Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Ôn thi Chủ Nghĩa Duy Vật Lịch Sử Có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240 KB, 38 trang )

HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
Trình bày học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế xã hội. Vận dụng để phân tích những sai
lầm khuyết điểm trong việc nhận thức và vận dụng học thuyết này trong thời kỳ trước đổi mới
và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ
TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn
phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”. (VK9 – Tr85)
Học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở thế giới quan và là căn cứ khoa học
cho Cách mạng XHCN trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Trong thực tế hiện nay,
từ khi CNXH thế giới lâm vào thoái trào nhưng nước ta vẫn kiên trì khẳng định con đường phát
triển đất nước là xây dựng CNXH , vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã
xác định : “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất
cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”. (VK9
– Tr85). Để làm rõ luận điểm trên, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích học thuyết Mác Xít về hình
thái kinh tế - xã hội và quá trình vận dụng của Đảng ta trong thực tế nhằm tiếp tục làm sáng tỏ
con đường đi lên CNXH ở nước ta và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Cách mạng Việt
Nam.
Theo quan điểm Mác xít thì “hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiểu
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế -
xã hội là sự khái quát dùng để chỉ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nói cách khác
nó là một nấc thang của lịch sử xã hội, là sự khái quát dùng để phân biệt giữa giai đoạn lịch sử
này với giai đoạn lịch sử khác.
Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm 3 yếu tố cơ bản cấu thành đó là: lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng giữa các yếu tố cơ bản đó có quan hệ biện
chứng với nhau tạo thành các quy luật cơ bản chi phối sự vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội và trở thành tiêu chuẩn khách quan khoa học cho việc phân loại xã hội.
Một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của hình thái KT-XH là
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Quy luật


này chỉ ra rằng : lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất sau khi
hình thành và tồn tại nó có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết
định quan hệ sản xuất thể hiện qua việc trình độ lực lượng sản xuất đang tồn tại đặt ra yêu cầu
quan hệ sản xuất phải phù hợp với nó mà không đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn nó. Song, quan
hệ sản xuất không hoàn toàn phù hợp một cách thụ động vào lực lượng sản xuất, nó có vai trò
độc lập tương đối trong sự tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng : phù hợp hoặc không phù hợp. Quan hệ sản
xuất tác động phù hợp với lực lượng sản xuất, nghĩa là quan hệ sản xuất sau khi hình thành và
tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất và sau đó nó có vai trò tạo ra sự
liên kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho tất cả
các yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy mà tạo ra năng suất
lao động cao hơn. Hai là khi quan hệ sản xuất hình thành và tồn tại không phù hợp với đòi hỏi
tất yếu của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất
dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở
2 khía cạnh : một là khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới của lực lượng
Trang 1
sản xuất, hai là trường hợp chú thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình” quan
hệ sản xuất”, “cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Cả 2 trường hợp này đều kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, nhưng không có nghĩa là lực lượng sản xuất đứng im tại chổ
Quy luật thứ hai chi phối sự vận động và phát triển của hình thái KT-XH là quy luật về mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (quan hệ sản xuất) và kiến trúc thượng tầng. Quy luật
này khẳng định rằng cơ sở hạ tầng là quan hệ cơ bản quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến
trúc thượng tầng sinh ra từ cơ sở hạ tầng nhưng nó có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại cơ
sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc
thượng tầng tương ứng qui định tính chất, cơ cấu và mục đích hoạt động của kiến trúc thượng
tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng phải thay đổi theo nhưng sự thay đổi
của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá lâu dài, một cách biện chứng. Sự tác động trở lại của kiến
trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện qua vai trò định hướng chính trị cho hoạt động
kinh tế theo yêu cầu mục đích của giai cấp thống trị, mà trong đó N/N là thiết chế quan trọng
nhất khi tác động trở lại kinh tế. Kiến trúc thượng tầng cũng có nhiệm vụ bảo vệ và phát triển

cơ sở kinh tế đã sinh ra nó. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng có thể diễn
ra 2 khả năng sau đây : một là phù hợp với tính tất yếu kinh tế, với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất thì có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển; hai là do yếu kém và sai lầm của kiến
trúc thượng tầng tác động không phù hợp với quy luật kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển của
đời sống kinh tế. Trong những trường hợp đặc biệt, kiến trúc thượng tầng có thể tác động làm
đảo lộn nhanh chóng cơ sở hạ tầng nhưng suy đến cùng thì kiến trúc thượng tầng vẫn bị kinh tế
quyết định
Đấu tranh giai cấp cũng là một trong những động lực quan trọng của sự phát triển các hình
thái KT-XH khi xã hội có giai cấp đối kháng. Khi nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên
cứu quy luật mâu thuẫn ta thấy rằng mâu thuẫn nói chung là nguồn gốc, động lực cho sự phát
triển. Nói cách khác, động lực phát triển của xã hội nằm ngay trong chính phương thức SX với
việc giải quyết giữa LLSX và QHSX. Về mặt xã hội, mâu thuẫn này là mâu thuẫn giai cấp giữa
một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng SX tiến bộ, phát triển và một bên
là giai cấp thống trị, phản động đại diện cho QHSX lạc hậu đang kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất đấu tranh với nhau. Với ý nghĩa đó, đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã
hội phát triển, đồng thời là cũng là phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ SX. Tuy nhiên, trong XH có giai cấp thì đấu tranh giai cấp không phải là động lực
duy nhất mặc dù nó là động lực vô cùng quan trọng. Ngoài đấu tranh GC ra còn cò các động lực
khác mà vai trò vị trí của mỗi động lực như văn hóa, giáo dục, KHKT, tư tưởng đạo đức đều
phát huy tác dụng trong từng giai đọan lịch sử nhất định.
Trong đấu tranh giai cấp, vai trò của N/N là hết sức quan trọng. N/N là một trong những
yếu tố cấu thành của kiến trúc thượng tầng, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của N/N là từ
kinh tế, từ sự phát triển của LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến sự ra đời và tồn tại
của N/N là do có chế dộ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. N/N là một tổ
chức của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các
chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH, thực hiện những mục đích để bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị trong xã hội. Trong sự vận động và phát triển của các hình thái KT-XH
thì N/N có tác động rất lớn trong cuộc cách mạng xã hội, thay thế một hình thái kinh tế xã hội
này bằng một hình thái kinh tế xã hội khác.
Học thuyết Mác cũng chỉ ra rằng động lực của sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã

hội chính là hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan. Quá
trình phát triển đó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Mác viết “Tôi coi sự phát triển của những
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Phạm trù tự nhiên được dùng đi
Trang 2
liền với từ “lịch sử” ở đây được đề cập ở góc độ tính tất yếu của sự vận động phát triển lịch sử.
Đó là sự phát triển vận động không ngừng của lịch sử xã hội từ thấp đến cao, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người hoặc bất cứ một lực lượng xã hội nào mà nó do các quy
luật kinh tế - xã hội khách quan vốn có của bản thân xã hội quyết định mà trong đó trước hết và
cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao
hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể nhất định
Bên cạnh việc khẳng định sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên, Mác cũng cho rằng không phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải
qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và
chủ quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch
sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch sử. V.I.Lê-nin đã cũng đã nói con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau; điều đó tuỳ thuộc vào trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo người, hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát
triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; còn hình thức quá độ gián tiếp là con
đường phát triển rút ngắn, phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - con đường từ tiền tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong quan niệm của V.I.Lê-nin, tất cả các loại
hình khác nhau của sự phát triển xã hội - phát triển tuần tự hay phát triển rút ngắn - đều phải
tuân theo quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Phát triển rút
ngắn đòi hỏi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan mới có thể thực hiện được.
Dựa vào các quy luật khác quan và học thuyết của Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã
hội, Đảng ta đã vận dụng những lý luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo sự vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội thì
chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH là sự phát triển tất yếu lịch sử của CNTB. Đối

với đất nước ta một quốc gia chưa trãi qua thời kỳ phát triển TBCN thì để đi tới CNXH, Đảng
ta đã chọn lựa con đường phát triển rút ngắn - hay nói theo cách của Lênin phát triển không
phải trãi qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên do trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nhận thức của Đảng và N/N ta về quá
trình “phát triển rút ngắn” chưa đầy đủ, toàn diện cộng với bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội
nên việc vận dụng “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đã có nhiều sai lầm, muốn rút
ngắn thật nhanh quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội nên đã “bỏ qua” quá giới hạn, vi phạm các
quy luật khách quan khi muốn tạo ra những bước nhảy vọt về kinh tế trong khi điều kiện chưa
cho phép. Văn kiện ĐH Đảng lần VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và
do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết , Đại hội IV chưa
xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên”
Việc sai lầm do “bỏ qua những bước đi cần thiết” được thể hiện trong các chủ trương chính
sách lớn của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới. Trước nhất đó là việc bỏ qua bước trung gian
quá độ kinh tế hàng hóa TBCN, phủ nhận các hình thức, bước đi mang tính quá độ từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn - nội dung mà trước đây CNTB ra đời nó đã từng thể hiện. Chính vì vậy,
việc phát triển lực lượng SX không được chú trọng , đã để kéo dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ
công, đầu tư công nghiệp nặng không đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan không chú ý chiều
sâu. Trong việc đề ra chủ trương, chính sách, Đảng và N/N ta đã bỏ qua không chú ý vận dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật, những quy luật của SX hàng hóa đang tồn tại khách quan
vàp việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế.
Trang 3
Cũng trong thời kỳ này, Đảng và N/N ta do chủ quan, nóng vội muốn cải tạo nhanh quan
hệ SX nên đã áp đặt một mô hình quan hệ sản xuất “cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Nó
thể hiện qua việc “nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN” để chỉ còn
lại 2 thành phần kinh tế : quốc doanh và tập thể. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng
ta đã có xu hướng tổ chức quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn
mà không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ. Đồng
thời việc xác lập quan hệ SX cũng không đồng bộ “về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc
thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức

quản lý và chế độ phân phối”. Bên cạnh đó, việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, chính
sách kinh tế đối ngoại khép kín đã làm kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản
xuất dẫn đến sản xuất đình trệ, kinh tế không phát triển, lạm phát gia tăng. Mặt khác trong kiến
trúc thượng tầng, đã buông lỏng chuyên chính vô sản, bộ máy N/N nặng nề, nhiều tầng, nhiều
nấc, cồng kềnh kém hiệu lực dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã tự phê phán nghiêm túc về những sai lầm mắc phải, nhận
thức lại quan niệm bỏ qua chế độ TBCN một cách đúng đắn, đầy đủ hơn. Quan điểm đó đã
được Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX bổ sung hoàn thiện hơn. Văn kiện Đại hội IX của
Đảng đã khẳng định “Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN “Điều này có nghĩa
là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, chúng ta không thể để quan hệ sản xuất tư hữu thống trị,
không để cho chính quyền rơi vào tay tư sản, không được để mất vai trò lãnh đạo của Đảng,
không được để N/N mất vai trò quản lý kinh tế - xã hội, kinh tế N/N mất vai trò chủ đạo. Bên
cạnh việc bỏ qua những nội dung trên, khi xây dựng mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
CNXH thì phải chủ động kế thừa biện chứng những nhân tố hợp lý của cả cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của CNTB.
Về lộ trình đi lên CNXH, Đại hội IX cũng đã khẳng định : “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ
TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn
phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”. (VK9 – Tr85)
Như vậy, rõ ràng nhận thức lý luận của Đảng về quá trình quá độ đi lên CNXH đã xác định
đây là một quá trình lâu dài để tạo ra sự biến đổi về chất (đối với quan hệ SX, lực lượng SX,
kiến trúc thượng tầng), nó phải trải qua nhiều chặng đường, bước đi thích hợp và nhiều hình
thức trung gian về tổ chức kinh tế - xã hội.
Như chúng ta biết, trong quan niệm triết học Mác - Lênin, tiến trình phát triển của lịch sử
nhân loại được qui định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi sự phát triển rút ngắn
đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực
lượng sản xuất và do vậy, về thực chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn
hay bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất. Nước ta còn nghèo, lực

lượng SX kém phát triển nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn cho nên phải tập trung sức
phát triển LLSX. Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với tốc
độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng lao
động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người được tăng lên đáng kể. Điều đó cho
phép chúng ta có thể rút ngắn các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự phát triển
lực lượng sản xuất
Đồng thời với việc tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất qua con đường
CNH-HĐH, Đảng cũng đã xác định việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn
quá độ là một tất yếu khách quan, đây là bước đi tuần tự trong việc phát triển Các chủ trương
Trang 4
chính sách của Đảng và N/N ta từ sau Đại hội VI đến nay đã khẳng định : các thành phần kinh
tế là những bộ phận cấu thành phần kinh tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần kinh tế N/N phải giữ
vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển. .
Sự phát triển của LLSX đòi hỏi phải có quan hệ SX phù hợp. Đại hội 9 đã xác định : “Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất trên cả 3 mặt : sở hữu,
quản lý và phân phối”
Đại hội Đảng lần VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX, chúng ta phải thiết
lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của N/N. Như vậy, từ việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã
thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu SX và các loại hình tổ chức kinh tế
gắn liền với các hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng thành phần kinh tế.
Chính điều này đã tạo ra sức sống động cho sự phát triển kinh tế, tạo ra được nhiều sản phẩm
do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của các thành phần kinh tế. Văn kiện
Đại hội IX cũng đã xác định việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu không
thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là một quá trình kinh tế - xã hội lâu dài,
qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao …
Song song với sự đổi mới về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng bắt đầu từ việc
đổi mới về chính trị , văn kiện Đaị hội 8 đã chỉ rõ “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế

với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị"
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, có sự đan xen và
đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã hội và cái không phải chủ
nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức trung gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
quá độ. Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường phát
triển rút ngắn nhằm mục tiêu phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại
trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan; khoa học và công nghệ có
bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của
lực lượng sản xuất đây chính là những điều kiện khách quan vừa là thách thức nhưng cũng
vừa là cơ hội đối với con đường phát triển CNH-HĐH và xây dựng CNXH ở nước ta. Mặt khác
với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhận thức và hành động đúng quy luật, chúng ta sẽ có
những bước đi nhanh và vững chắc trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Trang 5
MỐI QUAN HỆ GIỮA QHSX & LLSX.
XH loài người tồn tại và ph/triển theo những Q/luật khách quan và một trong những Q/luật
đó là Q/luật về sự phù hợp của QHSX vời trình độ ph/triển của LLSX. Trên Csở nghiên cứu,
V/dụng Q/điểm của CN Mác-Lênin về Q/luật này, Đảng ta đã xác định: “Ph/triển LLSX hiện
đại gắn liền với XD QHSX trên cả 3 mặt : sở hữu, Q/lý, phân phối”. Đây chính là sự V/dụng
đúng đắn về sự phù hợp của QHSX với trình độ ph/triển của LLSX vào sự ph/triển nền Ktế ở
nước ta. Để làm rõ luận điểm trên, sau đây chúng ta sẽ đi sâu phân tích về N/dung của Q/luật
QHSX là LLSX và sự V/dụng của Đảng ta trong quá trình CM Việt Nam trước và sau thời kỳ
Đ/mới.
Q/luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ Ph/triển của LLSX là một trong những Q/luật
cơ bản chi phối sự vận động và Ph/triển của XH loài người. Sự tác động của Q/luật này cùng
với các Q/luật khác đã đưa XH loài người Ph/triển từ thấp đến cao trong sự Ph/triển của Lsử
nhân loại. Việc Nh/thức và V/dụng đúng đắn Q/luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định mục tiêu, đề ra đường lối và tìm các biện pháp Th/hiện nhằm mang lại hiệu quả cao.
Như chúng ta đã biết, SXVC chính là quá trình con người sử dụng công cụ L/động tác động

vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất cho đời sống XH, SXVC là nền tảng của toàn bộ đời
sống XH, là Csở để Hì/thành nên tất cả các hình thức Q/hệ XH khác và cũng là Csở cho sự tiến
bộ XH, quyết định sự vận động, sự vận động Ph/triển XH. PTSX thống trị trong mỗi XH như
thế nào thì tính chất của chế độ XH như thế ấy, các GC, kết cấu GC và tính chất của các mối
Q/hệ giữa các GC cũng như các Q/điểm về Ch/trị, pháp quyền, đạo đức… tất cả đều do phương
thức sản xuất quyết định. CNDVLS Kh/định rằng: PTSX là cách thức con người tiến hành
SXVC của con người trong G/đoạn Lsử nhất định. PTSX là chỉnh thể thống nhất bởi 2 mặt của
quá trình SXVC: đó là LLSX và QHSX.
LLSX là biểu hiện Q/hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình SXVC. LLSX là sự kết
hợp thống nhất giữa người L/động với TLSX (trước hết là công cụ L/động) để tạo thành sức SX
XH. Ngày nay, khi Kh/học ph/triển mạnh mẽ và nó được V/dụng nhanh chóng, rộng rãi, trực
tiếp vào trong quá trình SX thì cùng với công nghệ hiện đại nó đã trở thành một thành tố mới
trong LLSX, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của LLSX của nhân loại và quy định N/dung mới của
sức SX XH trong thời đại ngày nay. Chính vì lẽ đó mà Đảng ta quan niệm “cùng với giáo dục,
đào tạo Kh/học công nghệ phải được coi là quốc sách hàng đầu “.
QHSX dùng để chỉ Q/hệ Ktế giữa người với người trong quá trình SXVC của XH. Nó là
một chỉnh thể thống nhất của 3 Q/hệ: Mối Q/hệ giữa người với người trong việc sở hữu đối với
TLSX (gọi tắt là Q/hệ sở hữu), Q/hệ giữa người với người trong việc tổ chức Q/lý SX vào trao
đổi cho nhau trong SX (gọi tắt là Q/hệ Q/lý), Q/hệ giữa người với người trong việc phân phối
S/phẩm XH (gọi tắt là Q/hệ phân phối). Trong chỉnh thể QHSX, Q/hệ sở hữu giữ vai trò quyết
định đối với các Q/hệ khác, nó chính là mặt pháp lý của QHSX, nhưng Q/hệ Q/lý và phân phối
cũng rất quan trọng, vai trò của nó biểu hiện ở chỗ nó có thể củng cố Q/hệ sở hữu nhưng cũng
có thể làm xói mòn, đổ vỡ Q/hệ sở hữu. Vì vậy, Nh/thức QHSX trong Q/hệ với LLSX phải thấy
rõ tính chỉnh thể của nó, K0 được có Q/điểm thiếu đồng bộ.
Trang 6
Khi CN duy vật Lsử Kh/định rằng : PTSX là nhân tố quyết định sự tồn tại và ph/triển của
XH thi điều đó có nghĩa là phải Nh/thức sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX. Mối
Q/hệ cơ bản và biện chứng giữa 2 yếu tố này Hì/thành nên Q/luật KT-XH tất yếu, phổ biến,
quyết định sự vận động và ph/triển của các hình thái KT-XH. Đó là Q/luật “về sự phù hợp của
QHSX với trình độ ph/triển của LLSX

Q/luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ ph/triển của LLSX thể hiện trước hết ở vai trò
quyết định của LLSX đối với QHSX. Điều này thể hiện qua việc LLSX ở trình độ và tính chất
nào thì nó yêu cầu tất yếu một kiểu QHSX thích ứng phù hợp với nó mà K0 đòi hỏi cao hơn
hoặc thấp hơn nó. Mối QHSX chỉ tồn tại chỉ Hì/thành và tồn tại trên Csở một LLSX nhất định
và chịu sự quyết định của LLSX ấy. Điều đó cũng có nghĩa là Q/hệ QHSX mang tính khách
quan, do vậy, con người K0 có quyền tự do lựa chọn QHSX theo ý muốn chủ quan của mình.Ví
dụ : nếu LLSX ở trình độ thủ công thì nó chỉ đòi hỏi QHSX cá thể, tư hữu, tự cung tự cấp, tự
Q/lý theo SX nhỏ. Nhưng nếu LLSX ở trình độ cơ khí hóa, tính chất XH hóa cao (do dây
chuyền công nghệ khép kín, có sự chuyên môn hóa cao) thì nó đòi hỏi tất nhiên phải có hình
thức QHSX mang tính XH hóa cao thì quá trình SX mới trôi chảy được. Đương nhiên là QHSX
có đáp ứng đúng đòi hỏi của LLSX hay K0 thì còn do nhiều nguyên nhân từ phía bản thân của
QHSX.
Ở đây cần hiểu rằng xác định LLSX ở trình độ nào để xem xét QHSX phù hợp với nó chỉ
là tương đối và LLSX luôn ở trạng thái vận động ph/triển liên tục. Trong thực tiễn SX thường
K0 xuất hiện sự K0 trùng khớp giữa đòi hỏi của LLSX và sự đáp ứng của QHSX, điều đó là do
sự can thiệp của chủ thể trái với tính tất yếu Ktế. Song tính tất yếu Ktế bao giờ cũng tự vạch
đường đi cho mình, do đó con người phải biết phát hiện và giải quyết những xung đột đó để
đưa SX ph/triển tiến lên.
Mặt khác, trong sự vận động biến đổi K0 ngừng của SXVC, LLSX là yếu tố biến đổi
trước, , vừa mang tính CM, vừa mang tính chất kế tục Lsử, năng động hơn QHSX do phải thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao và tiên tục của con người. Sự ph/triển của LLSX đòi hỏi QHSX
cũng phải biến đổi ph/triển theo để phù hợp với trình độ mới của LLSX. Mỗi khi xuất hiện
QHSX mới phù hợp với LLSX thì cũng có nghĩa là PTSX mới ra đời thay thế cho PTSX cũ,
thúc đẩy XH tiến lên 1 bước cao hơn. Ăng Ghen đã từng Kh/định “Suy đến cùng thì mọi sự
biến đổi từ chế độ chiếm hữu này sang chế độ chiếm hữu khác đều là kết quả tất yếu của việc
tạo nên những LLSX mới”. Mác cũng Kh/định “do có được những LLSX mới, loài người thay
đổi PTSX của mình và do thay đổi PTSX cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả
các Q/hệ XH của mình.
Ngày nay, trên thế giới khi mà LLSX đã mang tính quốc tế rộng lớn và sâu sắc thì tất yếu
đòi hỏi trong Q/hệ Ktế quốc tế giữa các quốc gia, dân tộc cũng phải ph/triển theo xu hướng đó.

Việc Hì/thành các khối liên kết Ktế quốc tế và khu vực, các hình thức công tất yếu đa quốc gia,
xuyên quốc gia hay việc điều chỉnh ở những phạm vi, mức độ nhất định của QHSX trong các
nước tư bản ph/triển đều thể hiện đúng yêu cầu của Q/luật QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX trong Đ/kiện quốc tế hiện nay.
Mặc dù Kh/định LLSX là yếu tố quyết định đối với QHSX, Triết học Mác Lênin cũng chỉ
ra rằng QHSX K0 hoàn toàn phụ thuộc một cách thụ động vào LLSX, nó có vai trò độc lập
tương đối trong sự tác động trở lại LLSX. Sự tác động của QHSX đối với LLSX diễn ra theo 2
hướng: phù hợp hoặc K0 phù hợp, điều này do QHSX mang tính ổn định tương đối và biến đổi
chậm hơn so với LLSX, mặt khác còn do trình độ năng lực của chủ thể SX, do Q/hệ Lsử GC
chi phối
Sự tác động của QHSX gọi là phù hợp với LLSX nghĩa là QHSX sau khi Hì/thành và tồn
tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của LLSX và sau đó nó có vai trò tạo ra sự liên kết, kết hợp
Trang 7
có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành LLSX, làm cho tất cả các yếu tố ấy phát huy tất cả
tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy tiềm năng của người L/động và TLSX được khai
thác tốt hơn, tạo ra năng suất L/động cao hơn. Với ý nghĩa đó, QHSX là hình thức ph/triển, là
địa bàn rộng lớn, là động lực ph/triển thúc đẩy sự ph/triển của LLSX.
Ngược lại, nếu QHSX tác động K
0
phù hợp với đòi hỏi tất yếu của LLSX thì nó sẽ kìm
hãm, phá hoại sự ph/triển của LLSX dẫn đến những hậu quả KT-XH nghiêm trọng. Biểu hiện
của sự K
0
phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh : một là khi QHSX đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ
mới của LLSX, hai là trường hợp chú thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình”
QHSX”, “cao hơn” trình độ LLSX. Cả 2 trường hợp này đều kìm hãm sự ph/triển của LLSX,
nhưng K0 có nghĩa là LLSX đứng im tại chổ với LLSX thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại
đối với LLSX. Tình hình đó làm cho SX có thể bị đình đốn, có khi dẫn đến khủng hoảng KT-
XH nghiêm trọng.
Tóm lại, thực chất của Q/luật là lưc lượng SX đòi hỏi QHSX phải luôn phù hợp với tính

chất và trình độ của LLSX. Song do nhiều yếu tố bản thân QHSX chi phối cho nên QHSX phù
hợp hoặc K0 phù hợp với LLSX. Do vậy, hiểu phù hợp ở đây là bao trùm mâu thuẫn, sự giải
quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là thường xuyên và theo yêu cầu phù hợp, thúc đẩy
LLSX ph/triển: đó chính là nguồn động lực của sự ph/triển PTSX, các hình thái KT-XH.
V/dụng của Đảng ta:
V/dụng để phân tích khuyết điểm, yếu kém trong việc Nh/thức và V/dụng Q/luật này
trong thời kỳ trước Đ/mới và để phân tích Ph/hướng Đ/mới sau đây của Đảng ta “Ph/triển
LLSX hiện đại gắn liền với XD QHSX trên cả 3 mặt : sở hữu, Q/lý và phân phối” (VK 9-
Tr 87):
Đảng ta đã Nh/thức và V/dụng Q/luật này như thế nào ? Ở đây chúng ta có thể tóm tắt thành
2 thời kỳ lớn: thời kỳ trước Đại hội 6 (Đại hội Đ/mới toàn diện của Đảng) và thời kỳ sau Đại
hội 6 đến nay
Trong thời kỳ trước Đại hội 6, Đảng ta đã có những sai lầm thiếu sót trong việc Nh/thức và
V/dụng Q/luật XH, đặc biệt là sai lầm trong việc Nh/thức và V/dụng Q/luật QHSX phù hợp với
trình độ của LLSX.
Những sai lầm thiếu sót ấy được biểu hiện tập trung trong Q/điểm chỉ đạo và Ch/sách cải
tạo QHSX cũ, XD QHSX mới. Do nóng vội, Nh/thức chưa đúng Q/luật khách quan, Đảng ta đã
sai lầm khi cho rằng đối với một nước lạc hậu, trình độ LLSX còn thấp như nước ta để tiến lên
CNXH thì QHSX XHCN tiên tiến có thể đi trước mở đường cho LLSX lạc hậu Ph/triển nhanh
lên hiện đại. Từ Q/điểm sai lầm này, thực tế đường lối Ch/sách của Đảng và N/N ta G/đoạn
này chỉ chú ý đến việc XD QHSX mới mà K0 quan tâm đến việc Ph/triển LLSX, do đó đã kéo
dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu tư công nghiệp nặng K0 đúng hướng, đầu tư dàn
đều, tràn lan, K0 chú ý đầu tư chiều sâu mà chỉ đầu tư chiều rộng.
Trong QHSX, Đảng và N/N ta đã đưa QHSX lên quá cao so với trình độ lạc hậu của LLSX
ở nước ta làm cho LLSX K0 Ph/triển được và SX bị đình trệ. Văn kiện Đại hội VI đánh giá như
sau: “Trong Nh/thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều
thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài nên đã nóng vội muốn nhanh
chóng xóa bỏ KT tư bản tư nhân, KT cá thể để sớm có KT XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối.
Việc xác lập QHSX còn K0 đồng bộ và có yếu tố đẩy quá xa, vượt lên trên trình độ của LLSX
thể hiện ở chỗ : K0 đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu Ktế, trong bản thân 3 mặt của

QHSX. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức quá nhanh mô
hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà K0 tính đến khả năng trang bị kỹ
thuật, trình độ Q/lý và năng lực của cán bộ. “Về N/dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay
Trang 8
đổi Q/hệ sở hữu về TLSX mà K0 coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức Q/lý và chế độ phân
phối”. Mặt khác chúng ta cũng K0 thừa nhận nền Ktế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ. Do đó K0 chấp nhận Ktế thị trường, đa dạng hoá hình thức sở hữu, Q/lý phân phối. K0
thấy được đòi hỏi của LLSX đang ở trong tình trạng đan xen những trình độ, tính chất khác
nhau để mà xác lập QHSX. Bỏ qua TBCN nhưng lại K0 thấy tính chất quá độ là đan xen tồn tại
lâu dài của cả LLSX, QHSX và kiến trúc thượng tầng. Một sai lầm thiếu sót khác là ta đã duy
trì quá lâu cơ chế Q/lý Ktế quan liêu bao cấp vào QHSX vốn đã xác lập K0 phù hợp với LLSX,
do đó cơ chế này đã làm ngưng động tính sáng tạo của người L/động, kìm hãm LLSX và đã coi
thường tính tất yếu Ktế của SX nhỏ đang chuyển sang SX lớn, nghĩa là thông qua SX hàng hoá
thị trường mới đi lên được
Cương lĩnh XD đất nước đã nêu rõ : “Trong CM XHCN Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, XD đường lối xác định đúng mục tiêu và Ph/hướng XHCN. Nhưng Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm Q/luật khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa
bỏ ngay nền KT nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc XD công nghiệp nặng, duy
trì quá lâu, cơ chế Q/lý KT tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác tư tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều khuyết điểm
nghiêm trọng”.
Từ những sai lầm đó đã dẫn đến khủng hoảng Ktế - XH trầm trọng, lạm phát đạt đến mức
khủng khiếp 774%, sản xuất bị đình trệ. Qua thực tiễn cuộc sống, Đảng ta đã rút ra được những
bài học thấm thía là K0 thể nóng vội, làm trái với Q/luật khách quan.
Để khắc phục những sai lầm trên và V/dụng hiệu quả Q/luật này, Đại hội 6 của Đảng đã đề
xuất Q/điểm Đ/mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý Đ/mới Nh/thức và V/dụng các Q/luật
khách quan, trong đó Q/luật QHSX phù hợp với trình độ Ph/triển của LLSX. Q/điểm ấy đã
được ĐH IX tiếp tục Kh/định “Ph/triển LLSX hiện đại gắn liền với XD QHSX trên cả 3 mặt :
sở hữu, Q/lý, phân phối” ”
Như vậy, từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã căn cứ vào thực trạng LLSX hiện có của đất nước

ta đối chiếu với lý luận QHSX và LLSX để XD chế độ QHSX phù hợp với trình độ LLSX ở
nước ta. Thực tiễn cho thấy hệ thống trình độ LLSX nước ta nhìn chung còn thấp, sản xuất nhỏ
ở nước ta còn phổ biến. Do đó để bắt đầu XD một chế độ XH mới nhất thiết bắt đầu từ việc đẩy
mạnh LLSX Ph/triển trước rồi sau đó mới Ph/triển QHSX theo sự Ph/triển của LLSX, tuy nhiên
chúng ta K0 chờ QHSX Ph/triển một cách tự nhiên mà tạo Đ/kiện cho ra đời QHSX mới phù
hợp
Việc Ph/triển LLSX chỉ có thế Th/hiện được khi chúng ta tăng cường tính Kh/học và hiện
đại vào trong LLSX hiện tại, vì vậy Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa và xem đây là trọng tâm của suốt thời kỳ quá độ. Văn kiện Đại hội Đảng lần 9 cũng đã chỉ
rõ nước ta quá trình từng bước XD và Ph/triển LLSX là: ”Phát huy những lợi thế của đất nước,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là nghệ công nghệ thông tin
và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến
hơn những thành tựu mới về Kh/học và công nghệ, từng bước Ph/triển Ktế trí thức.
Về QHSX. Đại hội VII đã nêu: để phù hợp với sự Ph/triển của LLSX, chúng ta phải thiết
lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, Ph/triển nền
Ktế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
Q/lý của N/N. Đại hội VIII của Đảng đã đề ra chủ trương: “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần
thiết cho chế độ XH mới thì việc Ph/triển nền KT nhiều thành phần chính là để XD hệ thống
QHSX phù hợp”. Các văn kiện Đại hội Đảng cũng đã Kh/định các thành phần Ktế là những bộ
phận cấu thành phần Ktế thống nhất, được Ph/triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với
nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần Ktế N/N phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các
Trang 9
thành phần Ktế khác Ph/triển. Chủ trương này đã khơi dậy tiềm năng SX , khơi dậy năng lực
sáng tạo, chủ động của các chủ thể L/động trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy SX Ph/triển.
Với chủ trương Ph/triển nhiều thành phần Ktế, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều
hình thức sở hữu và các loại hình tổ chức Ktế gắn liền với các hình thức sở hữu đó do Lsử để
lại, phù hợp với từng thành phần Ktế. Chính điều này đã tạo ra sức sống động cho sự Ph/triển
Ktế, tạo ra được nhiều S/phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của
các thành phần Ktế. Việc XD chế độ công hữu về TLSX chủ yếu K0 thể xác lập nhanh chóng ồ
ạt như trước đây mà phải là một quá trình Ktế - XH lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ

thấp đến cao … Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả XD QHSX theo định hướng XHCN là
thúc đẩy Ph/triển LLSX, cải thiện đời sống Nh/dân, Th/hiện công bằng XH.
Về Q/lý, văn kiện Đại hội VI và Đại hội IX cũng đã nêu Ch/sách Ph/triển nền Ktế thị
trường theo định hướng XHCN có sự Q/lý của N/N là mô hình Ktế tổng quát trong thời kỳ quá
độ. Việc Q/lý nền Ktế của N/N phải bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, Ch/sách
và sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức Ktế và phương pháp Q/lý Ktế để kích thích
sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của Nh/dân L/động, của toàn thể Nh/dân”
Về phân phối, Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh “Th/hiện phân phối chủ yếu theo kết quả
L/động và hiệu quả Ktế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi XH. Tăng trưởng Ktế gắn liền với bảo đảm tiến
bộ và công bằng XH ngay trong từng bước Ph/triển”.
Thực tế cho thấy với sự Đ/mới trên phù hợp với Q/luật giữa QHSX và LLSX đã gắn kết các
Đ/kiện sản xuất lại với nhau tạo ra năng suất cao, các ngành nghề truyền thống khởi sắc,
Ph/triển rộng và khá mạnh, nền Ktế Ph/triển và đã đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng để
từng bước Ph/triển một cách ổn định và bền vững.
Tóm lại, Nh/thức và V/dụng đúng đắn Q/luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX cùng
các hệ thống, các Q/luật KT-XH khác của nền Ktế hàng hoá thị trường dưới sự L/đạo của Đảng,
Q/lý N/N theo định hướng XHCN, nhất định chúng ta sẽ Th/hiện được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ văn minh. Những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được sau
gần 19 năm Đ/mới là những minh chứng xác thực nhất cho điều đó.
V/dụng để phân tích khuyết điểm, yếu kém trong việc Nh/thức và V/dụng Q/luật này
trong thời kỳ trước Đ/mới và để phân tích Ph/hướng Đ/mới sau đây của Đảng ta “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, XD nền Ktế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp, ưu tiên Ph/triển LLSX, đồng thời XD QHSX phù hợp theo định
hướng XHCN” (VK 9-Tr 87):
Đảng ta đã Nh/thức và V/dụng Q/luật này như thế nào ? Ở đây chúng ta có thể tóm tắt thành
2 thời kỳ lớn : thời kỳ trước Đại hội 6 (Đại hội Đ/mới toàn diện của Đảng) và thời kỳ sau Đại
hội 6 đến nay
Trong thời kỳ trước Đại hội 6, Đảng ta đã có những sai lầm thiếu sót trong việc Nh/thức và

V/dụng Q/luật XH, đặc biệt là sai lầm trong việc Nh/thức và V/dụng Q/luật QHSX phù hợp với
trình độ của LLSX.
Những sai lầm thiếu sót ấy được biểu hiện tập trung trong Q/điểm chỉ đạo và Ch/sách cải
tạo QHSX cũ, XD QHSX mới. Do nóng vội, Nh/thức chưa đúng Q/luật khách quan, Đảng ta đã
sai lầm khi cho rằng đối với một nước lạc hậu, trình độ LLSX còn thấp như nước ta để tiến lên
CNXH thì QHSX XHCN tiên tiến có thể đi trước mở đường cho LLSX lạc hậu Ph/triển nhanh
lên hiện đại. Từ Nh/thức sai lầm này, thực tế đường lối Ch/sách của Đảng và N/N ta G/đoạn
này chỉ chú ý đến việc XD QHSX mới mà K0 quan tâm đến việc Ph/triển LLSX, do đó đã kéo
Trang 10
dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu tư công nghiệp nặng K0 đúng hướng, đầu tư dàn
đều, tràn lan, K0 chú ý đầu tư chiều sâu mà chỉ đầu tư chiều rộng, K0 phát huy tiềm năng vốn
có về TLSX (đất đai), lợi thế tự nhiên từng vùng … LLSX đặc thù (đa thành phần), PTSX vẫn
ở trình độ thủ công, cơ cấu tỷ trọng nông nghiệp trong GDP còn cao, K0 phát huy và khôi phục
ngành nghề truyền thống
Trong QHSX, Đảng và N/N ta đã đưa QHSX lên quá cao so với trình độ lạc hậu của LLSX
ở nước ta làm cho LLSX K0 Ph/triển được và SX bị đình trệ. Văn kiện Đại hội VI đánh giá như
sau: “Trong Nh/thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều
thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài nên đã nóng vội muốn nhanh
chóng xóa bỏ KT tư bản tư nhân, KT cá thể để sớm có KT XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối.
Việc xác lập QHSX còn K0 đồng bộ và có yếu tố đẩy quá xa, vượt lên trên trình độ của LLSX
thể hiện ở chỗ : K0 đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu Ktế, trong bản thân 3 mặt của
QHSX. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức quá nhanh mô
hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà K0 tính đến khả năng trang bị kỹ
thuật, trình độ Q/lý và năng lực của cán bộ. “Về N/dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay
đổi Q/hệ sở hữu về TLSX mà K0 coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức Q/lý và chế độ phân
phối”. Mặt khác chúng ta cũng K0 thừa nhận nền Ktế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ. Do đó K0 chấp nhận Ktế thị trường, đa dạng hoá hình thức sở hữu, Q/lý phân phối. K0
thấy được đòi hỏi của LLSX đang ở trong tình trạng đan xen những trình độ, tính chất khác
nhau để mà xác lập QHSX. Bỏ qua TBCN nhưng lại K0 thấy tính chất quá độ là đan xen tồn tại
lâu dài của cả LLSX, QHSX và kiến trúc thượng tầng. Một sai lầm thiếu sót khác là ta đã duy

trì quá lâu cơ chế Q/lý Ktế quan liêu bao cấp vào QHSX vốn đã xác lập K0 phù hợp với LLSX,
do đó cơ chế này đã làm ngưng động tính sáng tạo của người L/động, kìm hãm LLSX và đã coi
thường tính tất yếu Ktế của SX nhỏ đang chuyển sang SX lớn, nghĩa là thông qua SX hàng hoá
thị trường mới đi lên được
Cương lĩnh XD đất nước đã nêu rõ : “Trong CM XHCN Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, XD đường lối xác định đúng mục tiêu và Ph/hướng XHCN. Nhưng Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm Q/luật khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa
bỏ ngay nền KT nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc XD công nghiệp nặng, duy
trì quá lâu, cơ chế Q/lý KT tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác tư tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều khuyết điểm
nghiêm trọng”.
Từ những sai lầm đó đã dẫn đến khủng hoảng Ktế - XH trầm trọng, lạm phát đạt đến mức
khủng khiếp 774% (những năm 80) sản xuất bị đình trệ. Qua thực tiễn cuộc sống, Đảng ta đã
rút ra được những bài học thấm thía là K0 thể nóng vội, làm trái với Q/luật khách quan.
Để khắc phục những sai lầm trên và V/dụng hiệu quả Q/luật này, Đại hội 6 của Đảng đã đề
xuất Q/điểm Đ/mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý Đ/mới Nh/thức và V/dụng các Q/luật
khách quan, trong đó Q/luật QHSX phù hợp với trình độ Ph/triển của LLSX. Q/điểm ấy đã
được ĐH IX tiếp tục Kh/định “Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, XD nền Ktế độc lập,
tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên Ph/triển LLSX, đồng thời XD
QHSX phù hợp theo định hướng XHCN” (VK 9-Tr 87)
Như vậy, từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã căn cứ vào thực trạng LLSX hiện có của đất nước
ta đối chiếu với lý luận QHSX và LLSX để XD chế độ QHSX phù hợp với trình độ LLSX ở
nước ta. Thực tiễn cho thấy hệ thống trình độ LLSX nước ta nhìn chung còn thấp, sản xuất nhỏ
ở nước ta còn phổ biến. Do đó để bắt đầu XD một chế độ XH mới nhất thiết bắt đầu từ việc đẩy
mạnh LLSX Ph/triển trước rồi sau đó mới Ph/triển QHSX theo sự Ph/triển của LLSX, tuy nhiên
chúng ta K0 chờ QHSX Ph/triển một cách tự nhiên mà tạo Đ/kiện cho ra đời QHSX mới phù
Trang 11
hợp
Cái thiếu lớn nhất của đất nước ta kề từ khi bước vào thời kỳ quá độ hiện nay là thiếu một
LLSX Ph/triển, hiện đại, đủ đảm bảo cho nền Ktế tăng trưởng nhanh và bền vững. Việc Ph/triển

LLSX chỉ có thế Th/hiện được khi chúng ta tăng cường tính Kh/học và hiện đại vào trong
LLSX hiện tại, vì vậy Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và xem đây
là trọng tâm của suốt thời kỳ quá độ. Bởi vì CNH thực chất là XD Csở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH, đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu Ktế gắn Đ/mới căn bản về công nghệ, chuyển từ nền
SX nhỏ thủ công sang nền SX lớn có trình độ chuyên môn hóa và công nghiệp hóa cao, tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền cho nền KT quốc dân. Với con đường
CNH-HĐH đất nước và Ch/sách mở cửa về đối ngoại, chúng ta có thể tận dụng mọi khả năng
để tiếp cận, học tập những thành tựu trên thế giới nhằm đạt được trình độ tiên tiến, hiện đại về
Kh/học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, từng bước
Ph/triển nền Ktế tri thức. Văn kiện Đại hội Đảng lần 9 cũng đã chỉ rõ nước ta đang từng bước
XD và Ph/triển nền Ktế tri thức : ”Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng
để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là nghệ công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu
mới về Kh/học và công nghệ, từng bước Ph/triển Ktế trí thức” Trang 91 – VK ĐH Đảng lần
IX). Việc phát huy nguồn lực trí tuê và sức mạnh của LLSX được Th/hiện song song với việc
coi trọng Ph/triển giáo dục, đào tạo, Kh/học và công nghệ xem đây là nền tảng và là động lực
cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Song song đó, do toàn cầu hóa Ktế đang là xu thế tất yếu trong Đ/kiện của cuộc CM hiện
đại ngày nay nên Đảng đã xác định phải kết hợp chặt chẽ việc chủ động hội nhập Ktế quốc tế,
mà mục tiêu trước mắt là hội nhập APTA và là thành viên chính thức của WTO với việc XD
nền Ktế độc lập tự chủ theo những Ph/hướng “độc lập, tự chủ về đường lối, Ch/sách, đồng thời
có tiềm lực Ktế đủ mạnh, có mức tích lũy ngày càng cao với .từ nội bộ nền Ktế; có cơ cấu Ktế
hợp lý, có sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một ngành công nghiệp
nặng then chốt, có năng lực nội sinh về KH-CN ”
Về QHSX. Đại hội VII đã nêu: để phù hợp với sự Ph/triển của LLSX, chúng ta phải thiết
lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, Ph/triển nền
Ktế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
Q/lý của N/N. Đại hội VIII của Đảng đã đề ra chủ trương : “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần
thiết cho chế độ XH mới thì việc Ph/triển nền KT nhiều thành phần chính là để XD hệ thống
QHSX phù hợp”. Các văn kiện Đại hội Đảng cũng đã Kh/định các thành phần Ktế là những bộ

phận cấu thành phần Ktế thống nhất, được Ph/triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với
nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần Ktế N/N phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các
thành phần Ktế khác Ph/triển. Chủ trương này đã khơi dậy tiềm năng SX, khơi dậy năng lực
sáng tạo, chủ động của các chủ thể L/động trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy SX Ph/triển.
Văn kiện ĐH IX còn xác định “Ph/triển LLSX hiện đại gắn liền với XD QHSX mới phù hợp cả
3 mặt sở hữu, Q/lý và phân phối”. Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu
và các loại hình tổ chức Ktế gắn liền với các hình thức sở hữu đó do Lsử để lại, phù hợp với
từng thành phần Ktế. Về Q/lý văn kiện Đại hội VI và Đại hội IX cũng đã nêu Ch/sách Ph/triển
nền Ktế thị trường theo định hướng XHCN có sự Q/lý của N/N là mô hình Ktế tổng quát trong
thời kỳ quá độ. Việc Q/lý nền Ktế của N/N phải bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, Ch/sách và sử dụng cơ chế thị trường. Về phân phối, Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh
“Th/hiện phân phối chủ yếu theo kết quả L/động và hiệu quả Ktế, đồng thời phân phối theo
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi XH.
Tăng trưởng Ktế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng XH ngay trong từng bước Ph/triển”
Trang 12
Tóm lại, Nh/thức và V/dụng đúng đắn Q/luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX cùng
các hệ thống, các Q/luật KT-XH khác của nền Ktế hàng hoá thị trường dưới sự L/đạo của Đảng,
Q/lý N/N theo định hướng XHCN, nhất định chúng ta sẽ Th/hiện được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ văn minh. Những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được sau
gần 19 năm Đ/mới là những minh chứng xác thực nhất cho điều đó.
V/dụng để phân tích những sai lầm khuyết điểm trong việc V/dụng Q/luật này thời kỳ
trước Đ/mới và V/dụng để phân tích luận điểm sau đây của Đảng Ta : “Nếu CNH, HĐH
tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ XH mới thì việc Ph/triển nền KT nhiều thành phần
chính là để XD hệ thống QHSX phù hợp” (VK Đại Hội VIII trang 24)
Kh/định tầm quan trọng của Q/luật để V/dụng thật tốt Q/luật này vào thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam, Đảng ta đã nhận rõ những sai lầm thiếu sót trong việc Nh/thức và V/dụng
Q/luật này thể hiện trong thời ký trước Đ/mới ở Q/điểm, Ch/sách cải tạo XH cũ, XD QHSX
mới có lúc chúng ta rất nóng vội, chủ quan duy y chí bất chấp Q/luật khách quan, muốn “ bỏ
qua G/đoạn Ph/triển TBCN mộc cách giản đơn máy móc. Văn kiện Đại hội VI đánh giá như
sau: “Trong Nh/thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều

thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và V/dụng
đúng Q/luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX”. Cụ thể là chúng ta
nóng vội muốn nhanh chóng xóa bỏ KT tư bản tư nhân, KT cá thể để sớm có KT XHCN chiếm
ưu thế tuyệt đối là sai. Nhưng cho rằng vì LLSX của ta quá thấp nên Ko cần thiết phải cũng cố
và Ph/triển Kt quốc doanh, Ko từng bước đưa người SX nhỏ vào con đường làm ăn tập thể với
những hình thức đa dạng ở các trình độ mức độ khác nhau cũng Ko đúng. Cương lĩnh XD đất
nước đã nêu rõ : “Trong CM XHCN Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, XD
đường lối xác định đúng mục tiêu và Ph/hướng XHCN. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan
duy ý chí, vi phạm Q/luật khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa bỏ ngay nền KT nhiều
thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc XD công nghiệp nặng, duy trì quá lâu, cơ chế Q/lý
KT tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền
lương. Công tác tư tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng”. Đảng ta đã
Nh/thức sai lầm rằng QHSX XHCN tiên tiến sẽ mở đường tạo địa bàn rộng lớn cho LLSX lạc
hậu Ph/triển nhanh lên hiện đại do đó trong thực tế đã đưa QHSX lên quá cao so với trình độ
lạc hậu của LLSX ở nước ta làm cho LLSX Ko Ph/triển được và SX bị đình trệ.
Qua những thành công cũng như sai lầm vấp vấp trong những năm qua. Đại hội VIII của
Đảng đã đề ra chủ trương : “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ XH mới thì
việc Ph/triển nền KT nhiều thành phần chính là để XD hệ thống QHSX phù hợp”. Đây là sự
V/dụng Q/luật QHSX phải phù hợp với trình độ Ph/triển của LLSX vào nước ta.
Nước ta đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, “Đảng ta luôn xác định XD Csở
vật chất kỷ thuật của CNXH, Th/hiện công nghiệp hoá XHCN là Nh/vụ trung tâm suốt thời kỳ
quá độ” (Đại hội VIII). CNH, HĐH là để Ph/triển LLSX và đối với nước ta Ph/triển LLSX tất
yếu phải đi vào CNH, HĐH. Điều đó có nghĩa là CNH, HĐH sẽ tạo nên LLSX cần thiết cho
chế độ Xh mới. XHCN và để XD hệ thống QHSX phù hợp thì cần phải Ph/triển nền KT nhiều
thành phần.
Chúng ta thấy rằng, sự tồn tại nhiều thành phần trong nền KT thời kỳ quá độ là một tất yếu
khách quan. Bởi vì nền KT trong thời kỳ quá độ ở những nước KT kém Ph/triển đi lên CNXH
là nền Kt có LLSX ở nhiều trình độ rất khác nhau, cả về trình độ, kỷ thuật, lẫn trình độ XH hoá
của SX. Tương ứng với các trình độ Ph/triển ấy có các hình thức sở hữu, tổ chức SX và phân
phối thích hợp để sử dụng hợp lý và có hiệu quả LLSX ấy. Ở nước ta, ngay từ Đại Hội Đảng

lần thứ 6 , đảng ta đã chủ trương Ph/triển nền KT nhiều thành phần. Chủ trương này đã khơi
Trang 13
dậy tiềm năng SX , khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể L/động trong sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy Sx Ph/triển. Tuy nhiên nền KT nhiều thành phần tự nó chứa đựng nhiều
mâu thuẫn. Có những thành phần KT vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo hướng TBCN.
Thành phần Kt N/N, KT hợp tác mang tính chất XHCN nhưng chưa thích nghi với cơ chế thị
trường, làm ăn kém hiệu quả nên ở đây diễn ra quá trình Đ/tranh để đảm bảo định hướng rất
ngay gắt. Đảng ta xác định rằng nền KT nhiều thành phần mà Đảng ta chủ trương là nền KT
Ph/triển theo định hướng XHCN. Ch/sách Ph/triển nền KT nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tính Q/luật từ SX nhỏ đi lên CNXH, có tác dụng to lớn trong việc động viên
Nh/dân XD nền KT, Ph/triển LLSX. Việc XD QHSX phải từng bước từ thấp đến cao với sự đa
dạng hoá về hình thức sỡ hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với tính chất và
trình độ Ph/triển của LLSX. Mỗi thành phần Kt vốn có B/chất riêng nhưng trong SX kinh
doanh Ko ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp đan xen nhau vừa bổ sung cho nhau
vừa cạnh tranh với nhau trên Csở bình đẳng trước pháp luật.
Tóm lại, Đảng và N/N ta chủ trương Th/hiện nhất quán và lâu dài Ch/sách Ph/triển nền
KT hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự Q/lý của N/N theo định
hướng XHCN, đó chinh là nền Kt thị trường định hướng XHCN…” nhằm Ph/triển KT LLSX
Ph/triển KT để XD Csở vật chất –kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống của Nh/dân. Ph/triển
LLSX hiện đại gắn liền với XD QHSX mới phù hợp cả 3 mặt sở hữu, Q/lý và phân phối” (VK
9 trang 86-87) và đường lối KT của Đảng ta là : “Đẩy mạnh CNH, HĐH XD nền KT độc lập tự
chủ, đưa nườc ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên Ph/triển LLSX đồng thời XD QHSX
phù hợp theo định hướng XHCN” (VK Đại Hội 9 trang 89). Đây cũng chính là sự phù hợp của
QHSX với trình độ Ph/triển của LLSX trong G/đoạn CM hiện nay.
GIAI CẤP & ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Học thuyết Mácxít về ĐTGC, V/dụng để phân tích đặc điểm, N/dung chủ yếu của ĐTGC ở
nước ta hiện nay ?
Trang 14
Trong XH có GC, ĐTGC là một trong những động lực quan trọng của sự Ph/triển XH. Việc
ĐTGC diễn ra trên nhiều với hình thức, N/dung khác nhau và ngày nay, trong công cuộc XD

đất nước, Đảng ta đã xác định : “N/dung chủ yếu của ĐTGC hiện nay là Th/hiện thắng lợi
CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo kém Ph/triển Th/hiện
công bằng XH chống áp bức bất công, Đ/tranh ngăn chặn khắc phục những tư tưởng, hành
động, tiêu cực sai trái, Đ/tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch,
bảo vệ độc lập, dân tộc, XD đối với nước ta thành nước XHCN phồn vinh, Nh/dân hạnh phúc”.
Trên Csở V/dụng học thuyết Mác xít về ĐTGC chúng ta sẽ làm rõ luận điểm trên của Đảng
về ĐTGC trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Tuân thủ Ph/pháp luận của C.Mác và Ph.Ănghen một cách có Ng/tắc, V.I.Lênin đã đưa ra
một định nghĩa về GC trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” như sau: “Người ta gọi là GC, những
tập đoàn to lớn, gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong 1 H/thống SX XH nhất định
trong Lsử, khác nhau về Qhệ của họ đối với những TLSX, về Vtrò của họ trong T/chức L/động
XH, và như vậy là khác nhau cách thức hưởng thụ và về phần của cải XH ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. GC là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt L/động của
tập đoàn khác, do chổ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ KT-XH nhất định”.
C.Mác chỉ ra rằng: “sự tồn tại của GC chỉ gắn liền với những G/đoạn Ph/triển Lsử nhất định
của SX”, như vậy, nguồn gốc sâu xa của sự ra đời GC thuộc về Ktế, đó là sự Ph/triển của
LLSX, còn nguyên nhân trực tiếp của sự ra đời GC là sự xcuất hiện chế độ tư hữu trong Lsử
nhân loại.
Trong XH có GC, sự Hì/thành GC cũng là sự Hì/thành các lợi ích GC khác nhau. Lợi ích
GC Ko phải do ý thức GC quyết định mà do địa vị Ktế - XH của GC đó tạo nên một cách khách
quan trong Lsử. Theo Q/điểm triết học Mác Lênin thì ĐTGC là cuộc Đ/tranh của các GC có lợi
ích cơ bản đối lập nhau nhằm duy trì, bảo vệ lợi ích của GC mình, xóa bỏ, hạn chế lợi ích của
GC khác. Như vậy, ĐTGC bắt nguồn từ đối kháng lợi ích của các GC mà những lợi ích này Ko
thể điều hòa được, chỉ có con đường Th/hiện bằng ĐTGC.
Trong lợi ích của GC, thì lợi ích Ktế là cơ bản nhất, thiết thực nhất, đây là những giá trị
khách quan cần thiết Ko những thỏa mãn nhu cầu của một GC mà nó còn là Csở, nền tảng đảm
bảo cho sự ra đời và vận động, Ph/triển cũng như mất đi của Lsử.
Trong XH có GC, khi mâu thuẩn về lợi ích Ktế thì tất yếu dẫn đến mâu thuẩn về Ch/trị, tư
tưởng và dẫn đến Đ/tranh Ch/trị nhằm giành lấy quyền lực Ch/trị cao nhất là quyền lực N/N, từ
đó để giải quyết lợi ích Ktế cho GC mình. Cho nên mục tiêu ĐTGC là giải quyết lợi ích Ktế,

nếu Ko giải quyết được lợi ích Ktế thì quyền lực Ch/trị dần dần sẽ mất đi.
Mặt khác, ĐTGC để giành quyền lực, để có được N/N về tay mình thì Ko thể Th/hiện bằng
những nhóm riêng lẻ, mà phải diễn ra trên quy mô GC, GC này chống GC kia. Hơn nữa cuộc
ĐTGC muốn đi đến thắng lợi phải được hướng dẫn bằng một hệ tư tưởng. Do đó, ĐTGC cũng
diễn ra trên mặt trận tư tưởng.
Tóm lại, triết học Mác Xít Kh/định rằng lợi ích GC mà trong đó lợi ích Ktế được tạo dựng
cùng với quá trình Hì/thành GC và nó luôn luôn chi phối sự vận động, Ph/triển của các GC
trong Lsử. Trong XH có GC đối kháng, khi có mâu thuẩn lợi ích Ktế sẽ dẫn đến Đ/tranh Ch/trị,
vì vậy cho nên N/dung, hình thức của ĐTGC thể hiện ở cả 3 mặt : Đ/tranh Ktế, Đ/tranh về tư
tưởng và Đ/tranh về Ch/trị.
ĐTGC cũng là Đ/tranh nhằm giành lấy quyền lực Ch/trị cao nhất là quyền lực N/N, từ đó để
giải quyết lợi ích Ktế cho GC mình. Cho nên mục tiêu ĐTGC là giải quyết lợi ích Ktế. Nếu Ko
giải quyết được lợi ích Ktế thì quyền lực Ch/trị dần dần sẽ mất đi.
Khi nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu Q/luật mâu thuẫn ta thấy rằng mâu
thuẫn nói chung là nguồn gốc, động lực cho sự Ph/triển. Nói cách khác, động lực Ph/triển của
Trang 15
XH nằm ngay trong chính phương thức SX với việc giải quyết giữa mâu thuẫn giữa LLSX và
QHSX. Về mặt XH, mâu thuẫn này là mâu thuẫn GC giữa một bên là GC CM, tiến bộ đại diện
cho LLSX tiến bộ, Ph/triển và một bên là GC thống trị, phản động đại diện cho QHSX lạc hậu
đang kìm hãm sự Ph/triển của LLSX. Trong các XH có GC đối kháng, do được GC thống trị –
đại diện cho QHSX đó bảo vệ bằng mọi sức mạnh, đặc biệt là bạo lực có tổ chức, QHSX Ko tự
động nhường chổ cho QHSX mới. Vì vậy, muốn thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phải tiến
hành ĐTGC và CM XH Với ý nghĩa đó, ĐTGC là động lực thúc đẩy XH Ph/triển, đồng thời là
cũng là phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và Q/hệ SX. ĐTGC trong các XH có
GC còn cải tạo bản thân các GC CM và QC L/động nhằm gột rữa cho họ tinh thần nô lệ và
những tập quán xấu do chế độ người bóc lột, áp bức người sinh ra.
Tuy nhiên, trong XH có GC thì ĐTGC Ko phải là động lực duy nhất để thúc đẩy XH
Ph/triển, mặc dù nó là động lực vô cùng quan trọng, là “đòn bẩy vĩ đại của cuộc CM hiện đại”.
Ngoài ĐTGC ra còn nhiều động lực khác như : đạo đức, tư tưởng, văn hóa, giáo dục, vị trí, vai
trò của mỗi động lực có khác nhau và tùy thuộc vào sự Ph/triển KT-XH. Nh/thức rõ điều nay,

chúng ta sẽ tránh được tư tưởng tuyệt đối hóa ĐTGC, tránh quy mọi biểu hiện đời sống XH
bằng ĐTGC và cũng Ko có tư tưởng điều hoà GC, thỏa hiệp GC đi đến phủ nhận GC.
Trong thời kỳ quá độ lên CN XH, nước ta và các nước XHCN nói chung phải Nh/thức rõ
tính tất yếu của cuộc ĐTGC. Đó là khi GC vô sản giành được chính quyền nhưng chỉ mới
thắng GC tư sản về mặt Ch/trị, trong khi GC tư sản vẫn còn lực lượng, vẫn tìm mọi cách giành
lại địa vị đã mất. Vì vậy GC vô sản phải tiếp tục Đ/tranh để củng cố thắng lợi để XD XH mới.
Có thế nói đặc điểm nổi bậc của thời đại ngày nay là Đ/tranh dân tộc, ĐTGC, Đ/tranh tôn
giáo đan xen lẫn nhau diễn ra hết sức gay go, quyết liệt nhưng cũng hết sức lâu dài. Văn kiện
ĐH Đảng lần 7,8,9 đã nhận định rằng mặc dù CNXH đang đứng trước những thử thách đầy
nghiêm trọng có sự thụt lùi, thoái bộ của một số nước nhưng niềm tin vào CNXH, CNCS vẫn
còn. CN đế quốc, CNTB cũng đã và đang có những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về các
mặt Ch/trị - XH – văn hóa nhưng do tiềm năng, tiềm lực Ktế rất lớn, khả năng thích nghi, điều
tiết cao nên trước mắt vẫn còn Ph/triển và hồi phục nhanh sau các cuộc khủng hoảng. Loài
người tiến bộ ngày càng Nh/thức rõ hơn giá trị đích thực của chân lý độc lập, dân tộc dân chủ
hòa bình và tiến bộ XH, thể hiện xu thế của thế giới đang tiến đến Ph/triển CNXH.
Hiện nay, ở nước ta đang quá độ đi lên CNXH bò qua chế độ TBCN với việc Th/hiện nền
Ktế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự Q/lý thống nhất của N/N theo định
hướng XHCN.
Như vậy, với nền Ktế đan xen nhiều loại hình sở hữu khác nhau cho nên lợi ích Ktế giữa
các GC cũng khác nhau. Đảng ta thừa nhận hiện nay và cả trong suốt thời kỳ quá độ của nước
ta còn tồn tại một cách khách quan các GC và ĐTGC.
Chính vì vậy sẽ là chủ quan, sai lầm nếu xóa nhòa ranh giới giữa các GC, phủ nhận ĐTGC
hoặc hiểu một cách phiến diện cực đoan về ĐTGC, tuyệt đối hóa mặt bạo lực trấn áp của
ĐTGC., cũng Ko nên hiểu ĐTGC là điều hòa lợi ích giữa các GC.
Cuộc ĐTGC ở nước ta hiện nay phải Nh/thức cho đúng, nó diễn ra trong Đ/kiện mới. Bởi
vì, cùng với những biến đổi to lớn về Ktế - XH, cơ cấu GC, N/dung, tính chất, vị trí của các GC
trong XH ta cũng đã thay đổi nhiều, nó khác thời kỳ CM dân tộc dân chủ, hay những năm đầu
chúng ta mới giành được chính quyền. Mối Q/hệ giữa các GC, sự Ph/triển của các GC trong sự
nghiệp XD đất nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự L/đạo của Đảng và sự Q/lý của N/N Ko còn như
trước đây. Ngày nay, mối Q/hệ giữa các GC, các tầng lớp chủ yếu là mối Q/hệ hợp tác và

Đ/tranh trong nội bộ Nh/dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp XD và bảo vệ tổ quốc
dưới sự L/đạo của Đảng. Lợi ích GC công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục
tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, vì “dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân
Trang 16
chủ, văn minh”. Cuộc ĐTGC, Đ/tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN gắn liền với cuộc
Đ/tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột, chống nghèo nàn lạc hậu,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém Ph/triển. Vì vậy, trong báo cáo Ch/trị Đại hội IX của
Đảng Kh/định: ”N/dung chủ yếu của ĐTGC trong G/đoạn hiện nay ở nước ta là Th/hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước
nghèo, kém Ph/triển; Th/hiện công bằng XH, chống áp bức, bất công; Đ/tranh ngăn chặn và
khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; Đ/tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, XD nước ta thành một
nước XHCN phồn vinh, Nh/dân hạnh phúc”.
Như chúng ta đã biết, ĐTGC bắt nguồn từ đối kháng về lợi ích Ktế. Chính vì vậy, N/dung
quan trọng hàng đầu của ĐTGC ở nước ta hiện nay là cuộc Đ/tranh chống nghèo nàn, lạc hậu,
chống nguy cơ tụt hậu về Ktế. Cương lĩnh XD đất nước đã viết “Để Th/hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng
KT-XH kém Ph/triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc Th/hiện mục tiêu đó, trước hết
là của các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và CNXH”. Như vậy, để Th/hiện mục tiêu trên
phải cải biến tình trạng Ktế kém Ph/triển mà con đường chủ yếu là Th/hiện thành công sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước. Chỉ với con đường CNH-HĐH theo định hướng XHCN, đất nước
ta mới có thể nhanh chóng tạo sự đột phá trong sự Ph/triển LLSX, từ đó tạo sự Ph/triển nhảy
vọt về Ktế và đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém Ph/triển, sớm thu hẹp khoảng
cách Ph/triển so với nhiều nước trên thế giới. Sự Ph/triển vững chắc về Ktế là Đ/kiện thuận lợi
cho sự ổn định về mặt Ch/trị.
Song song với quá trình Ph/triển Ktế, cần phải Kh/định tính ĐTGC của Đảng ta trong việc
L/đạo, điều hành phân phối lợi ích Ktế giữa các GC. Sự tăng trưởng Ktế sẽ dẫn đến sự phân hóa
giàu nghèo, vì vậy Đảng đã xác định phải gắn tăng trưởng Ktế với việc “từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của Nh/dân, Th/hiện tiến bộ và công bằng XH”. Do lợi ích của Đảng
cộng sản thống nhất với lợi ích của đại đa số QC Nh/dân nên việc chăm lo lợi ích của Nh/dân

cũng là chăm lo lợi ích của GC, của Đảng. Công bằng XH thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý
TLSX lẫn ở khâu phân phối kết quả SX, ở việc tạo Đ/kiện cho mọi người có cơ hội Ph/triển và
sử dụng tốt năng lực của mình, Kh/khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm
nghèo và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tôc “đền ơn, đáp nghĩa”
Về mặt tư tưởng, ĐTGC còn là cải tạo bản thân các GC CM và QC L/động nhằm xóa bỏ
những tập quán xấu, tư tưởng tiêu cực như dựa dẫm, ỷ lại, tham nhũng, quan liêu đang làm
suy yếu sức mạnh của GC.
Về mặt Ch/trị, ĐTGC phải là sự trấn áp, đập tan và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch, chống âm mưu diễn biến hoà bình trên tất cả các lĩnh vực Ktế - Ch/trị - tư
tưởng – văn hóa - đạo đức lối sống đồng thời giữ vững độc lập dân tộc và đảm bảo định hướng
XHCN trong con đường bảo vệ, XD và Ph/triển đất nước. Đế Th/hiện được điều đó, việc bảo vệ
vai trò L/đạo của Đảng là nhân tố quyết định cùng với việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
XD khối đại đoàn kết dân tộc. Bên cạnh đó, Đảng và N/N ta đang Th/hiện Ch/sách đối ngoại
hòa bình, thể hiện ở Q/điểm “Việt Nam muốn là bạn với các nước và các dân tộc trên thế giới”,
với tinh thần đa phương hóa, đa dạng hóa trong Q/hệ quốc tế nhưng phải đảm bảo giữ vững độc
lập chủ quyền quốc gia với tinh thần độc lập dân tộc và tự lực tự cường. Đó là sách lược mềm
dẻo mà Đảng ta đã V/dụng thành công trong cuộc Đ/mới. Để N/dung ĐTGC mới có hiệu quả,
ta cũng phải V/dụng hình thức mới, phù hợp đó là Đ/tranh Ktế, Đ/tranh Ch/trị, Đ/tranh tư
tưởng, các hình thức đó biểu hiện đa dạng trong đời sống XH, là quá trình gắn bó mật thiết với
nhau.
Tóm lại, ĐTGC là qui luật chung, thúc đẩy sự vận động và Ph/triển của XH có GC. Việc
Trang 17
hiểu và V/dụng đúng Q/luật trong công cuộc Đ/mới và XD đất nước sẽ là Đ/kiện để đảm bảo sự
thành công của chúng ta trên con đường XD một nước Việt Nam XHCN phồn vinh, hạnh phúc.
NHÀ NƯỚC
Học thuyết Mác về N/N và V/dụng để phân tích, phê phán những yếu kém, khuyết điểm
trong việc tổ chức phương thức hoạt động của hệ thống Ch/trị (HTCT) nói chung của N/N nói
riêng thời kỳ trước Đ/mới và để phân tích Ph/hướng sau đây của Đảng ta: “N/N ta là công cụ
chủ yếu để Th/hiện quyền làm chủ của Nh/dân, là N/N pháp quyền của dân, do dân và vì dân”
(VK 9 trang 131).

Trong sự nghiệp CM hiện nay của đất nước đòi hỏi hệ thống Ch/trị của ta phải có thật sự
vững mạnh và hiệu quả trong việc L/đạo đất nước đi lên CNXH. Chúng ta đang XD N/N pháp
quyền của dân, do dân và vì dân trong hệ thống Ch/trị của đất nước. Kh/định về vấn đề này, Đại
hội Đảng lần IX có viết : “N/N ta là công cụ chủ yếu để Th/hiện quyền làm chủ của Nh/dân, là
N/N pháp quyền của dân, do dân và vì dân”. Để làm rõ luận điểm trên, sau đây chúng ta sẽ đi
sâu phân tích về nguồn gốc, B/chất và chức năng của N/N theo lý luận triết học Mác-xít và sự
V/dụng của Đảng ta trong quá trình CM Việt Nam trước và sau thời kỳ Đ/mới.
Theo triết học Mác – Lênin, N/N là một phạm trù Lsử, sản phẩm của Lsử, chỉ xuất hiện và
tồn tại gắn liền với một G/đoạn nhất định trong sự Ph/triển của XH, đó là G/đoạn XH có phân
chia thành GC đối kháng. N/N xuất hiện do 2 nguyên nhân sau: Một là LLSX Ph/triển, XH có
GC, các cơ quan Q/lý XH trước kia Ko còn phù hợp nữa và để đảm bảo các công việc chung
của cộng đồng, XH cần có một cơ quan Q/lý mới đó là N/N. Hai là khi GC xuất hiện, mâu
thuẫn về quyền lợi và cuộc Đ/tranh giữa các GC diễn ra Ko ngừng và ngày càng quyết liệt Ko
thể điều hoà được, để bảo vệ lợi ích GC của mình, GC nào mạnh hơn, có ưu thế hơn thì GC đó
sẽ làm chủ về mọi mặt và để củng cố quyền lực của mình đã dẫn tới sự ra đời của N/N. Lênin
đã viết “N/N là S/phẩm và biểu hiện của những mâu thuẩn GC Ko thể điều hòa được… thì N/N
xuất hiện và ngược lại sự tồn tại của N/N chứng tỏ những mâu thuẩn của GC Ko thể điều hòa
được”. Như vậy, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của N/N là từ Ktế, từ sự Ph/triển của
LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến sự ra đời và tồn tại của N/N là do có chế dộ tư
hữu và mâu thuẫn GC Ko thể điều hoà được.
Trang 18
N/N là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay GC cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất
để duy trì sự thống trị GC đó, cho nên B/chất N/N bao giờ cũng mang tính GC sâu sắc. N/N
bao giờ cũng là của một GC nhất định, đó là GC thống trị về Ktế.
Trong XH có GC, sự thống trị của GC này đối với GC khác được thể hiện dưới 3 loại quyền
lực: quyền lực Ch/trị - quyền lực Ktế và quyền lực tư tưởng, trong đó quyền lực Ktế giữ vai trò
quyết định nhưng bản thân nó Ko thể duy trì được vai trò thống trị và đàn áp được sự phản
kháng của GC bị trị, vì vậy phải có N/N để củng cố và bảo vệ những quyền lực ấy. Với tính
cách là nền chuyên chính của một GC này đối với GC khác, N/N của các GC bóc lột Ko thể là
kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích cho các GC trong XH. Như vậy, N/N là một bộ máy đặc biệt để

đảm bảo và Th/hiện quyền lực thống trị về Ktế, tư tưởng, Ch/trị. Ngoài việc Th/hiện chức năng
đó, N/N còn phải giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong XH, nghĩa là Th/hiện chức
năng XH. Vì vậy, N/N là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, vừa mang B/chất GC vừa mang
tính XH. Theo B/chất đó N/N là một tổ chức của quyền lực Ch/trị, một bộ máy chuyên làm
Nh/vụ cưỡng chế và Th/hiện các chức năng Q/lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH, Th/hiện
những mục đích để bảo vệ lợi ích của GC thống trị trong XH
Cũng có thể phân biệt chức năng của N/N từ phạm vi tác động của quyền lực N/N ở tầm vĩ
mô, theo đó N/N có chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội là duy trì trật tự Ktế,
Ch/trị, XH và các trật tự khác hiện có trong XH theo pháp luật, thông qua pháp luật N/N bắt
buộc mọi thành viên khác sức mạnh cưỡng chế phải tuân theo và sự dụng các phương tiện khác
để củng cố, mở rộng ý chí của GC thống trị trong XH. Chức năng đối ngoại là Th/hiện các Q/hệ
về mặt N/N đối với các nước khác trên các lĩnh vực Ktế, Ch/trị, văn hóa giáo dục, Kh/học kỹ
thuật, an ninh, quốc phòng,…. nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, Q/hệ với các nước khác vì lợi
ích của quốc gia và của GC thống trị đối với các nước khác
Trong Lsử Ph/triển của mình, N/N có những kiểu sau: N/N chủ nô, N/N phong kiến, N/N tư
sản, N/N XHCN. Các kiểu N/N chủ nô, Phong kiến, tư sản mỗi kiểu N/N có B/chất riêng
nhưng đều mang một số đặc điểm chung, đều là những “N/N theo đúng nghĩa” đuợc XD trên
Csở của chế độ tư hữu về TLSX và là công cụ để duy trì sự thống trị của GC bóc lột đối với
đông đảo QC Nh/dân L/động. Khác với các kiểu N/N bóc lột, N/N XHCN là “nữa N/N” tức là
N/N của Nh/dân L/động, Th/hiện dân chủ và công bằng XH cho tất cả công dân.
N/N XHCN ra đời và tồn tại trong thời kỳ quá độ từ XH tư bản lên XH cộng sản là tất yếu
khách quan của Lsử. Vì thời kỳ quá độ là thời kỳ còn tồn tại GC, còn có ĐTGC. Đó là thời kỳ
cải biến CM liên tục và phức tạp để xoá bỏ XH cũ, XD XH mới. Để làm đuợc việc đó thì
chuyên chính của một GC CM (chuyên chính vô sản) là tất yếu vừa để trấn áp kẻ thù, chống lại
sự kháng cự của GC bóc lột, đập tan những âm mưu chống phá hoạt động thù địch, vừa để tổ
chức XH mới, thiết lập sự thống trị về Ch/trị của GC vô sản vừa Th/hiện quyền làm chủ của
Nh/dân L/động.
N/N XHCN là N/N kiểu mới: đó là N/N của dân, do dân và vì dân. Mặc dù vẫn mang tính
GC được biểu hiện qua sự L/đạo của Đảng Cộng sản nhưng N/N XHCN có Csở cho sự thống
nhất giữa tính GC và tính Nh/dân là vì lợi ích của GC vô sản phù hợp với lợi ích của đông đảo

QC Nh/dân L/động. B/chất của N/N chuyên chính vô sản thực chất là Th/hiện quyền làm chủ
của Nh/dân L/động. Tính Nh/dân thể hiện ở toàn bộ quyền lực của Nh/dân L/động. Nó dân chủ
với đa số Nh/dân và chuyên chính với thiểu số kẻ thù của Nh/dân.
N/N XHCN lấy chức năng tổ chức XD XH mới là chức năng chủ yếu. Đương nhiên N/N
XHCN cũng có chức năng trấn áp GC bóc lột, các lực lượng thù địch của Nh/dân nhưng chức
năng XD là chủ yếu vì có tổ chức XD thành công XH mới, mới bảo đảm thắng lợi hoàn toàn và
triệt để của CNXH. Mặt khác, N/N vô sản còn nắm các tư liệu sản xuất chủ yếu của XH, vì vậy
phải tổ chức XD từ góc đến ngọn, từ LLSX đến Q/hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Chức
Trang 19
năng tổ chức XD XH mới là Nh/vụ hoàn toàn mới mẻ và đầy khó khăn phức tạp do đó đòi hỏi
tính năng động sáng tạo.
Song cũng phải nhận thấy rằng sự tồn tại của N/N XHCN cũng chỉ là quá độ đi đến thủ tiêu
vì N/N vô sản (N/N XHCN ) là N/N đặc biệt “N/N tự tiêu vong”. Sự tiêu vong Ko phải là quá
trình giảm vai trò và hiệu lực của N/N mà là quá trình tăng cường và hoàn thiện Ko ngừng N/N,
tăng cường và hoàn thiện chế độ dân chủ là Đ/kiện để N/N tiêu vong. Đó là biện chứng của quá
trình Ph/triển hoàn thiện N/N thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS.
Đối với nước ta, việc XD N/N XHCN là vấn đề hết sức quan trọng, là đòi hỏi khách quan
trong quá trình đi lên CNXH bởi vì vấn đề chính quyền luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc
CM. Chúng ta chỉ có thể Th/hiện được quyền làm chủ của Nh/dân L/động, XD thành công
CNXH, khi có một N/N thực sự vững mạnh.
Hệ thống Ch/trị của nước ta bao gồm ĐCSVN, N/N Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức Ch/trị - XH. Mỗi thành phần trong hệ thống Ch/trị có vai trò riêng của mình
trong sự nghiệp CM nhưng trong đó N/N luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong sự nghiệp XD
và bảo vệ đất nước.
Ở nước ta, dưới sự L/đạo của Đảng - thời gian qua bên cạnh những việc đã làm được trong
XD và bảo vệ tổ quốc, N/N ta cũng còn những thiếu sót, những nhược điểm của một N/N ở thời
kỳ quá độ. Tính quá độ đó thể hiện qua sự “yếu kém”, “bất cập” trong hoạt động của Đảng và
N/N ta trước thời kỳ Đ/mới.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, trong G/đoạn
đầu XD CNXH đất nước ta vẫn còn đang trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, Csở hạ tầng còn

thấp, nền Ktế lạc hậu thủ công, trình độ LLSX và năng lực tổ chức Q/lý còn rất thấp, đồng thời
đất nước vừa mới kết thúc chiến tranh nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn rất nặng nề. Do đó
trong G/đoạn này, việc tổ chức, XD, Q/lý đất nước của hệ thống Ch/trị nói chung và N/N nói
riêng còn nhiều bất cập. Tổ chức bộ máy N/N cồng kềnh, kém hiệu lực, nạn quan liêu, tham
nhũng, lãng phí xảy ra nghiêm trọng, Th/hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn yếu; sự L/đạo
của Đảng chưa được tăng cường đúng mức, chưa có quy chế rõ ràng đảm bảo cho việc kiện
toàn và phát huy hiệu lực của bộ máy N/N; hệ thống pháp lý chưa đồng bộ, chưa tạo đủ khuôn
khổ pháp lý cần thiết, việc xem thường pháp luật kỷ cương vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi….
Văn kiện Đại hội VI đã chỉ rõ những yếu kém trong hoạt động L/đạo và điều hành đất nước
của Đảng và N/N ta G/đoạn này trên tất cả các mặt. Về việc Th/hiện chức năng XH, Đảng và
N/N đã sai lầm “do chưa Nh/thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình Lsử
tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chủ quan nóng vội muốn bỏ qua
những bước đi cần thiết nên từ Đại Hội IV của Đảng chưa xác định những mục tiêu của chặng
đường đầu tiên , đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề
cần thiết, mặt khác chậm Đ/mới cơ chế Q/lý Ktế đã lỗi thời.”, “đã đề ra chỉ tiêu kế hoạch quá
cao về XD cơ bản và Ph/triển sản xuất, thiên về XD CN nặng và những công trình quy mô lớn,
Ko tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương thực thực phẩm kết quả là đầu tư nhiều
nhưng hiệu quả thấp”, “chậm Đ/mới cơ chế Q/lý Ktế đã lỗi thời”, “duy trì quá lâu cơ chế Q/lý
Ktế tập trung quan liêu bao cấp”, “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành
phần Ktế phi XHCN” và “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ
“, chưa Nh/thức và V/dụng đúng đắn các Q/luật khách quan, đặc biệt là các Q/luật tác động
trong lĩnh vực Ktế – XH. Về việc Th/hiện chức năng chuyên chính vô sản, Văn kiện Đại hội VI
nêu rõ những khuyết điểm đó là : “tình trạng buông lỏng chuyên chính vô sản thể hiện ở nhiều
khuyết điểm chưa sử dụng đầy đủ sức mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản để thiết lập và
giữ vững trật tự XHCN đã để cho pháp luật và kỷ cương N/N bị vi phạm ngày càng phổ
biến”
Trang 20
Văn kiện Đại hội VI nêu rõ : “Những sai lầm và khuyết điểm trong L/đạo KT, XH, bắt
nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”.

Trong công tác tổ chức Đảng và bộ máy N/N, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm
Đ/mới công tác cán bộ. Bố trí cán bộ theo quan niệmcủ kỹ, nặng tính hình thức, thiên về nhiệt
tình CM, coi nhẹ tri thức Kh/học. Trong bộ máy Đảng và N/N còn thể hiện thiếu dân chủ như
chưa chú ý lắng nghe ý kiến của QC Nh/dân, phong cách và lề lối làm việc mang nặng tính
quan liêu lời nói Ko đi đôi với việc làm . Việc chỉ đạo điều hành thường Ko tập trung thiếu nhất
quán, nhiều Đảng bộ và cấp uỷ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nhiều nơi xảy ra hiện
tượng Đảng bao biện làm thay công việc của N/N. Bộ máy Đảng, N/N và các tổ chức đoàn thể
phình ra quá lớn, chồng chéo và kém hiệu quả. Công tác giáo dục Q/lý cán bộ, đảng viên thiếu
chặt chẽ, công tác đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ đảng viên Ko
đáp ứng kịp yêu cầu Nh/vụ mới, thậm chí có một số cán bộ đảng viên thoái hoá biến chất.
Tóm lại, những khuyết điểm trên đây làm suy yếu năng lực, sức sống của hệ thống Ch/trị
XHCN ở nước ta, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả L/đạo của Đảng và mối Q/hệ mật thiết giữa
Đảng – QC bị tổn thương.
Ở đây, cần Nh/thức rỏ N/N pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng,
quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy N/N và trong đời
sống xã hội. N/N pháp quyền là N/N quản lý xã hội theo pháp luật và đề cao quyền của con
người, quyền của công dân. Xây dựng N/N pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực N/N
thuộc về nhân dân. Đó là N/N quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân
chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan
N/N và cán bộ viên chức N/N, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương,
bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của N/N. Đó là N/N mà tất cả các cơ quan N/N, các tổ
chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành
hiến pháp và pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật nước ta xác nhận quyền của công dân tham gia quản lý N/N, quản lý
xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ
quan N/N. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đảm bảo mọi quyền tự do
cơ bản trong đó có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo. Các

quyền tự do đó là cơ sở để nhân dân kiểm tra hoạt động của N/N và là một trong những phương
thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy việc chăm lo con người, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mọi người ; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia ; đổi mới thể chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ
quan, cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân ; thực hiện
tốt Quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia
quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân
chủ hình thức, là những nội dung hết sức quan trọng của việc thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Quyền lực N/N ở nước ta là quyền lực N/N thống nhất. Đó là sự thống nhất ở mục tiêu
chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo thể chế tổ chức thì
Trang 21
quyền lực N/N tập trung vào những cơ quan đại diện cho nhân dân, do tuyệt đại đa số cử tri bầu
ra và do đó là quyền lực của nhân dân giao phó cho các đại diện của mình.
Do vậy, đứng trước tình hình trên đòi hỏi tất yếu phải Đ/mới hệ thống Ch/trị. Một trong
những N/dung cơ bản của Đ/mới hệ thống Ch/trị ở nước ta hiện nay được Đảng ta xác định là :
“XD N/N XHCN của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh GCCN với GCND và tầng lớp tri
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng Sản L/đạo”. Q/điểm đó tiếp tục được Đại Hội Đảng lần IX
Kh/định : “N/N ta là công cụ chủ yếu để Th/hiện quyền làm chủ của Nh/dân, là N/N pháp
quyền của dân, do dân và vì dân”.
Như vậy, việc XD và Đ/mới hoạt động của bộ máy N/N tà được dựa trên những nguyên tắc
cơ bản bao gồm :
Một là, N/N phải là công cụ chủ yếu Th/hiện quyền lực của người dân, quyền lực của N/N
là thuộc về Nh/dân L/động. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của N/N phải đảm bảo cho NDLĐ
thật sự Th/gia Q/lý N/N, Th/gia XD pháp luật, Th/gia những công việc trọng đại của N/N :
Th/gia kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan N/N … N/N của chúng ta do Nh/dân
lập ra thông qua tổng tuyển cử toàn dân được đặt dưới sự kiểm soát của Nh/dân. Mọi quyền lực
mà N/N có được đều do Nh/dân ủy quyền. Mọi chủ trương Ch/sách của N/N đều vì lợi ích của
Nh/dân, nó kiên quyết đập tan mọi mưu đồ đi ngược lại ý chí của Nh/dân.
Hai là, N/N XHCN phải là N/N pháp quyền mà đặc trưng quan trọng là phải có hệ thống
pháp luật đầy đủ, pháp luật là khuôn khổ cho hoạt động hợp lý của N/N và là khuôn khổ cho

hoạt động của toàn XH. Từ đó cũng đặt ra cho chúng ta Nh/vụ: Cùng với việc Đ/mới cơ cấu tổ
chức bộ máy, nâng cao bản lĩnh Ch/trị và năng lực chuyên môn của đội ngũ công chức N/N,…
thì vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải Ko ngừng Đ/mới, bổ sung, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tạo ra những Đ/kiện để pháp luật phát huy sức mạnh của nó trong thực tế
Ba là, quyền lực N/N là thống nhất trên Csở có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan
chức năng trong việc Th/hiện 3 quyền : hành pháp, lập pháp và tư pháp. Trong tổ chức và hoạt
động của mình, quyền lực N/N được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan N/N trong việc Th/hiện quyền hợp pháp hành pháp
và tư pháp. Trong tổ chức và hoạt động của mình, N/N pháp quyền XHCN VN Th/hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ. Chỉ khi đó nó mới đảm bảo tất cả quyền lực N/N thuộc về Nh/dân bảo
đảm sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của
cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nuớc và từng địa phương , của cả hệ thống bộ máy và
từng yếu tố cấu thành nó. Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu cũng như phân tán
cục bộ.
Bốn là, N/N Q/lý toàn bộ hoạt động XH, Q/lý toàn bộ nền Ktế nhiều thành phần và nắm các
tư liệu sản xuất chủ yếu của XH. N/N phải luôn đặt dưới sự L/đạo của Đảng để thể hiện rõ
B/chất GC của mình, để có đủ hiệu lực Q/lý N/N và để Nh/dân Th/hiện quyền làm chủ tốt hơn.
Năm là, N/N CNXH VN có sự thống nhất hữu cơ chức năng GC và chức năng XH trong tổ
chức và hoạt động của mình. Càng đứng vững trên lập trường GC công nhân càng có khả năng
phát hiện, Nh/thức và giải quyết có hiệu quả những vấn đề có liên quan tới chức năng XH.
Ngược lại việc Th/hiện tốt chức năng XH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả Th/hiện chức năng
XH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả Th/hiện chức năng GC. Chính bằng cách đó và cũng chỉ
bằng cách đó, N/N XHCN mới thực sự là N/N của dân do dân và vì dân và có tác động tích cực
đối với sự Ph/triển KT-XH của đất nuớc.
Sáu là, N/N XHCN lấy liên minh GC công nhân với GCNgdân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng. Khối liên minh này là Csở vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên sức mạnh
mới trong sự nghiệp XD và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Liên minh này góp phần giữ vững vai trò
L/đạo cũa GCCN, phát huy cao độ sức mạnh làm chủ của NDLĐ mà nồng cốt là CN, ND và
Trang 22
tầng lớp trí thức. Ngày nay, trong cuộc CMKH và CN, GCCN, nông dân Ko thể Th/hiện được

mục tiêu của mình đề ra nếu Ko có đội ngũ trí thức và bản thân GC công nhân và nông dân Ko
dần dần đuợc tri thức hoá. Mặt khác tầng lớp trí thức chỉ có thể có Đ/kiện phát huy khả năng
của mình khi họ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CM của GCCN và ND, đồng thời có đủ Đ/kiện
để Th/hiện ước mơ của mình.
Trong G/đoạn trước mắt để N/N ta thực sự là N/N của dân, do dân và vì dân, một N/N trong
sạch vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả chúng ta phải Th/hiện đồng bộ một loạt các Nh/vụ :
Đ/mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ
hoạt động của N/N, đẩy mạnh cải cách nền hành chánh N/N . Đồng thời với việc Th/hiện những
Nh/vụ đó là đẩy mạnh cuộc Đ/tranh chống bệnh quan liêu tham nhũng trong bộ máy N/N. Tăng
cường vai trò L/đạo của ĐCSVN đối với N/N. Cũng cố khối liên minh công-nông-trí thức. Cải
cách nền hành chính quốc gia trên cả lãnh vực thể chế hành chính, bộ máy làm công tác hành
chính, đội ngũ công chức hành chính…
Tóm lại, bằng việc Th/hiện tổng hợp và đồng bộ những Nh/vụ đó chúng ta chắc chắn sẽ đạt
được bước tiến căn bản trong việc hoàn thiện N/N CH XHCN VN mà theo Đại Hội IX xác định
: “N/N ta là công cụ chủ yếu để Th/hiện quyền làm chủ của ND, là N/N pháp quyền của dân, do
dân, vì dân”.
TỒN TẠI XÃ HỘI & Ý THỨC XÃ HỘI
Mối Q/hệ biện chứng giữa tồn tại XH và ý thức XH, V/dụng để phân tích Ph/hướng Đ/mới
sau đây của Đảng ta “Tăng trưởng Ktế đi lên gắn liền với Ph/triển văn hóa, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của Nhdân, Th/hiện tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ và cải thiện
môi trường XH” (Văn kiện ĐH IX, trang 89)
XH loài người tồn tại và Ph/triển theo những Q/luật khách quan và những Q/luật đó được
Th/hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, Nh/thức đúng đắn B/chất của ý
thức XH và sự chuyển hóa từ tư tưởng thành hiện thực trong đời sống XH có ý nghĩa rất quan
trọng để hiểu Lsử XH loài người. Trên Csở nghiên cứu, V/dụng mối Q/hệ biện chứng giữa tồn
tại XH và ý thức XH, trong Ph/hướng Đ/mới đất nước, Đảng ta đã Kh/định “Tăng trưởng Ktế đi
lên gắn liền với Ph/triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhdân,
Th/hiện tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ và cải thiện môi trường XH”.
Tồn tại XH là đời sống (sinh hoạt) vật chất của XH cùng toàn bộ những Đ/kiện sinh hoạt
vật chất của XH. Trước hết sinh hoạt vật chất của XH phương thức sản xuất (bao gồm LLSX

và Q/hệ sản xuất). Sinh hoạt vật chất của XH còn bao gồm những sinh hoạt vật chất khác như :
trao đổi, tiêu dùng hàng ngày, kế thừa tài sản Đ/kiện sinh hoạt vật chất của XH bao gồm :
Trang 23
Đ/kiện tự nhiên xung quanh, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số … Trong các yếu tố cấu
thành nên tồn tại XH, phương thức SX là nhân tố cơ bản vì nó có ảnh hưởng quyết định đến sự
biến đổi của ý thức XH và nó làm thay đổi ý nghĩa của hoàn cảnh địa lý và Đ/kiện dân số trong
sự Ph/triển của XH.
Ý thức XH là mặt tinh thần của đời sống XH bao gồm toàn bộ những Q/điểm tư tưởng lý
luận cùng những tình cảm, tâm trạng, mong muốn, truyền thống … phản ánh tồn tại XH trong
những G/đoạn Ph/triển Lsử XH nhất định.
Căn cứ vào trình độ Nh/thức, có thể phân ý thức XH thành ý thức XH thông thường và ý
thức lý luận (ý thức lý luận làm gia tăng yếu tố Kh/học, trí tuệ của ý thức thông thường). Nói
cách khác, ý thức XH biểu hiện qua tâm lý XH và hệ tư tưởng.
Trong XH có GC, các GC có những Đ/kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, những lợi ích
khác nhau do địa vị XH của mỗi GC quy định nên ý thức XH cũng có tính GC, nghĩa là mỗi
GC đều có những Q/điểm, tư tưởng và tâm lý riêng, Ko có ý thức chung cho mọi GC mà chỉ có
ý thức chung cho một GC nhất định. Hệ tư tưởng thống trị trong mỗi thời đại là hệ tư tưởng của
GC thống trị về Ktế. GC thống trị luôn tìm cách hạn chế ý thức của GC bị trị và truyền bá ý
thức của GC Hì/thành của XH.
Khi nghiên cứu về ý thức XH, CN duy vật Lsử đã đặt ý thức XH trong Q/hệ với Csở vật
chất, với Csở Ktế để nghiên cứu và từ đó Kh/định ý thức XH và tồn tại XH có Q/hệ biện chứng
với nhau.
Trong mối Q/hệ đó tồn tại XH giữ vai trò quyết định đến N/dung, khuynh hướng Ph/triển
của ý thức XH, ý thức XH là sự phản ánh của tồn tại XH, phụ thuộc vào tồn tại XH. Ý thức XH
do tồn tại XH sinh ra, N/dung của nó là kết quả của sự phản ánh tồn tại XH. Khi tồn tại XH tác
động đến Nh/thức của chủ thể thì Hì/thành những Q/điểm, tư tưởng, nhận định và thái độ của
chủ thể. Sự phản ánh của ý thức XH bao giờ cũng xuyên qua một mắt khâu là lợi ích, trong XH
có GC đó là lợi ích của GC. Do đó xem xét N/dung của ý thức XH phải gắn chặt chẽ với Q/hệ
lợi ích. Mặt khác, ý thức XH là sự phản ánh tồn tại XH nhưng Ko phải bất cứ tư tưởng nào, một
hình thức ý thức XH nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp các Q/hệ Ktế của thời đại mà nó có

thể là phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp qua khâu trung gian, nhưng xét đến cùng bằng cách này
hay cách khác nó vẫn phản ánh các Q/hệ Ktế của thời đại. Tính quyết định của tồn tại XH đối
với ý thức XH còn thể hiện khi tồn tại XH - nhất là phương thức sản xuất - biến đổi thì ý thức
XH (những tư tưởng và lý luận XH, những Q/điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức,
văn hóa, nghệ thuật …) sớm muộn sẽ biến đổi theo. Thực tiễn Lsử đã chứng minh các thời đại
khác nhau có những tư tưởng khác nhau đều bắt nguồn từ sự khác nhau của Csở Ktế và sự thay
đổi, Ph/triển của ý thức XH trước hết là xuất phát từ sự thay đổi và Ph/triển của phương thức
sản xuất.
Khi Kh/định vai trò quyết định của tồn tại XH đối với ý thức XH, CN duy vật Lsử Ko xem
ý thức XH như là một yếu tố thụ động trái lại còn nhấn mạnh tác động tích cực, sáng tạo của ý
thức XH đối với đời sống Ktế XH, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức XH, nghĩa là
tuy bị tồn tại XH quy định nhưng ý thức XH lại vừa có tính Q/luật, lôgíc Ph/triển riêng. Sự
thống nhất giữa chức năng phản ánh và chức năng sáng tạo tích cực của ý thức XH đối với tồn
tại XH biểu hiện ở chổ ý thức XH vừa vượt trước vừa lạc hậu so với sự Ph/triển của tồn tại XH.
Sự lạc hậu của ý thức XH thường xảy ra khi ý thức XH Ko phản ánh kịp thời sự vận động,
Ph/triển của đời sống XH bởi vì ý thức XH chí là cái phản ánh được sinh ra từ tồn tại XH, còn
tồn tại XH thì gắn trực tiếp với hoạt động thực tiễn nên thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu
của ý thức XH còn thể hiện ở những tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của XH của XH cũ còn rơi
rớt lại vẫn tồn tại dai dẳng sau khi tồn tại XH đã thay đổi, bởi vì những tư tưởng, tâm lý một khi
đã ăn sâu vào đời sống XH và trở thành lối sống, nếp nghĩ phong tục, tập quán, thói quen thì nó
Trang 24
có tính ổn định tương đối và tồn tại lâu hơn, Ko dễ mất đi ngay. Mặt khác, các GC lỗi thời,
phản động cũng tìm cách duy trì những tư tưởng cũa nhằm phục vụ lợi ích của chúng, như lối
sống ăn bám, chây lười L/động, tệ nạn tham nhũng … Lê nin nói rằng: “Một người bệnh chết đi
ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh nhưng một XH mất đi ta Ko thể đem chôn cùng những
căn bệnh của nó được mà những căn bệnh này rữa ra xâm nhập vào những con người đang
sống”
Những hiện tượng ý thức lạc hậu tiêu cực Ko mất đi dễ dàng cho nên sự nghiệp XD XH
mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng XD ý thức XH mới (CM tư tưởng)
Đ/tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt

tư tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý thức cũ đồng thời ra sức phát huy những truyền thống
tư tưởng tốt đẹp.
Khi Kh/định tính lạc hậu hơn của ý thức XH so với tồn tại XH, triết học Mác đồng thời
cũng thừa nhận rằng trong những Đ/kiện vật chất nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt
những tư tưởng Kh/học tiên tiến có thể vượt trước sự Ph/triển của tồn tại XH, phản ánh đúng
Q/luật vận động và Ph/triển của tồn tại XH. Từ đó nó đưa ra các dự báo tương lai một cách
Kh/học, giúp con người xác định được mục tiêu và lựa chọn những giải pháp, định hướng cho
việc tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người để đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên khi
nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại XH, dự kiến được quá trình khách quan của sự
Ph/triển XH thì Ko có nghĩa là trong trường hợp này ý thức XH Ko còn bị tồn tại XH quyết
định nữa. Tư tưởng Kh/học tiên tiến Ko thoát ly tồn tại XH mà phản ánh chính xác, sâu sắc mối
Q/hệ tất yếu, B/chất của tồn tại XH.
Ý thức XH của một thời đại bao giờ cũng phản ánh đời sống vật chất của thời đại đó, đồng
thời là sự kế thừa của những giá trị tinh thần mà các thế hệ trước đó tích lũy được. Q/hệ kế thừa
nói lên sự Ph/triển liên tục về tư duy giữa các thế hệ, tuy nhiên nó Ko phải là việc sử dụng kế
thừa máy móc mà trên Csở “lọc bỏ”. Kế thừa và lọc bỏ là biện chứng của sự Ph/triển của ý thức
XH, N/dung kế thừa hoặc lọc bỏ xuất phát từ Q/hệ về lợi ích và nhu cầu của GC chi phối.
Những GC khác nhau kế thừa những N/dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Vì vậy,
khi tiến hành cuộc Đ/tranh GC trên lĩnh vực ý thức thì Ko những phải vạch ra tính chất phản
Kh/học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động trong Đ/kiện hiện tại mà còn phải
chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong Lsử và phải kế thừa, phát huy những giá trị
tinh thần tiến bộ của dân tộc và nhân loại. Tuy nhiên, xét đến cùng thì tồn tại XH vẫn quyết
định N/dung và khuynh hướng của sự kế thừa.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái ý thức XH đều phản ánh tồn tại XH với
những đặc trưng riêng và giữ chức năng XH khác nhau, Ko thể thay thế cho nhau nhưng lại tồn
tại trong sự liên hệ tác động xâm nhập vào nhau, làm cho mỗi hình thái ý thức XH có những
mặt, những tính chất bị ảnh hưởng bởi hình thái khác. Trong sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau
đó thì tuỳ Đ/kiện cụ thể mà một hình thái nào đó có ảnh hưởng lớn hơn nhưng ở XH hiện đại
thì ý thức chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất. Do đó trong quá trình XD ý thức XH mới phải
Ph/triển hài hòa và đồng bộ tất cả các hình thái ý thức XH tránh mâu thuẩn đối lập nhau.

Ý thức XH là do tồn tại XH quyết định nhưng lại tác động trở lại tồn tại XH. Sự tác động
này vừa thể hiện tính độc lập tương đối của ý thức XH vừa nói lên vai trò của ý thức XH. Sự
tác động ý thức XH đối với tồn tại XH diễn ra hai khuynh hướng khác nhau. Những tư tưởng
Kh/học và tiến bộ góp phần thúc đẩy XH Ph/triển; ngược lại những tư tưởng lạc hậu, phản động
thì cản trở sự Ph/triển của XH. Tính chất và hiệu quả tác động trở lại của ý thức XH phụ thuộc
vào các yếu tố : vai trò Lsử của GC chủ thể của tư tưởng, trình độ phù hợp của ý thức đối với
hiện thực và mức độ truyền bá và xâm nhập của tư tưởng cả bề rộng lẫn bề sâu trong QCND.
Sự tác động của ý thức XH đối với tồn tại XH Ko phải là trực tiếp biến đổi tồn tại XH mà nó
Trang 25

×