, Trịnh Văn Biểu, Đào Vân Hạnh: thực trạng về phương pháp dạy học hoá học ở
trường phổ thông (NXB Đại học Sư phạm 2007) .
16
5- Nguyễn Cương. Phương pháp giảng dạy và thí nghiệm hóa học. NXB Giáo dục Hà
Nội 1992.
6- Cao Cự Giác: Bài tập hoá học ở trường phổ thông (giáo trình dành cho sinh viên sư
phạm ngành hoá 2004)
7- Cao Cự Giác: Tuyển tập bài giảng hoá vô cơ, bài tập lý thuyết và thực nghiệm tập
1 (NXB Quốc gia Hà Nội 2006).
8- Cao Cư Giác. Phương pháp giải bài tập Hóa Học 10 tự luận và trắc nghiệm – NXB
Đại Học Quốc Gia TPHCM năm 2007.
9- Cao Cự Giác: Những viên kim cương về hóa học(Từ lý thuyết đến ứng dụng).

10- Nguyễn Bá Kim - Vũ Dương Thuỵ Phương pháp dạy học môn toán (NXBGD
Hà Nội 1992)
11- Trần Kiều: Đổi mới PPDH ở trường phổ thông (NXB Đại học Sư phạm 2003)
12- Phạm văn Hoan: Tuyển tập các bài tập hoá học trung học phổ thông NXBGD Hà
Nội 2006.
13-Lê Thị Tú Ngọc(2004) “Xây dựng hệ thống câu hỏi và bài tập Phân hoá - nêu vấn
đề chương Halogen” luận văn tốt nghiệp ĐHSP
14- Lê Văn Năm. Dạy học nêu vấn đề - Lý thuyết và ứng dụng. NXB ĐHQG Hà Nội
2007.
15- Lê Văn Năm. Dạy học phân hóa – nêu vấn đề trong giảng dạy bộ môn hóa học.
(Tạp chí Giáo dục số 101 - 2004).
16- Lê Văn Năm : Sử dụng bài tập phân hoá trong dạy học nêu vấn đề bộ môn hoá
học . Tạp chí giáo dục số 11 -2004
17- Lê Văn Năm: Xây dựng các bài tập hoá học theo hướng phân hoá nêu vấn đề. Tạp
chí Giáo dục số 109-2005
18- Lê Văn Năm - Mai Thị Thanh Huyền - Lê Thị Tú Ngọc: dạy học phân hoá nêu
vấn đề - một hình thức dạy học đáp ứng được mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay (Kỷ yếu Hội thảo toàn quốc: đổi mới phương pháp dạy học và đào tạo giáo
viên hoá học Vinh 2003)
17
PHỤ LỤC
BÀI GIẢNG PHÂN HÓA NÊU VẤN ĐỀ
1. Bài soạn : Khái quát về nhóm halogen
I.CHUẨN KIẾN THỨC, KỸ NĂNG
1. Kiến thức
- Vị trí của nhóm halogen trong bảng tuần hoàn.
- Sự biến đổi độ âm điện, bán kính nguyên tử và một số tính chất vật lí của các
nguyên tố trong nhóm.
- Cấu hình electron ngoài cùng của nguyên tử các nguyên tố halogen tương tự
nhau.Tính chất hóa học cơ bản của các nguyên tố halogen là tính oxi hóa

mạnh.
- Sự biến đổi tính chất hóa học của các đơn chất trong nhóm halogen.
2. Kỹ năng
- Viết được cấu hình electron ngoài cùng của nguyên tử các nguyên tố
halogen.
- Dự đoán tính chất hóa học cơ bản của halogen là tính oxi hóa mạnh dựa vào
cấu hình electron lớp ngoài cùng và một số tính chất khác của nguyên tố.
- Viết được các phương trình hóa học chứng minh tính chất oxi hóa mạnh của
cácnguyên tố halogen, quy luật biến đổi tính chất của các nguyên tố trong
nhóm.
- Tính thể tích hoặc khối lượng dung dịch chất tham gia hoặc tạo thành sau phản
ứng
2.TRỌNG TÂM
Mối liên hệ giữa cấu hình electron lớp ngoài cùng, độ âm điện, bán kính
nguyên tử,…với tính chất hóa học cơ bản của các nguyên tố halogen là tính
oxi hóa mạnh.
3.CHUẨN BỊ
- Giáo viên: Bảng tuần hoàn, máy chiếu, hình ảnh các mẫu đơn chất halogen.
18
- Học sinh: Ôn tập kiến thức về cáu tạo nguyên tử, độ âm điện, quy luật biến
đổi tính chất của các nguyên tố nhóm A, kỹ năng viết cấu hình electron.
PHƯƠNG PHÁP
Nội dung
Phương pháp
HS yếu
HS trung
bình
HS khá -
giỏi
I. Nhóm Halogen

trong bảng tuần
hoàn các nguyên
tố
-Thuyết trình
thông báo
Thuyết trình
thông báo
- Đàm thoại
- Thuyết trình
- Đàm thoại
II. Cấu hình electron
nguyên tử và cấu tạo
phân tử của các
nguyên tố trong
nhóm Halogen
- Nêu vấn đề
-Thuyết trình diễn
giảng
- Nêu vấn đề
- Thuyết trình
diễn giảng
- Nêu vấn đề
III. Khái quát về tính
chất của các Halogen
1. Sự biến đổi tính
chất vật lý của các
đơn chất
-Thuyết trình
thông báo
Thuyết trình

thông báo
- Thuyết trình
thông báo
- Nêu vấn đề
2. Sự biến đổi độ âm
điện
- Thuyết trình
thông báo
- Diễn giảng
- Thuyết trình
giải thích
- Đàm thoại gợi
mở
- Đàm thoại gợi
mở
- Nêu vấn đề
- Diễn giảng
II. TIẾN TRÌNH TIẾT HỌC
1. Ổn định tổ chức
2. Vào bài
3. Bài mới
Mục
đích
Nội dung
Phương pháp
HS yếu HS trung bình
19
Hoạt động 1
Giới thiệu
nhóm

halogen
I. Nhóm halogen trong bảng
tuần hoàn các nguyên tố

PP: Thuyết trình thông
báo
GV chiếu BTH lên màn
hình hướng dẫn HS quan
sát các nguyên tố
halogen trong BTH.
Yêu cầu HS nêu tên, viết
ký hiệu các nguyên tố
trong nhóm Halogen
GV: các nguyên tố
Halogen đứng ở cuối các
chu kỳ, ngay trước các
khí hiếm
PP: Thuyết trình + đàm
thoại gợi mở
GV chiếu BTH lên màn
hình HS quan sát BTH
rút ra nhận xét về vị trí
của các nguyên tố
halogen trong BTH
GV yêu cầu HS đọc tên
và ký hiệu các nguyên tố
Halogen?
GV hướng dẫn để HS rút
ra nhận xét: Các nguyên
tố Halogen đứng ở cuối

các chu kì ngay trước các
nguyên tố khí hiếm.
Mục
đích
Nội dung
Phương pháp
HS yếu HS trung bình
GV thông báo: nguyên tố actatin không được nghiên cứu trong phạm
vi của bài học này mà được nghiên cứu trong nhóm các nguyên tố
phóng xạ?
Atatin không gặp trong tự nhiên nó được điều chế nhân tạo
bằng các phản ứng hạt nhân.
Hoạt động 2
Kỹ
năng
viết cấu
hình e
II. Cấu hình electron nguyên tử và cấu
tạo phân tử của các nguyên tố trong
nhóm halogen.
- Cấu hình electron lớp ngoài cùng của
các halogen: ns
2
np
5

có 7 electron ở lớp
ngoài cùng
PP: Nêu vấn đề + thuyết trình diễn giảng
GV yêu cầu HS: Viết cấu hình electron lớp

ngoài cùng của các nguyên tử F, Cl, Br, I, suy
ra cấu hình ngoài cùng tổng quát của các
halogen.
GV: Hướng dẫn HS biểu diễn sự phân bố
20








ns
2
np
5

electron trên các obitan ở trạng thái cơ bản
Nhận xét số electron ngoài cùng? Số electron
độc thân của các nguyên tố halogen ở trạng
thái cơ bản.
Mục
đích
Nội dung
Phương pháp
HS yếu HS trung bình
- Ở trạng thái cơ bản nguyên tử halogen
có 1 electron độc thân.
+ Nguyên tử F không có phân lớp d các

halogen còn lại có phân lớp d
+ Từ F đến I số lớp electron tăng dần.
- Ở trạng thái kích thích nguyên
tử Cl, Br, I có thể có 3, 5, 7
electron độc thân.
Cấu hình electron ở lớp ngoài cùng ở
trạng thái kích thích
ns
2
np
4
nd
1
np
3
nd
2
ns
2

ns
1
np
3
nd
3
GV dẫn dắt HS rút ra nhận xét về cấu tạo
nguyên tử các Halogen
GV: Hướng dẫn HS biểu diễn sự phân bố
electron trên các obitan ở trạng thái kích thích

của các nguyên tố Cl, Br, I.
HS xác định số electron độc thân của các
nguyên tố Cl, Br, I ở trạng thái kích thích
Mục
đích
Nội dung
Phương pháp
HS yếu HS trung bình
→ số electron độc thân có khả năng
tham gia liên kết của nguyên tử Cl, Br,
I là: 1, 3, 5, 7
GV giúp HS dự đoán sự hình thành liên kết
trong phân tử X
2
.
GV diễn giảng: Dựa vào giá trị năng lượng
21



















↑ ↑

- Phân tử X
2
gồm 2 nguyên tử liên kết
với nhau bằng liên kết cộng hóa trị.
X
. .
:
.
. .
+
X
. .
:
. .
.
X
. .
:
. .
:
X
. .
:

. .
Công thức electron
- Năng lượng liên kết X - X không lớn
→ phân tử X
2
dễ tách thành hai nguyên
tử.
liên kết X - X không lớn → phân tử X
2
dễ tách
thành hai nguyên tử.
III. Khái quát về tính chất của các
halogen
Hoạt động 3
1. Tính chất vật lí: PP: Thuyết trình thông báo
GV chiếu bảng 5.1: Một số đặc điểm của các
halogen lên màn hình.
Mục đích Nội dung
Phương pháp
HS yếu HS trung bình
PP tư duy
logic: Quy
luật biến
đổi từ đặc
điểm cấu
tạo dẫn đến
đến sự biến
đổi tính
chất
- Trạng thái tập hợp: khí - lỏng -

rắn
- Màu sắc đậm dần
- Nhiệt độ nóng chảy, nhiệt độ sôi
tăng dần.
- F
2
: không tan trong nước, phân
hủy nước.
- Halogen còn lại: tan ít trong
nước.
- Các đơn chất halogen: rất độc
HS nêu : Quy luật biến đổi tính chất tính
vật lý từ F đến I: trạng thái, màu sắc, nhiệt
độ nóng chảy, nhiệt độ sôi?
GV: Bổ sung tính tan, tính độc.
22
Hoạt động 4
2. Tính chất hóa học PP: Thuyết trình
diễn
PP: đàm thoại
gợi mở
Mục đích Nội dung
Phương pháp
HS yếu HS trung bình
Phát triển
tư duy : từ
từ cấu tạo
nguyên tử
đến tính
chất hóa

học.
So sánh
khả năng
oxi hóa của
các
halogen
+ Có nhiều tính chất hóa học
giống nhau:
- Dễ dàng thu thêm 1e để tạo
thành ion âm.
X + 1e → X
-
ns
2
np
5
ns
2
np
6
- Halogen là những phi kim điển
hình, có tính oxi hóa mạnh
+ Tính phi kim và khả năng oxi
hóa của các halogen giảm từ F →
I
giảng.
GV dẫn dắt cho
HS trên cơ sở đặc
điểm về cấu tạo
nguyên tử, độ âm

điện để dự đoán
tính chất hóa học
của các halogen?
GV giải thích cho
HS vì sao halogen
có tính oxi hóa
giảm dần?
GV: trên cơ sở đặc
điểm về cấu tạo
nguyên tử, độ âm
điện gợi mở để HS dự
đoán tính chất hóa
học của các halogen?
GV: gợi ý để HS giải
thích vì sao halogen
có tính oxi hóa giảm
dần?
- Trong các hợp chất F luôn
có số oxi hóa -1 các halogen
còn lại có số oxi hóa -1, +1,
+3, +5, +7
GV: gợi ý để HS giải thích vì sao
trong hợp chất F chỉ có số OXH là
-1 còn Cl, Br, I có thể có số oxi hóa
-1, +1, +3, +5, +7.
Mục
đích
Nội dung
Phương pháp
HS yếu HS trung bình

GV: nhắc lại:
23
Sở dĩ Flo luôn có oxi hóa là -1 trong các hợp chất là vì
- Flo không có phân lớp d
- Flo có độ âm điện lớn nhất
Còn Cl, Br, I có phân lớp d nên ở trạng thái kích thích có nhiều
electron độc thân hơn nên có thể có các số oxi hóa -1, +1, +3, +5, +7
trong các hợp chất
Hoạt động 8: Củng cố
GV tổng kết:
- Nguyên nhân thể hiện tính oxi hóa mạnh của các halogen.
- Nguyên nhân các halogen có tính oxi hóa giảm dần từ F đến I
- Nguyên nhân sự giống nhau về tính chất hoá học cũng như thành
phần tính chất của các hợp chất của chúng.
24
Bài tập củng cố: (GV đưa một số BT củng cố phân hóa theo 3 mức độ)
Bài tập 1:
1. Nguyên tử nguyên tố X có cấu hình electron là 1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
3p
5
Xác định vị trí của X trong HTTH?
2. Một ion X
-

có cấu hình electron là : 1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
3p
6

Xác định vị trí của X trong HTTH?
3. Nguyên tử nguyên tố X có cấu hình electron là - ns
2
np
5
Xác định vị trí của X trong HTTH?
Bài tập 2:
1. Dựa vào cấu hình electron lớp ngoài cùng của nguyên tử và độ âm điện của
nguyên tố clo, hãy giải thích: Trong hợp chất của clo có thể là -1; +1; +3, +5,
+7.
2. Dựa vào cấu hình electron lớp ngoài cùng của nguyên tử và độ âm điện của
nguyên tố clo, hãy giải thích: Trong hợp chấtcủa clo có thể là -1,+1, +3, +5, +7.
3. Dựa vào cấu hình electron lớp ngoài cùng của nguyên tử và độ âm điện của
nguyên tố clo, hãy giải thích:
- Trong hợp chất của clo có thể là -1, +1, +3, +5, +7.
- Viết công thức phân tử, công thức cấu tạo và tên gọi các oxit và hiđroxit
của clo tương ứng với các số ôxi hoá là +1; +3; +5; +7.
- Hãy cho biết sự biến thiên tính bằng ôxi hoá, tính bền và tính axit của các
chất hiđroxit của clo ứng với số ôxi hoá bằng +1; +3; +5;+7.

25

×