SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
Mã số:………………
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TĂNG KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN NGÔN NGỮ
CHO HỌC SINH CHẬM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ LỚP 1A
TẠI TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
Người thực hiện: ĐOÀN THỊ NGỌC TÂM
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục:
- Phương pháp dạy học bộ môn:
- Phương pháp giáo dục:
- Lĩnh vực khác:
Có đính kèm:
Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác
Năm học: 2011 – 2012
SƠ LƢỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: ĐOÀN THỊ NGỌC TÂM
2. Ngày tháng năm sinh: 07/11/1986
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: 1549D, ấp 4, tổ 9, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại: CQ: 0613954171 ; ĐTDĐ: 0978340971
6. Fax: E-mail:
7. Chức vụ:
8. Đơn vị công tác: Trung tâm Nuôi Dạy Trẻ Khuyết tật Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân khoa học
- Năm nhận bằng: 2008
- Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục đặc biệt
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: dạy học sinh Chậm phát triển trí tuệ
Số năm có kinh nghiệm: 04 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
Một số biện pháp giúp tăng khả năng tập trung chú ý cho trẻ CPTTT từ 6 – 8 tuổi
ở lớp 1A tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật
1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TĂNG KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN NGÔN NGỮ
CHO HỌC SINH CHẬM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ LỚP 1A
TẠI TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhu cầu giao tiếp của con người là một trong những nhu cầu cần thiết trong
đời sống xã hội. Mọi trẻ em đều cần được giao tiếp. Đối với trẻ chậm phát triển trí
tuệ (CPTTT), giao tiếp giúp trẻ phát triển khả năng diễn đạt, bày tỏ nhu cầu và ước
muốn, giúp trẻ phần nào chủ động trong môi trường xung quanh, dễ dàng hòa nhập
vào cộng đồng xã hội.
Để có giao tiếp, trẻ em phải có ngôn ngữ. Vì vậy, ngôn ngữ của trẻ phát triển
tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt, góp phần quan trọng vào việc hình thành
và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ
dễ dàng tiếp cận với các môn học như: Làm quen với toán, làm quen chữ cái, âm
nhạc, tạo hình, kĩ năng sống….
Ngôn ngữ bao gồm: Nghe và hiểu, phản ứng với ngôn ngữ của người khác và
luân phiên trao đổi trong đàm thoại. “Nghe và hiểu” là một thành phần quan trọng,
góp phần xây dựng nên “ngôn ngữ tiếp nhận” cho trẻ. Ngôn ngữ tiếp nhận tốt sẽ
thúc đẩy quá trình tư duy, giúp cho trẻ có phản ứng lại với người đối thoại, có sự
trao đổi qua lại với người thân, với bạn bè, tham gia dễ dàng vào các trò chơi sinh
hoạt tập thể, giúp trẻ mau hiểu bài và nâng cao chất lượng học tập.
Giữa ngôn ngữ và tư duy có mối liên hệ chặt chẽ. Trẻ CPTTT có tư duy kém
nên khả năng tiếp nhận ngôn ngữ cũng bị suy giảm. Trẻ CPTTT có vốn từ nghèo
nàn, không hiểu lời nói, không hiểu yêu cầu của người khác nên trẻ không biết trả
lời câu hỏi, thực hiện yêu cầu sai, ảnh hưởng đến chất lượng các môn học bị kém.
Ngôn ngữ tiếp nhận bị suy giảm đã làm cho khả năng tư duy nhất là tư duy trừu
tượng bị suy giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng giao tiếp của ngôn ngữ, hạn
chế đáng kể đến các hoạt động vui chơi và hoạt động của trẻ.
Là giáo viên phụ trách lớp 1A (học sinh CPTTT), tôi nhận thức được vai trò
quan trọng của ngôn ngữ tiếp nhận trong tất cả các môn học cũng như trong các
sinh hoạt cuộc sống hằng ngày của các em. Tôi cố gắng sử dụng nhiều biện pháp
giảng dạy, phương pháp truyền đạt để giúp các em học sinh ngày càng có nhiều
vốn từ, hiểu nhiều cấu trúc ngữ pháp, nhận thấy sự đa dạng, phong phú và ý nghĩa
của mọi sự vật, sự việc đang tồn tại và hoạt động xung quanh cuộc sống của các
em.
Đúc kết từ những kinh nghiệm thực tế dạy học ở lớp, tôi xin giới thiệu đến các
bạn đồng nghiệp đề tài: “Một vài biện pháp giúp tăng khả năng tiếp nhận ngôn
ngữ cho học sinh CPTTT lớp 1A tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật” nhằm
giúp công tác giảng dạy đạt hiệu quả hơn thông qua việc phát triển ngôn ngữ tiếp
nhận cho trẻ CPTTT.
2
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Tiêu chí chẩn đoán trẻ CPTT
Định nghĩa theo DSM - IV (Tài liệu Chẩn đoán và Thống kê các bệnh về tâm
thần, một hệ thống phân loại), đưa ra các tiêu chí chẩn đoán cho trẻ khuyết tật trí
tuệ:
- Chức năng hoạt động của trí tuệ dưới mức trung bình đáng kể (chỉ số thông minh
IQ vào khoảng 70 hay thấp hơn dựa vào kiểm tra chỉ số thông minh).
- Thiếu hay khiếm khuyết trong hoạt động thích ứng, hạn chế ít nhất hai trong các
lĩnh vực sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sinh sống tại gia đình, kĩ năng xã hội và liên
cá nhân, sử dụng các tiện ích của cộng động, tự định hướng, kĩ năng học đường
hiệu quả, công việc, giải trí, sức khỏe và sự an toàn.
- Thời gian phát bệnh trước 18 tuổi. Sau 18 tuổi, trẻ có vấn đề về suy giảm chức
năng thần kinh thì đó không phải là trường hợp của chậm phát triển trí tuệ.
1.2. Hoạt động nhận thức của trẻ CPTTT
- Tư duy mang tính trực quan – cụ thể: Trẻ CPTTT nhận biết sự vật chủ yếu bằng
cách quan sát hình ảnh.
- Quá trình hình thành kiến thức chậm và không vững chắc: do chức năng vỏ não
bị suy giảm nên trẻ CPTTT gặp khó khăn khi tiếp thu kiến thức mới và dễ mất kiến
thức đã được tiếp thu.
- Ngôn ngữ chậm hơn so với trẻ bình thường cùng lứa tuổi: trẻ CPTTT có vốn từ ít
nên gặp khó khăn khi hiểu lời nói, hoặc không có từ để diễn tả, bắt chước phát âm
các tiếng không rõ.
- Trí nhớ ngắn hạn và máy móc: trí nhớ trẻ CPTTT có đặc điểm chậm nhớ, chóng
quên và ghi nhớ bằng hình ảnh, khó ghi nhớ bằng lời nói.
- Tính thụ động cao: trẻ CPTTT hay có biểu hiện thờ ơ với sự vật xung quanh và
không có hứng thú học tập. Trẻ phản ứng chậm khi trò chuyện với mọi người và
không thích tham gia chơi cùng các bạn.
- Khả năng chú ý: Trẻ CPTTT có thời gian tập trung rất ngắn và rất dễ bị phân tâm.
1.3. Đặc điểm chung về trở ngại trong tiếp thu ngôn ngữ của trẻ CPTTT
- Số lượng từ vựng hạn chế dẫn đến kém hiểu biết chung. Ở mỗi giai đoạn tuổi, trẻ
bình thường có thể dễ dàng học được một số lượng từ. Ví dụ: Từ 2 đến 3 tuổi, trẻ
tiếp thu ý nghĩa của nhiều từ. Trẻ có được khoảng 50 từ khi 2 tuổi rưỡi, đến khi 3
tuổi trẻ có 300 từ. Nhưng với trẻ CPTTT, các em có số lượng từ rất ít so với các trẻ
bình thường cùng độ tuổi.
- Khó khăn trong việc học các quy luật ngữ pháp như không sử dụng được các liên
từ, giới từ. Ví dụ : Khi quan sát con cá, giáo viên nói: “Con cá đang bơi ở trong
nước”, trẻ chỉ tiếp thu được phần lớn các từ trẻ quan tâm như: “con cá”, “bơi”,
“nước”, các từ còn lại trẻ cần được nghe lại nhiều lần và tập trung cao để hiểu
được cả câu nói.
3
- Khó khăn hơn trong việc hiểu ngôn ngữ giáo dục chuyên ngành. Ví dụ: Khi học
toán, giáo viên viết lên bảng nhiều chữ số và yêu cầu trẻ “Khoanh tròn số 1”,
nhưng trẻ thường có xu hướng khoanh tròn tất cả các chữ số ở trên bảng.
1.4. Những ảnh hưởng của khó khăn về ngôn ngữ tiếp nhận đến quá trình
phát triển của trẻ
a) Hạn chế khả năng giao tiếp
- Trẻ không hiểu được ý của người khác nên không biết phản ứng lại khi giao tiếp.
- Trẻ dễ bị thất vọng, nổi cáu hoặc thể hiện hành vi mang tính kích thích như: hét
lớn, khóc, tự đánh mình hoặc đánh người xung quanh.
- Trẻ không tự tin trong giao tiếp, có thể mặc cảm, tự ti, sống khép mình lại và vốn
từ của trẻ ngày càng hạn hẹp.
b) Hạn chế khả năng nhận thức, tư duy tưởng tượng
- Ngôn ngữ tiếp nhận của trẻ bị hạn chế sẽ dẫn đến quá trình tri giác, biểu tượng
của trẻ diễn ra chậm hơn.
- Trong quá trình học, các em sẽ gặp những khó khăn nhất định trong việc lĩnh hội
nội dung bài giảng, ảnh hưởng đến kết quả học tập không cao.
c) Sự phát triển chung của trẻ sẽ bị chậm so với độ tuổi về tất cả các mặt
- Khi ngôn ngữ tiếp nhận của trẻ kém, trẻ cần một quá trình lâu dài hơn so với trẻ
em cùng lứa tuổi để tích lũy kinh nghiệm sống, vốn từ, khả năng giao tiếp cũng
như sự phát triển về nhân cách.
- Do bị thụ động với các tương tác xã hội nên trẻ khó hòa nhập, thích ứng kém với
môi trường xung quanh.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Với một số ảnh hưởng lớn đến các quá trình tri giác, ngôn ngữ, tư duy, tôi
nhận thấy ngôn ngữ tiếp nhận có vai trò rất quan trọng trong việc tiếp nhận kiến
thức của trẻ. Để giúp trẻ CPTTT được lĩnh hội kiến thức về môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội một cách có hiệu quả, hứng thú học tập, việc tìm tòi, nghiên cứu
nhiều phương pháp, hình thức tổ chức học tập là một vấn đề thiết thực.
Sau đây, tôi xin đưa ra một số biện pháp giúp phát triển ngôn ngữ tiếp nhận
cho trẻ chậm phát triển trí tuệ.
2.1. Biện pháp 1: Luyện tập khả năng chú ý
Khả năng chú ý là yếu tố quyết định của giao tiếp. Đó là một phần của một quá
trình liên tục bắt đầu từ khi trẻ biết giao tiếp bằng mắt và tiếp tục cho đến khi trẻ có
thể diễn đạt nhu cầu và suy nghĩ của mình.
Khi trẻ có chú ý ánh mắt, nét mặt, trẻ có thể biết đáp lại, phản ứng lại tình cảm
với người đối diện. Thường trẻ với khó khăn ngôn ngữ không nhìn người nói. Một
trong những mục đích đầu tiên là tiếp xúc mắt.
Để tăng khả năng chú ý của trẻ, giáo viên có thể áp dụng một số biện pháp sau:
a) Kích thích các giác quan của trẻ
4
Năm giác quan trên cơ thể là: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu
giác. Mỗi giác quan có thể giúp trẻ tự tìm tòi, nhận biết những đặc tính riêng của
sự vật. Bằng sự vận dụng các giác quan của mình, trẻ được kích thích trí tò mò để
tìm hiểu về sự vật, sự việc đang được trẻ quan tâm.
Ví dụ: Bài tập với bàn tay của bé
Chuẩn bị: Miếng xốp, quả bóng nhỏ bằng cao su mềm, quả bóng nhỏ có gai
mềm
Tiến trình:
- GV ngồi bên phải trẻ, bàn tay phải dang thẳng về phía trước, lòng bàn tay hướng
lên cao.
- Bàn tay trái của GV cầm bàn tay phải của trẻ dang thẳng giống như vậy trước mặt
trẻ.
- GV nói “đóng” và gập bàn tay lại từ từ để trở thành cái nắm tay. Sau đó, GV nói
“mở” và trở lại vị trí ban đầu. GV kết hợp vừa thực hiện mẫu bên bàn tay phải vừa
giúp trẻ thực hiện với bàn tay trái.
- Khi trẻ đã tự thực hiện động tác “đóng”, “mở” trên cả hai bàn tay, GV đặt các vật
như: miếng xốp, bóng gai, bóng cao su mềm vào lòng bàn tay trẻ và lặp lại bài tập
nhiều lần.
- GV luôn nói các tiếng: “đóng”, “mở” mỗi lần trẻ thực hiện bài tập.
b) Mọi vật xung quanh đều trở thành đồ chơi
Đồ chơi là phương tiện hữu hiệu để kích thích sự chú ý của trẻ. Trẻ sẽ nói
nhiều về những đồ chơi mà trẻ thích. Phần lớn từ vựng của trẻ sẽ là tên gọi các vật
mà trẻ thích chơi và những hoạt động trẻ thực hiện trong trò chơi.
Qua quá trình hoạt động với đồ chơi, trẻ được rèn luyện các khả năng cho việc
học như: tăng chú ý, phát triển tư duy, phát triển ngôn ngữ tiếp nhận và biểu đạt,
rèn luyện vận động tinh.
Ví dụ: Trò chơi “Úp mở”
Chuẩn bị: 3 vật chứa khác nhau (tách, ly, chén), 3 cái tách giống nhau, 1 viên kẹo
Tiến trình:
- GV ngồi vào bàn đối diện với trẻ.
- Bước 1: Dùng 3 cái tách khác nhau để úp trên bàn trước mặt trẻ.
- Bước 2: Đong đưa viên kẹo trong tầm nhìn của trẻ và nói: “Con nhìn kìa! Viên
kẹo”.
- Bước 3: Để trẻ quan sát tay của GV giấu viên kẹo dưới một trong những cái tách
rồi bảo: “Con cầm viên kẹo”.
- Bước 4: Khi trẻ có khả năng quan sát và tự tìm được viên kẹo, GV lặp lại tiến
trình với 3 cái tách giống nhau.
- Lưu ý: Không quên khen trẻ và có phần thưởng nhỏ khi trẻ tìm đúng vật.
5
Hình1: Bé chơi “Úp mở”
c) Ngôn ngữ trao đổi với trẻ
Do trẻ CPTTT có kĩ năng xử lí âm thanh kém nên khi giao tiếp, chúng ta cần
một số chú ý như:
- Sử dụng lời nói với trẻ ngắn gọn, dứt khoát, rõ ràng.
Ví dụ: Khi hướng dẫn trẻ tập tô số 1, GV hướng dẫn trẻ thứ tự đường nét của số 1:
“Lên, xuống, gạch ngang”.
- Đặt ra yêu cầu đơn giản. Ví dụ: “Ngồi vào ghế!”, “Tô màu quả chuối!”, “Tìm
hình con voi!”
- Khen ngợi cho việc làm tốt của trẻ. Ví dụ: “Bé Thạch giỏi quá!”, “Bé Khôi ăn hết
cơm rồi”.
2.2. Biện pháp 2: Học cách chơi
Chơi là cách để trẻ khám phá thế giới. Tôi nhận thấy có hai trò chơi rất tốt cho
việc tiếp nhận ngôn ngữ cho trẻ. Đó là:
a) Chơi tưởng tượng
Trò chơi tưởng tượng góp phần quan trọng trong sự phát triển của trẻ. Chơi
tưởng tượng là sản phẩm thu được của quá trình trẻ tiếp nhận thực tế và được biểu
đạt ra ngoài. Trẻ được nhớ lại những thể nghiệm của chính bản thân trong cuộc
sống hàng ngày. Trong khi chơi tưởng tượng, trẻ còn được củng cố lại các kiến
thức mà mình tiếp nhận được, phát huy trí tưởng tượng vào trò chơi.
Ví dụ 1: Chơi đồ hàng
Chuẩn bị: Các vật gia dụng bằng nhựa gần gũi trong sinh hoạt hàng ngày với bé
như: Chén, muỗng, bếp ga, lược, ấm nước, dao nhựa cùn…
Tổ chức chơi:
- Hướng dẫn trẻ chơi trò nấu cơm, đúc cơm cho búp bê ăn, cho búp bê uống nước,
lau miệng, đánh răng, chải tóc em bé, đắp chăn, ru búp bê ngủ.
- Hướng dẫn trẻ chơi trò làm bác sĩ: Khám bệnh bằng ống nghe, phát thuốc, tiêm
thuốc cho bệnh nhân.
6
Hình 2: Bé cho búp bê ăn cơm Hình 3: Bé chơi làm bác sĩ
Ví dụ 2: Chuyến hành trình trên tàu
Chuẩn bị: Các tấm vé, mũ đội cho lái tàu, các ghế nhựa nhỏ.
Tổ chức chơi:
- Phân vai: Một em làm người lái tàu, các em
còn lại làm hành khách.
- Hành trình 1: Mua vé từ chú lái tàu.
- Hành trình 2: Ngồi vào các toa tàu và nói
theo chú lái tàu: “bí bo…”, “xình xịch…”,
“tin tin…”
- Hành trình 3: Xuống tàu và tạm biệt chú lái
tàu. Hình 4: Bé chơi đi tàu hỏa
b) Chơi lắp ghép:
Lắp ghép là trò chơi tốt để học ngữ vựng. Khi chơi lắp ghép, trẻ được rèn luyện
chú ý, vận động tinh và tương tác với người chơi.
Ví dụ: Bé ghép các khuôn hình
Chuẩn bị: 4 miếng hình ghép đơn giản với các mẩu ghép là: hình tròn, hình trái
tim, hình bông hoa, hình ngôi sao.
Tiến trình:
- Đặt 3 miếng ghép hình lên bàn nằm trong tầm nhìn của trẻ.
- Lấy 3 mẩu ghép ra khỏi miếng ghép rồi đặt bên cạnh.
- Giơ 1 mẩu ghép hình tròn và nói “hình tròn”. Chỉ vào một miếng ghép có ô trống
hình tròn, khi trẻ nhìn, GV nói “để vô”.
- Cùng với trẻ làm lại với 2 miếng ghép còn lại.
- Tháo các mẩu ghép ra, để trẻ tự lắp đặt vào.
- Tăng cường các miếng ghép lên (4 miếng).
7
- Khi cùng trẻ chơi, biểu hiện sắc thái tình cảm với các hành động của trẻ như:
“đúng rồi”, “giỏi quá”, “sai rồi”, “cố lên”, “bông hoa”, “đẹp quá”.
Hình 5: Bé chơi ghép hình
2.3. Biện pháp 3: Mở rộng thế giới thiên nhiên
Một số phụ huynh có quan niệm chăm sóc trẻ cẩn thận bằng cách giữ trẻ trong
nhà, không nên tiếp xúc với đất, cát, không được ra mưa, ra nắng, vì như thế sẽ làm
trẻ dễ bị nhiễm bệnh. Nhưng thật ra, thiên nhiên rất tốt cho trẻ. Hãy để trẻ sống
cùng thiên nhiên, hòa vào thiên nhiên. Thiên nhiên là thế giới thực, hấp dẫn hơn
tranh ảnh, hình ảnh di chuyển trên ti vi. Nhờ vậy, trẻ tiếp nhận được nhiều kích
thích, phát triển cảm giác và cảm xúc, cũng như thúc đẩy ngôn ngữ tiếp nhận cho
trẻ.
Thế giới xung quanh có biết bao điều mới lạ. Con người luôn không ngừng
khám phá sự kì bí của thiên nhiên. Mỗi trẻ CPTTT đều khao khát được hòa nhập
vào thế giới xung quanh mình.
Dưới đây là một số cách giúp trẻ chan hòa với thiên nhiên:
a) Dạo chơi trong công viên:
Khi vào công viên, trẻ có thể nghe thấy các
loại âm thanh phong phú như: Tiếng trẻ nhỏ nô
đùa, tiếng chim hót, tiếng lá xào xạc…
Trẻ được ngắm quan cảnh mới lạ, khác với
không gian thu hẹp trong nhà. Trẻ có thể nhìn
thấy các loại hoa, vòi phun nước, bươm bướm
bay, côn trùng sống trên mặt đất, trên cỏ.
Trẻ có thể chơi ném đá, gõ vào thân cây, vò
lá trong lòng bàn tay, ném những hòn sỏi lăn tăn
dưới mặt hồ. Hình 6: Bé đi chơi công viên
b) Bé chơi dưới sân trường:
Sân trường rộng rãi, có hoa cỏ và cây xanh sẽ giúp trẻ khám phá được nhiều
điều bổ ích. Các em được hít thở không khí trong lành sau thời gian học tập căng
thẳng trong lớp và lấy lại tinh thần để tiếp thu thêm kiến thức mới.
Hướng dẫn trẻ chơi với những vật có thể bay trong gió như: chong chóng, diều,
khinh khí cầu bằng nilon mỏng.
8
Cho trẻ chạy đuổi bắt những vật nhỏ như: bong bóng, lông vũ, đĩa giấy…
2.4. Biện pháp 4: Đưa trẻ vào thế giới ngôn ngữ
Cuộc sống bận rộn, nhiều trẻ ít được sự quan tâm, chăm sóc của ba mẹ. Hầu
hết các trẻ này ít được ba mẹ ôm ấp, chuyện trò, chia sẻ tình cảm. Các em chỉ được
đáp ứng nhu cầu ăn mặc nhưng thiếu hụt nhu cầu tình cảm. Một số trẻ có bảo mẫu
chăm sóc, phục vụ tối đa cho trẻ như: vệ sinh, ăn uống, mặc quần áo. Điều này làm
chậm lại quá trình học hỏi xung quanh cũng như tích lũy kinh nghiệm sống của trẻ.
Cho nên, muốn trẻ phát triển tôt, chúng ta hãy để trẻ được sống trong thế giới tích
cực, được khám phá và trải nghiệm. Và thế giới ngôn ngữ là một phần không thể
thiếu trong quá trình lớn lên của trẻ.
Tôi nhận thấy để tạo nên thế giới ngôn ngữ cho trẻ, người giao tiếp với trẻ cần
chú ý đến các yếu tố:
a) Đối tượng giao tiếp với trẻ:
Tất cả người thân bên cạnh trẻ đều là đối tượng giao tiếp với trẻ.
Khi ở nhà, ông bà, ba mẹ, anh chị em, người giúp việc phải luôn luôn nói
chuyện với trẻ. Nhiều phụ huynh bận rộn với công ăn việc làm nên để trẻ xem ti vi,
xem phim hoạt hình một mình, trẻ không có cơ hội bộc lộ tình cảm cũng như
không được nhận những tình cảm trẻ cần phải có.
Khi trẻ sinh ra và lớn lên, trẻ được gần gũi với các thành viên trong gia đình.
Những người thân này là người thầy đầu tiên giúp trẻ tiếp nhận thế giới bên ngoài,
đặc biệt là thế giới ngôn ngữ. Gia đình có thể dạy trẻ biết tên gọi những thành viên
trong nhà, bế trẻ ngồi trên đầu gối cùng hát và vỗ tay theo trẻ…
Ở lớp, giáo viên và các bạn là đối tượng giao tiếp với trẻ. GV khuyến khích các
bạn cùng chơi, vui đùa, dạy bạn hát, nhảy múa, đuổi bắt cùng bạn.
Vào giờ ra chơi, tôi khuyến khích trẻ chơi cùng các bạn để tăng khả năng tương
tác với các trò chơi có trong sân trường như: cầu tuột, xích đu, nhà banh.
Hình 7: Bé chơi cầu tuột
b) Môi trường xung quanh:
Ở lớp, tôi cố gắng trang trí lớp học vừa có tác dụng làm đẹp vừa có tác dụng
kích thích sự tìm tòi của trẻ. Ví dụ: Trên các bức tường, tôi trang trí thành các góc:
9
Gia đình của bé, khu rừng nhỏ, thế giới hoa quả. Mỗi góc tường đều là bài học gần
gũi, thân quen với trẻ.
Tôi cũng khuyến khích gia đình biến những bức tường trống trải ở nhà thành
thế giới sinh động với những bức tranh như động vật nuôi, hoa quả, động vật sống
trong rừng,…
Hình 8: Các góc trang trí ở lớp học
c) Tình huống để phát triển ngôn ngữ tiếp nhận:
Mọi tình huống trong sinh hoạt hàng ngày đều là cơ hội tốt để trẻ được làm
quen và được học ngôn ngữ. Ở mỗi tình huống trẻ có thể được học các danh từ,
động từ, âm thanh và các câu nói riêng.
10
Dưới đây là bảng gợi ý một số tình huống:
Sinh
hoạt
Danh từ
Động từ
Âm thanh và câu nói
Giờ tắm
nước, xà phòng,
khăn, dầu gội,
bông tắm, các
phần của cơ
thể…
rửa, nước chảy, chà,
lau khô, cay mắt…
- Đổ nước vào thùng.
- Xối nước lên người.
- Thoa xà phòng lên tay.
- Lau khô lưng.
- Cay mắt quá!
Giờ ăn
cái muỗng, cái
chén, tên món
ăn, tên đồ ăn
trong chén, ghế,
đũa…
ăn, uống, nhai, thổi,
cắt, xúc…
- Muỗng của bé.
- Ăn nữa không?
- Nóng quá!
- Thổi đi!
- Cầm muỗng lên.
….
Giờ thay
quần áo
cái áo, cái quần,
đồ dơ, cái thau,
nút áo …
đứng lên, ngồi xuống,
cởi ra, cài nút, mặc
vào, cởi ra, …
- Cái áo đẹp quá!
- Giơ tay lên.
- Cài nút áo lại.
- Bé thay áo nhé!
….
2.5. Biện pháp 5: Kết hợp âm nhạc vào giao tiếp
Ngay từ nhỏ, trẻ đã được lắng nghe những lời ru ngọt ngào của mẹ. Trẻ được
làm quen với giai điệu, tiết tấu, ca từ, cung bậc trầm bổng của âm nhạc thấm vào
tâm hồn trẻ từ đó. Vì vậy, khi có âm nhạc, trẻ tiếp nhận ngôn từ mau hơn những lời
nói bình thường.
a) Đưa bài hát vào tiết học:
Những yêu cầu bằng lời khó giúp trẻ tiếp thu, nhưng khi có sự kết hợp giai
điệu, tiết tấu vào bài giảng, trẻ cảm thấy bài học gần gũi và mau chóng tiếp thu
kiến thức hơn.
Ví dụ: Bé đếm ngón tay
Ở môn Toán, trong bài học “Đếm số từ 1 đến 5”, trẻ gặp khó khăn khi đếm
theo thứ tự, trẻ có thể bị lẫn lộn như: “1, 3, 2, 5, 4”, tôi dạy trẻ hát bài “Ngón tay
nhúc nhích”.
GV vừa hát vừa hướng dẫn trẻ nhúc nhích các ngón tay tương ứng với lời bài
hát: “Một ngón tay nhúc nhích này, hai ngón tay nhúc nhích này, ba ngón tay nhúc
nhích này, bốn ngón tay nhúc nhích này, năm ngón tay nhúc nhích này, năm ngón
tay nhúc nhích cũng đủ làm ta vui cười”.
b) Biểu diễn theo giai điệu:
Những động tác có liên quan đến lời bài hát đều có liên hệ trực tiếp đến ý nghĩa
của ca từ trong bài hát. Đối với trẻ, việc tham gia biểu diễn những động tác là vô
cùng thú vị. Thông qua việc thực hiện biểu diễn theo giai điệu, trẻ sẽ dần dần có
được khả năng lắng nghe theo tiết tấu và cảm thụ ý nghĩa của lời ca.
11
Ví dụ: Trẻ cùng GV thực hiện các động tác theo ca từ như bài hát dưới đây:
“- Đưa tay ra nào, nắm lấy cái tai
Lắc lư cái đầu, lắc lư cái đầu
Ồ sao bé không lắc, ồ sao bé không lắc!
- Đưa tay ra nào, nắm lấy cái eo
Lắc lư cái mình, lắc lư cái mình
Ồ sao bé không lắc, ồ sao bé không lắc!
- Đưa tay ra nào, nắm lấy cái chân
Lắc lư cái đùi, lắc lư cái đùi
Ồ sao bé không lắc, ồ sao bé không lắc!”
2.6. Biện pháp 6: Kết hợp chặt chẽ giữa trực quan và ngôn ngữ
Kết hợp giữa trực quan và ngôn ngữ là biện pháp cần thiết, đòi hỏi phụ huynh,
giáo viên đều phải cung cấp cho trẻ khi tham gia giao tiếp với trẻ.
Để hiểu được từ ngữ, trẻ phải được trải nghiệm ý nghĩa của từ đó. Ví dụ: Khi
giáo viên nói “vỗ tay”, trẻ không hiểu vỗ tay là như thế nào. Trẻ phải trải qua các
bước: Xem mẫu, thực hiện có hướng dẫn, tự thực hiện. Qua nhiều lần thực hiện vỗ
tay, trẻ hiểu được ý nghĩa của động từ này và có thể làm được khi có yêu cầu: “Vỗ
tay”.
Trẻ CPTTT gặp khó khăn về tư duy, biểu tượng, nhận thức nên người giáo dục
phải hướng dẫn chu đáo, tối đa để các em tiếp nhận được ý nghĩa của từ ngữ. Dưới
đây là một số kết hợp để giúp trẻ dễ dàng tiếp nhận ngôn ngữ:
a) Kết hợp giữa hành động và tiếng nói
Khi học từ ngữ chỉ hành động, các em cần được quan sát mẫu và thực hiện
hành động đó.
Ví dụ: Bé học nhảy
Chuẩn bị: Nhạc thiếu nhi
Tiến trình:
- Đứng đối diện với trẻ, nắm tay trẻ, nhảy cao bằng hai chân và nói: “Nhảy lên”.
- Nhìn và yêu cầu trẻ: “Nhảy lên”, dùng lực ở đôi tay nhấc trẻ lên và nhảy cùng với
trẻ.
- Mở nhạc, nhảy độc lập với trẻ, không nắm tay trẻ.
- Yêu cầu trẻ nhảy lên theo nhịp vỗ tay của GV.
b) Kết hợp giữa hình ảnh và tiếng nói
Khi học từ ngữ chỉ sự vật, các em cần được quan sát vật mẫu, tranh ảnh để hình
thành biểu tượng cho từ ngữ đó.
Ví dụ: Khi học bài “Con cá” ở môn Tự nhiên xã hội, GV chuẩn bị thau nước và
một vài con cá giúp trẻ được quan sát cụ thể, cùng trẻ nói chuyện và giúp trẻ làm
quen với các từ như “con cá”, “đang bơi”, “dưới nước” .
c) Kết hợp giữa âm thanh và tiếng nói
Để nhận biết một âm thanh, trẻ phải hiểu âm thanh đó phát ra từ đâu và được
nghe âm thanh đó nhiều lần.
Ví dụ: Trò chơi nhận biết âm thanh
12
Chuẩn bị: Trống, còi, lục lạc
Tiến trình:
- Lần lượt thực hiện: Đánh trống, thổi còi, vỗ lục lạc.
- Cho trẻ tự thực hiện lại với các vật trên.
- Cho trẻ nhắm mắt lại, thực hiện một động tác đánh trống, yêu cầu chỉ vào vật
phát ra tiếng kêu.
- Thực hiện lại với các vật khác.
d) Kết hợp giữa sắc thái tình cảm và tiếng nói
Để nhận biết tính chất của một sự vật (nóng, lạnh, hiền, dữ, đẹp, xấu …), trẻ
cần được cung cấp tính chất đó là như thế nào và biểu hiện tình cảm đối với tính
chất đó ra sao.
Ví dụ: Nhận biết nóng và lạnh
Chuẩn bị: Hai cái tách, bình nước ấm và bình nước lạnh
Tiến trình:
- Rót nước nóng vào một cái tách.
- Đặt bàn tay sờ vào cái tách và nói: “Nóng quá”, thể hiện nét mặt nhăn mặt vì bàn
tay nóng quá.
- Rót tiếp nước lạnh vào cái tách kia.
- Đặt bàn tay sờ vào cái tách và nói: “Lạnh quá”, thể hiện nét mặt ngạc nhiên vì
bàn tay lạnh quá.
- Cho trẻ sờ vào mỗi cái tách nhiều lần kèm theo với lời nói: “Nóng quá”, “Lạnh
quá”.
2.7. Biện pháp 7: Dạy Thủ công và Mĩ thuật
Các sản phẩm của hai bộ môn Thủ công và Mĩ thuật được mô phỏng lại từ các
sự vật, sự việc ở xung quanh trẻ. Các sản phẩm này mau chóng giúp trẻ hình thành
biểu tượng về các sự vật, sự việc mà bản thân sản phẩm muốn thể hiện.
Được nhìn sản phẩm của mình làm ra, trẻ rất thích thú và phấn khởi. Nhờ có
tinh thần tích cực ở các hoạt động tạo hình, trẻ dễ dàng khắc sâu hình ảnh của sự
vật và có thể có tiếp nhận hình ảnh của sự vật vào não bộ.
Có nhiều hình thức để mô phỏng lại thế giới xung quanh qua hai bộ môn Thủ
công và Mĩ thuật như:
a) Tô màu
Trẻ được quan sát và tô màu những con vật gần gũi, các loại phương tiện giao
thông, những cảnh vật thiên nhiên như vườn hoa, ông mặt trời, cây xanh có quả,
quan cảnh em nhỏ dạo chơi công viên cùng bố mẹ, cảnh đường phố nhộn nhịp,
cảnh bé đi tắm biển…
b) Vẽ tranh:
Trẻ được học vẽ hoặc đồ theo nét vẽ các hình đơn giản như chùm bong bóng,
bông hoa, quả dưa hấu….Trẻ được tô màu các hình vẽ, học cách phối màu thích
hợp để tạo nên thế giới sống động trong trang vở như bông hoa màu đỏ, cái lá màu
xanh, con gà màu vàng….
c) Nặn đất sét
Trẻ được học cách dùng đôi bàn tay nhào nặn đất sét thành các mẫu hình đơn
giản như cái vòng, sợi dây chuyền, viên bi….
13
d) Cắt dán
Trẻ được học thao tác với cái kéo và tờ giấy, được quan sát xem GV cắt giấy
thành những bông hoa, con bướm, cái thuyền…. và tự tay dán những sản phẩm đó
vào quyển vở của mình.
e) Xâu hạt
Trẻ được hướng dẫn xâu các hạt vào sợi dây, được biết công dụng của chuỗi
hạt vừa tạo ra giống như cái vòng đeo tay hay sợi dây chuyền trên cổ của bé.
g) Xếp giấy
Các sản phẩm xếp giấy như cái thuyền, cái quạt, máy bay giúp trẻ liên hệ với
vật thật bên ngoài, cầm quạt giấy phe phẩy bàn tay tạo ra gió mát, phóng máy bay
giấy xem vật di chuyển nhanh trong không khí, thả thuyền giấy trôi trên mặt
nước…
h) Xếp khối gỗ
Trẻ được học xếp các khối gỗ thành nhiều hình dạng như hàng rào, tàu hỏa, xe
ô tô, nhôi nhà….Bên cạnh đó, trẻ còn được học nhận diện hình khối các khối gỗ,
màu sắc của mỗi khối gỗ….
2.8. Biện pháp 8: Phân bố bài tập thành những bước nhỏ
Khả năng tư duy của trẻ CPTTT không cao nên việc tiếp nhận ngôn ngữ để giải
quyết một yêu cầu rất khó đối với các em. Vì vậy, để giúp trẻ hiểu được yêu cầu,
người GV cần phải cho HS có thời gian, phân bố bài tập thành nhiều bước nhỏ, học
từng bước và kết hợp các bước nhỏ lại để hoàn thành bài tập.
Trẻ CPTTT có tính chủ động thấp, trẻ khó làm quen với cái mới, khi có bài tập
mới lạ, các em cảm thấy tự ti không có thể làm được. Việc chia thành các bước
nhỏ, học sinh được thực hiện theo các bước đơn giản, phù hợp với khả năng, giúp
các em tự tin thực hiện yêu cầu, tiếp nhận cái mới làm kiến thức cho mình.
Ví dụ: Khi dạy bài “Vẽ bong bóng” thuộc môn Mĩ thuật, tôi cố gắng hướng dẫn
học sinh vẽ theo từng bước nhỏ như sau:
Bước 1: Vẽ hình tròn tạo thành quả bong bóng.
Bước 2: Vẽ sợi dây cho quả bong bóng.
Bước 3: Vẽ cái nơ cột quả bong bóng.
Bước 4: Tô màu cho quả bong bóng.
Trên đây là một số biện pháp giúp tăng khả năng tiếp nhận ngôn ngữ cho học
sinh chậm phát triển trí tuệ. Mỗi trẻ CPTTT trong lớp là những cá thể riêng biệt với
14
những dạng tật cũng khác nhau. Do đó, để việc giáo dục đạt hiệu quả tốt, giáo viên
cần kết hợp các biện pháp với nhau một cách linh hoạt, khéo léo ở mọi hoạt động
học tập, vui chơi cũng như sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Trong thời gian một năm học, sau quá trình vận dụng linh hoạt các biện pháp
trên, tôi nhận thấy các em học sinh có những tiến bộ rõ rệt về khả năng tiếp nhận
ngôn ngữ.
Dưới đây là Bảng thống kê xếp loại học lực của học sinh lớp 1A về khả năng
tiếp nhận ngôn ngữ vào hai thời điểm Giữa học kì I và Cuối học kì II trong năm
học 2011– 2012:
Nội dung
Sỉ
số
lớp
GIỮA HỌC KÌ I
CUỐI HỌC KÌ II
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
Hiểu từ
vựng trong
cuộc sống
hàng ngày
5
1-20%
1-20%
3-60%
2-40%
3-60%
Hiểu các
yêu cầu
đơn giản
5
1-20%
2-40%
2-40%
2-40%
2-40%
1-20%
Tương tác
khi chơi
5
1-20%
1-20%
3-60%
1-20%
2-40%
2-40%
Biểu đạt
tình cảm
5
1-20%
2-40%
2-40%
3-60%
2-40%
Bảng thống kê cho thấy thời gian đầu năm học, học sinh trong lớp gặp nhiều khó
khăn trong tiếp nhận ngôn ngữ. Các em có số lượng từ vựng rất ít, không hiểu các
yêu cầu đơn giản, phản ứng lại lời nói chậm, không thích giao tiếp với cô giáo và
các bạn trong lớp.
Qua thời gian một năm học được học tập và sinh hoạt ở lớp, ở trường, đa số các
em có những biểu hiện tích cực khi tiếp nhận ngôn ngữ như sau:
- Học sinh hiểu được nhiều từ vựng.
- Học sinh hiểu và thực hiện được một số yêu cầu đơn giản trong sinh hoạt hằng
ngày.
- Học sinh có biểu đạt tình cảm phong phú hơn trong giao tiếp.
- Học sinh có tiến bộ trong hợp tác chơi một số trò chơi đơn giản.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG ĐỀ TÀI
Để trẻ CPTTT được phát triển ngôn ngữ tiếp nhận tốt, qua kinh nghiệm thực tế,
tôi có một số đề xuất sau:
1. Đối với giáo viên dạy trẻ CPTTT
- Kết hợp linh hoạt các biện pháp vào hoạt động giảng dạy.
- Sưu tầm nhiều đồ chơi và trò chơi để lôi cuốn trẻ tham gia học tập.
15
- Không ngừng trao đổi và học tập kinh nghiệm giảng dạy.
- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để rèn luyện và theo dõi sự tiến bộ của trẻ.
2. Đối với Trung tâm và các cấp quản lí ngành
- Thường xuyên tổ chức cho trẻ có những chuyến tham quan đến những địa
điểm gần ở địa phương như công viên, siêu thị, di tích lịch sử, nhà sách… để trẻ có
những bài học trải nghiệm thực tế.
- Xây dựng Trung tâm can thiệp sớm ở mỗi địa phương.
- Thành lập câu lạc bộ các bà mẹ có con CPTTT để giúp phụ huynh học tập và
trao đổi lẫn nhau về kinh nghiệm nuôi con.
3. Đối với phụ huynh
- Sắp xếp thời gian hợp lí để dạy trẻ học và chơi với trẻ.
- Kết hợp với giáo viên để có phương pháp dạy trẻ phù hợp.
- Phát huy tính tích cực của trẻ.
♦ Trên đây là một số kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy ở lớp để giúp học
sinh chậm phát triển trí tuệ tăng khả năng tiếp nhận ngôn ngữ. Với tấm lòng yêu
thương trẻ và tâm huyết với nghề nghiệp, mỗi giáo viên đều không ngừng học hỏi,
tìm tòi kinh nghiệm, không ngừng sáng tạo và đổi mới phương pháp dạy học. Do
đó, tôi nhận thấy trên đây chỉ là một số kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã đúc kết từ thực
tế. Đề tài này còn nhiều thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến từ các cấp lãnh đạo
của ngành, của quý đồng nghiệp để chuyên đề đạt được hiệu quả tốt hơn.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ “Hiểu và đáp ứng nhu cầu giáo dục đặc biệt trong lớp hòa nhập” - Tổ chức giáo
dục, khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội
-2002.
2/ “Từng Bước nhỏ, quyển 3 – Kĩ năng giao tiếp” – Tài liệu của Chương trình can
thiệp sớm.
3/ “Phát triển ngôn ngữ sớm” – Linda Mawhinney, Mary Scott Mc Teague.
4/ “Các trò chơi nhận thức và học tập” – Thanh Huyền – Nhà xuất bản văn hóa
thông tin, Hà Nội.
5/ “60 bí quyết nâng cao chỉ số IQ cho bé” – H. Rusell – Nhà xuất bản Hồng Đức,
Hà Nội.
Biên Hòa, ngày 14 tháng 5 năm 2012
NGƢỜI THỰC HIỆN
Đoàn Thị Ngọc Tâm
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TT NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Biên Hòa, ngày tháng năm 2011
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2011 - 2012
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TĂNG KHẢ NĂNG
TIẾP NHẬN NGÔN NGỮ CHO HỌC SINH CHẬM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ
LỚP 1A TẠI TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT ĐỒNG NAI
Họ và tên tác giả: ĐOÀN THỊ NGỌC TÂM Tổ: Giáo viên
Lĩnh vực:
- Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học bộ môn:
- Phương pháp giáo dục - Lĩnh vực khác:
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị Trong Ngành
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng tại đơn vị có hiệu quả
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách: Tốt Khá Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực
hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt Khá Đạt
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt
hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt Khá Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƢỞNG ĐƠN VỊ