Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

tài liệu tham khảo NGữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.41 KB, 70 trang )

CHƯƠNG I
KIẾN THỨC LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
A. . QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC VIỆT TỪ NĂM 1945 ĐẾN
HẾT THẾ KỈ XX
I. VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1975
1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội
– Nền văn học vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng.Hình thành kiểu nhà văn
mơí: Nhà văn– Chiến sĩ.
– Văn học Việt Nam giai đoạn này tồn tại và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt: chiến tranh ác liệt kéo dài 30 năm, miền Bắc xây dựng cuộc sống mới, giao lưu văn hoá bị
hạn chế.
– Do ảnh hưởng của chiến tranh nên nền văn học có đặc điểm riêng.
2. Các chặng đường phát triển và thành tựu chủ yếu
2.1. Chặng đường 1945 -1954: văn học thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp
– Nội dung: ca ngợi Tổ quốc và quần chúng cách mạng, kêu goị tinh thần đoàn kết, cổ vũ
phong trào Nam tiến.Văn học gắn bó sâu sắc với cuộc kháng chiến.
Tác phẩm tiêu biểu: Tây Tiến (Quang Dũng), Việt Bắc (Tố Hữu), Đất nước(Nguyễn Đình
Thi), Truyện Tây Bắc (Tô Hoài)
2.2. Chặng đường 1955 – 1964: văn học trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh thống nhất ở miền Nam
– Nội dung: ngợi ca công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tình cảm sâu nặng
với miền Nam; đấu tranh thống nhất nước nhà ; tinh thần lạc quan, tin tưởng.
Tác phẩm tiêu biểu: Vợ nhặt (Kim Lân), Sông Đà (Nguyễn Tuân)
2.3. Chặng đường 1965 – 1975: văn học thời kì chống Mĩ cứu nước
– Nội dung: ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng .
Tác phẩm tiêu biểu: Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Rừng xà nu(Nguyễn
Trung Thành), Những đứa con trong gia đình(Nguyễn Thi)
3. Những thành tựu và hạn chế của VHVN từ cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975:
* Thành tựu:
- Thực hiện xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giao phó; thể hiện hình ảnh con người Việt Nam trong
chiến đấu và lao động.


- Tiếp nối và phát huy những truyền thống tư tưởng lớn của dân tộc: truyền thống yêu nước,
truyền thống nhân đạo và chủ nghĩa anh hùng.
- Những thành tựu nghệ thuật lớn về thể loại, về khuynh hướng thẩm mĩ, về đội ngũ sáng tác,
đặc biệt là sự xuất hiện những tác phẩm lớn mang tầm thời đại.
* Hạn chế: giản đơn, phiến diện, công thức.
4. Những đặc điểm cơ bản của VHVN từ cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975:
- Văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu.
- Nền văn học hướng về đại chúng.
- Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạng.
II. VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU 1975 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX
1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa
Đất nước được hoà bình. Công cuộc đổi mới đất nước từ sau năm 1986 đã thúc đẩy nền
văn học đổi mới.
2. Những chuyển biến và một số thành tựu ban đầu
- Những chuyển biến ban đầu: văn học từ cái ta công đồng bắt đầu chuyển hướng về với cái
tôi muôn thuở
- Đặc điểm: văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc;
có tính hướng nội, quan tâm nhiều tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời
thường; có nhiều tìm tòi đổi mới về nghệ thuật.
1
- Thành tựu cơ bản nhất của văn học thời kì này chính là ý thức về sự đổi mới, sáng tạo trong
bối cảnh mới của đời sống
- Tác phẩm tiêu biểu: Sóng (Xuân Quỳnh), Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo), Ai đã đặt tên
cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Hồn
Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ).
* CÂU HỎI KIỂM TRA KIẾN THỨC:
1. Cho biết các chặng đường phát triển và thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam giai
đoạn 1945-1975.
2. Nêu những đặc điểm cơ bản của VHVN từ cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975.
3. Nêu những chuyển biến và một số thành tựu ban đầu của VHVN giai đoạn sau 1975 đến

hết thế kỉ XX.
B. CÁC TÁC GIẢ TIÊU BIỂU
I. HỒ CHÍ MINH
1. Vài nét về tiểu sử
– Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (mất ngày 2 tháng 9 năm 1969),
xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước ở Nam Đàn, Nghệ An, một vùng giàu truyền
thống văn hóa và Cách mạng.
– Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn bó với nước, với dân , với phong trào cách
mạng của các dân tộc tr5ên thế giới.
– Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời là
một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào quốc tế cộng sản, là danh nhân văn hóa thế giới.
2. Sự nghiệp văn học
2.1. Quan điểm sáng tác
– Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một vũ khí chiến đấu lợi hại phụng sự cho sự nghiệp cách
mạng, Người khẳng định : “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên
mặt trận ấy”. Nhà văn phải có tinh thần xung phong như ngươì chiến sĩ. Nghĩa là văn chương phải
có chất ”thép”
– Người quan niệm văn chương phải có tính chân thật và tính dân tộc
- Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung,
hình thức của tác phẩm : “Viết cho ai?”(đối tượng), “Viết để làm gì ?”(mục đích) và “Viết cái
gì ?”(nội dung), “Viết như thế nào ?”(hình thức)…
2.2. Sự nghiệp văn học
– Văn chính luận : Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Tuyên ngôn Độc lập (1945), Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946)…
– Truyện và kí: Pa-ris (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923)
– Thơ ca : Nhật kí trong tù, Thơ Hồ Chí Minh, Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh.
2.3. Phong cách nghệ thuật
a) Văn chính luận
- Ngắn gọn, tư duy sắc sảo.
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, bằng chứng thuyết phục.

- Giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp.
b) Truyện và kí
- Rất hiện đại.
- Thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ.
- Nghệ thuật trào phúng vừa có sự sắc bén, thâm thúy vừa có cái hài hước, hóm hỉnh.
c) Thơ ca
- Thơ tuyên truyền : lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ nhớ, mang màu sắc dân gian hiện đại.
- Thơ nghệ thuật : vẻ đẹp hàm súc, có sự kết hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và hiện
đại, giữa chất trữ tình và tính chiến đấu.
II. TỐ HỮU
1. Vài nét về tiểu sử
2
– Tố Hữu (1920 – 2002) là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại; xuất thân
trong một gia đình có truyền thống Nho học và yêu văn chương tại Thừa Thiên – Huế ; sớm
giác ngộ lý tưởng cách mạng. Đó là những yếu tố quan trọng góp phần vào sự hình thành hồn
thơ cách mạng Tố Hữu.
– Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất chặt chẽ, sự nghiệp thơ
gắn liền với sự nghiệp cách mạng.
2. Sự nghiệp văn học
– Từ ấy (1937 – 1946) gồm 3 phần: Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng. Từ ấy ghi lại chặng
đường đấu tranh đầy gian khổ mà anh dũng của người chiến sĩ trẻ tuổi và cả niềm vui lớn lao
khi cách mạng thành công, đất nước được độc lập. Tác phẩm: Từ ấy, Nhớ đồng, Huế tháng
Tám…
– Việt Bắc (1946 – 1954): là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh
chặng đường kháng chiến gian lao nhưng hào hùng của dân tộc; ca ngợi vẻ đẹp nhân dân, đất
nước.Tác phẩm: Việt Bắc, Lên Tây Bắc, Lượm…
– Gió lộng (1955 – 1961): thể hiện niềm vui, niềm tin vào cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc; niềm tự hào về quá khứ ; tình cảm sâu nặng đối với miền Nam và ý chí thống nhất Tổ
quốc. Tác phẩm : Mẹ Tơm, Tiếng chổi tre, Ba mươi năm đời ta có Đảng…
– Ra trận (1962 – 1971): phản ánh không khí hào hùng cả nước chống Mỹ; bản anh hùng

ca về nhân dân miền Nam; tự hào về con người Việt Nam. Tác phẩm: Chào xuân 6 7; Bài ca
xuân 6 8, Lá thư Bến Tre…
– Máu và hoa (1972 – 1977): tổng kết cuộc kháng chiến và niềm vui chiến thắng bằng
cảm hứng lãng mạn anh hùng. Tác phẩm : Vui thế hôm nay, Với Đảng mùa xuân, Nước non
ngàn dặm…
– Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999): thay đổi cảm hứng và bút pháp nhưng vẫn sâu
nặng tình cảm đối với Đảng, nhân dân, đất nước. Tác phẩm: Chân trời mới…
3. Phong cách nghệ thuật
*Về mặt nội dung, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình – chính trị rất sâu sắc :
- Làm thơ trước hết là để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, cho lí tưởng của Đảng; đề tài và
nôị dung đều bắt nguồn từ các sự kiện cuả đời sống và lí tưởng cách mạng; thể hiện những tình
cảm lớn, ân tình đối với nhân dân, đất nước.
- Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Cái tôi trữ tình là cái tôi công dân,
cái tôi nhân danh cộng đồng dân tộc; nhân vật trữ tình đại diện cho phẩm chất dân tộc, giai cấp;
cảm hứng chủ đạo trong thơ là cảm hứng lãng mạn: say mê lý tưởng, tin tưởng vào tương lai
đất nước.
- Thơ Tố Hữu có giọng tâm tình ngọt ngào: xuất phát từ quan niệm thơ là tiếng nói đồng ý,
đồng chí, đồng tình và ảnh hưởng giọng Huế; giọng thơ tâm tình,tự nhiên, đằm thắm,chân
thành.
* Về mặt nghệ thuật, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc. Vấn đề cốt lõi của cách mạng và đời
sống được Tố Hữu phản ánh theo truyền thống đạo lí của ông cha (truyền thống thuỷ chung
son sắt…). Tính dân tộc còn thể hiện ở thể thơ truyền thống (chủ yếu là lục bát); trong vận
dụng tục ngữ, ca dao, những lối nói dân dã; trong cách cảm, cách thể hiện.
* CÂU HỎI KIỂM TRA KIẾN THỨC:
1. Cho biết quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh.
2. Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
3. Kể tên các chặng đường thơ và các tập thơ của Tố Hữu.
4. Cho biết phong cách nghệ thuật của Tố Hữu.
*Câu hỏi dành cho Hs khá:
? Vì sao nói Tố Hữu là nhà thơ trữ tình- chính trị? Phân tích khuynh hướng sử thi và

cảm hứng lãng mạn trong thơ Tố Hữu.
Trả lời:
3
1. Tố Hữu là nhà thơ - chiến sĩ. Thơ ông trước hết phục vụ cho cuộc đấu tranh cách mạng, cho
những nhiệm vụ chính trị cơ bản của đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình - chính trị bởi hồn thơ ông luôn hướng tới lẽ sống lớn, tình cảm lớn,
niềm vui lớn của con người cách mạng, của dân tộc.
Cái tôi trong thơ Tố Hữu là cái tôi chiến sĩ, về sau trở thành cái tôi nhân danh đất nước, nhân
danh cộng đồng dân tộc. Thơ Tố Hữu chủ yếu khai thác cảm hứng từ đời sống chính trị của đất
nước: giải phóng dân tộc, kháng chiến chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội Thơ Tố Hữu
không đi sâu vào cuộc sống và những tình cảm riêng tư mà tập trung thể hiện những tình cảm
lớn, mang tính chất tiêu biểu, phổ biến của con người cách mạng Niềm vui trong thơ Tố Hữu
là niềm vui lớn của lẽ sống lớn.
2. Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi. Ông coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối
tượng thể hiện chủ yếu. Thơ ông đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính sống
còn của cộng đồng, của cách mạng và dân tộc. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử-dân tộc.
Con người trong thơ Tố Hữu là con người của sự nghiệp chung với những cố gắng phi thường.
Họ được nhìn nhận chủ yếu từ nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Các nhân vật trữ tình thường
mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc, mang tầm vóc lịch sử và thời đại. Đó là những bà má
Hậu Giang, mẹ Suốt
Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu là cái tôi chiến sĩ, cái tôi công dân, cái tôi nhân danh công
đồng, dân tộc và cách mạng.
Những tư tưởng, tình cảm lớn, những vấn đề lớn của dân tộc được Tố Hữu thể hiện bằng một
giọng thơ mang cảm hứng lãng mạn cách mạng. Tố Hữu thể hiện vẻ đẹp lí tưởng của con
người và cuộc sống mới, thể hiện niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Thơ
Tố Hữu luôn tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng.
Chương II
KIẾN THỨC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ NƯỚC NGOÀI
A. ĐỌC – HIỂU VĂN NGHỊ LUẬN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
I. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh

1. Hoàn cảnh sáng tác
- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh; nhân dân ta vùng
dậy giành chính quyền.
- Ngày 28 tháng 8 năm 1945, Bác soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập tại tầng 2, căn nhà số
48, phố Hàng Ngang, Hà Nội.
- Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Bác đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, Hà
Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận:
a. Mục đích sáng tác:
Tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến; khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng
của dân tộc ta trên toàn thế giới.
b. Đối tượng tiếp nhận:
- quốc dân đồng bào.
- toàn thế giới.
- lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm nô dịch nước ta.
3. Nội dung cơ bản
- Nêu nguyên lí chung về quyền bình đẳng, tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con
người và các dân tộc.
- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp.
- Tuyên bố độc lập.
4. Nghệ thuật
– Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực giàu sức thuyết phục;
– Ngôn ngữ chính xác, gợi cảm.
4
– Giọng văn linh hoạt
5. Ý nghĩa văn bản
– Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá tuyên bố trước quốc dân đồng bào
và thế giới về quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam và khẳng định quyết tâm bảo vệ nền
độc lập, tự do ấy.
– Kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng độc lập, tự do.

– Là một áng văn chính luận mẫu mực.
* CÂU HỎI KIỂM TRA KIẾN THỨC:
1. Cho biết hoàn cảnh sáng tác bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh.
2. Cho biết mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận bản Tuyên ngôn Độc lập.
3. Bản Tuyên ngôn Độc lập có mấy nội dung chính? Đó là những nội dung nào?
4. Giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập lại mở đầu bằng việc trích dẫn Tuyên
ngôn độc lập của Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp?
5.Bản tuyên ngôn đã tố cáo những tội ác nào của thực dân Pháp?
6. Đặc sắc nghệ thuật của bản Tuyên ngôn Độc lập.
* Câu hỏi dành cho HS khá:
Hãy chứng minh: Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực.
II. Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc của Phạm Văn Đồng
1. Phạm Văn Đồng
Phạm Văn Đồng (1906-2000), nhà cách mạng xuất sắc, nhà văn hoá lớn, nhà lí luận Việt
Nam uyên bác của nước ta thế kỉ XX.
2. Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc
2.1. Hoàn cảnh ra đời:
Bài viết đăng trên tạp chí văn học số 7-1963, nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất của nhà thơ
Đồ Chiểu (3-7-1888), giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ cứu nước của nhân dân ta,
nhất là đồng bào Nam Bộ đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, in trong Tạp chí Văn học, tháng
7/1963.
2.2. Nội dung:
Bằng cách nhìn, cách nghĩ sâu rộng, mới mẻ và nhiệt tình của một người gắn bó hết mình
với đất nước, nhân dân, Phạm Văn Đồng đã làm sáng tỏ mối liên hệ khăng khít giữa thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ và thời đại hiện nay. Đồng thời tác giả
hết lòng ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu, một người trọn đời dùng cây bút làm vũ khí chiến đấu
cho dân cho nước, một ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ của dân tộc Việt Nam.
2.3. Nội dung cơ bản:
- Phần mở đầu: nêu cách tiếp cận vừa có tính khoa học vừa có ý nghĩa phương pháp luận
đối với thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

- Phần tiếp theo: ý nghĩa, giá trị to lớn của cuôc đời, sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình
Chiểu.
- Phần kết: khẳng định vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong nền văn học dân tộc.
2.3. Nghệ thuật
– Bố cục chặt chẽ, các luận điểm triển khai bám sát vấn đề trung tâm.
– Cách lập luận từ khái quát đến cụ thể, kết hợp cả diễn dịch, quy nạp và hình thức "đòn
bẩy".
– Lời văn có tính khoa học, vừa có màu sắc văn chương vừa khách quan ; ngôn ngữ giàu
hình ảnh.
– Giọng điệu linh hoạt, biến hoá: khi hào sảng, lúc xót xa,
2.4. Ý nghĩa văn bản
Khẳng định ý nghĩa cao đẹp của cuộc đời và văn nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu : cuộc
đời của một chiến sĩ phấn đấu hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ; sự nghiệp
5
thơ văn của ông là một minh chứng hùng hồn cho địa vị và tác dụng to lớn của văn học nghệ
thuật cũng như trách nhiệm của người cầm bút đối với đất nước, dân tộc.
* CÂU HỎI KIỂM TRA KIẾN THỨC:
1. Cho biết hoàn cảnh ra đời văn bản.
2. Cho biết nội dung cơ bản và đặc sắc nghệ thuật của văn bản.
B. THƠ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX
I. Tây Tiến của Quang Dũng
1. Nhà thơ Quang Dũng
– Quang Dũng (1921 – 1988) tên thật Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.Trước 1945, ông
học ở Hà Nộị. Sau 1945, ông vào bộ đội, từng làm đại đội trưởng đoàn quân Tây Tiến (1947).
Sau 1954, làm biên tập ở nhà xuất bản văn học.
- Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc…
– Thơ Quang Dũng mang vẻ đẹp phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.Tác phẩm
tiêu biểu: Rừng Biển Quê Hương (1957), Mây Đầu Ô (1986)
2. Bài thơ Tây Tiến
2.1. Hoàn cảnh ra đời

Bài thơ Tây Tiến được khơi nguồn cảm hứng từ nỗi nhớ đoàn quân Tây Tiến.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947 hoạt động ở biên giới
Việt – Lào, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao
lực lượng quân đội Pháp ở thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Chiến sĩ Tây
Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, chiến đấu trong
hoàn cảnh rất gian khổ nhưng họ rất lạc quan và dũng cảm.
Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập trung
đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi được chuyển sang đơn vị
khác. Rời đơn vị chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, ông viết Nhớ Tây Tiến sau đổi lại là Tây
Tiến và in trong Mây đầu ô.
2.2. Kết cấu bài thơ, ý chính mỗi đoạn và mạch liên kết giữa các đoạn
+ Đoạn 1: Nhớ về những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên
miền Tây.
+ Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm đẹp (Đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng)
+ Đoạn 3: Nhớ về những người đồng đội Tây Tiến.
+ Đoạn 4:Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
Mạch liên kết giữa các đoạn là cảm hứng về nỗi nhớ cuả Quang Dũng
2.3. Nội dung:
a/ Đoạn 1 : Nỗi nhớ về những chặng đường hành quân của bộ đội Tây Tiến và khung
cảnh núi rừng miền Tây.
- Hai câu thơ mở đầu:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ”
=> Hình ảnh “Sông Mã” như gợi thức nỗi nhớ ùa về trong tâm hồn nhà thơ.
=> Nhớ “Chơi vơi” (2 thanh bằng, nhẹ, lan toả, không hình không khối.
Hồn thơ Quang Dũng như đang bơi trong một biển nhớ bát ngát mênh mông, không bờ, không
bến, tràn ngập, chơi vơi Câu thơ như khơi dòng cho nguồn thác kí ức hiện về
- Bức tranh thiên nhiên miền Tây Vừa hùng vĩ, hiểm trở , hoang vu, nghiệt ngã vừa độc đáo thú
vị:
+ Hùng vĩ, hiểm trở (Mở ra trong nhiều chiều không gian, thời gian)

. Nhiều tên đất lạ lẫm, gợi 1 vùng xa xôi, hẻo lánh: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường
Hịch, Pha Luông, Mai Châu
. Nhiều đèo dốc hiểm trở: khúc khuỷu , thăm thẳm ,heo hút
6
=> Sử dụng từ láy giàu chất tạo hình, gợi tả, gợi cảm, những câu thơ toàn thanh trắc => Một
bức tranh hoành tráng với tất cả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền
Tây
. Nhiều vẻ hoang dại, bí ẩn, khắc nghiêt: Với mưa rừng, “Sương lấp đoàn quân mỏi”, “Thác
gầm thét”, “Cọp trêu người.”
- Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trong đoạn thơ :
+ Đó là những chiến sĩ anh hùng bất khuất không quản ngại vượt qua bao chặng đường gian
khổ , bao nhiêu hi sinh mất mát lớn lao: Nổi bật chất bi tráng.
+ Nhưng đó còn là những chàng trai hào hoa lãng mạn tinh nghịch với bao hăm hở khám phá,
chinh phục.
- Hai câu kết đoạn thơ : “ Nhớ ôi nếp xôi”=> Gợi không khí đầm ấm tình quân dân, như xua
đi bao mệt mỏi của cuộc hành trình,tạo cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho đoạn sau
b/ Đoạn 2: Nhớ về nhũng kỉ niệm đẹp - một vùng kí ức mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình
+ Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ: Những chàng trai Tây Tiến cùng những cô gái miền Tây
như hoà quỵên trong một không gian lãng mạn với
2. Đường nét uyển chuyển, man dại
3. Không khí sôi nổi, tình tứ
4. Âm thanh sắc màu hoà quyện
=>Cảnh vật và con người như hoà trong men say, tình tứ, ngây ngất, rạo rực,tình quân dân
thắm thiết.
+ Cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, mênh mang huyền ảo: “ Người đi Châu Mộc Hoa đong
đưa”
- Không gian dòng sông trong một buổi chiều sương huyền ảo, thơ mộng vừa hoang dại như
một bờ tiền sử-> Gợi sắc màu cổ tích huyền thoại.
- Nổi bật lên trên nền không gian ấy là dáng hình mềm mại uyển chuyển của cô gái miền Tây
trên chiếc thuyền độc mộc.

=> Thiên nhiên hoang sơ nhưng vẫn rất gần gũi gợi bao cảm xúc sâu lắng
c. Đoạn 3: Nhớ về những đồng đội Tây Tiến- những người lính mang vẻ đẹp lãng mạn và
chất bi tráng.
+ Chân dung : ( Gương mặt chung của những người lính TT qua kí ức của QD)
- Ngoại hình : Toát lên vẻ oai phong, dữ dằn qua cái nhìn lãng mạn của QD
- Tâm hồn: lãng mạn, mơ mộng, khát khao yêu đương
+ Sự hi sinh mất mát:
-Từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, độc hành > Gợi âm hưởng cổ kính, trang trọng.
- Hình ảnh về sự hi sinh lặp lại ở khổ1, nhưng được nâng lên tầm khái quát mang tầm vóc sử
thi, thần thoại.
- Sự thật bi thảm được làm mờ bằng những câu thơ gợi hình ảnh những tráng sĩ ngày xưa ra đi
vì nghĩa lớn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng
=> Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, toát lên vẻ đẹp hào hùng và hào hoa , đậm chất bi
tráng của người lính TT
d. Đoạn kết: Lời thề sắt son
- “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy ”=>thời điểm mơ mộng hào hùng một đi không trở lại.
- Câu kết ” Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện tinh thần “ một đi không trở lại” => Gợi
không khí một thời đại ra đi kháng chiến “thà chết chớ lui” của tuổi trẻ VN trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
2.4. Nghệ thuật
- Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
- Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt,…
- Kết hợp chất nhạc và chất họa.
2.5 . Ý nghĩa văn bản
7
Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền
Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng
sẽ luôn đồng hành trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta.
* CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Nêu vài nét về đoàn quân Tây Tiến và hoàn cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến ?

Câu 2. Hình ảnh thiên nhiên miền Tây ?
Câu 3. Chân dung người lính Tây Tiến ?
☺ THAM KHẢO:
* PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN
Nhắc đến Quang Dũng, độc giả không chỉ nhớ tới Tây Tiến như một kỉ niệm đẹp mà còn
gợi nhớ về hình ảnh xứ Đoài mây trắng : Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm (Đôi mắt người Sơn
Tây) – quê hương của nhà thơ – Phượng Trì, Đan Phượng, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Quang
Dũng đã mang “cái hào hoa của người Hà Nội và của cả xứ Đoài” ấy để làm nên chất men say
lãng mạn ở Tây Tiến cùng nhiều bài thơ khác của ông.
Đặc biệt, hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa của Quang Dũng được
thăng hoa ở Tây Tiến, nhất là đoạn thơ sau : …
1 – Một Tây Tiến dữ dội, hùng vĩ (Sông Mã xa rồi … mùa em thơm nếp xôi)
Cảm hứng bao trùm bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ. Mở đầu bài thơ là tiếng gọi thân
thương trìu mến hướng về Tây Tiến : “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !”. Sau tiếng gọi ấy chính là
nỗi nhớ Tây Tiến dạt dào cảm xúc :
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ khó định hình, khó nắm bắt nó nhẹ tênh bay bỗng nhưng nặng vô
cùng. Từ “chơi vơi” hợp với vần “ơi” ở câu trên đạ tạo âm hưởng lan toả. Nỗi nhớ ấy như vươn
theo thời gian, trải rộng với không gian và thấm vào lòng người.
Tây Bắc là nơi in đậm bao gian khổ, niềm vui, nỗi buồn của những người chiến sĩ, là
nơi mà Quang Dũng từng đi qua. Nỗi nhớ rừng núi với Quang Dũng đã bắt đầu bằng những
cuộc hành quân :
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường lát hoa về trong đêm hơi
Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi ấn tượng về vùng đất xa xôi, hoang sơ. Âm điệu
câu thơ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” như chùng xuống, đều đều, gợi lên sự mệt mỏi,
bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân sắp ngã, sắp chìm trong sương mù dày đặc. Thế
nhưng đến câu sau âm điệu như vút lên cao bởi câu thơ hầu hết là thanh bằng : Mường Lất hoa
về trong đêm hơi”. Đó là hình ảnh hoa rừng hiện ra trong sương mù, thật mơ mộng và lãng
mạn. “Hoa về” là một cách nói đa nghĩa, thể hiện sự táo bạo và mang đậm phong cách lính…

Hình ảnh ấy đã xoá tan cái mệt nhọc của đoàn quân để họ tiếp bước.
Tiếp theo là những câu thơ gợi ra cái hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc với
những núi cao, vực sâu, dốc thẳm :
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ở Tây Tiến ấy, câu chữ như bị bẻ gãy để tạo hình độ cao dựng đứng giữa hai triền dốc
núi: Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm ; Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống. Nhịp ngắt
4/3 quen thuộc của thể thơ bảy tiếng trở thành giao điểm phân định rạch ròi hai hướng lên
xuống của vô vàn con dốc tạo thành các cung đường hành quân Tây Tiến.
Ở Tây Tiến ấy, câu thơ nhiều thanh trắc (Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm) cùng
những từ ghép, từ láy giàu sức tạo hình được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp
: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút.
Thử thách với con người đâu chỉ ở núi cao, vực sâu, dốc thẳm. Đọc những câu thơ :
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
8
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
mà tưởng chừng gặp những chuyện chuyện đường rừng. Thác gầm thét và cọp trêu người gắn
với hai từ chiều chiều, đêm đêm dùng để chỉ tính thường trực, liên tục của những hiểm nguy
đang rình rập. Địa danh nào cảnh vật ấy. Chỉ cần đọc hai tiếng Mường Hịch như đã thấy lởn
vởn dấu chân cọp dữ vừa lướt qua.
Giữa cái hùng vĩ, dữ dội hoang sơ đó, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra với nhiều
nét rất đặc trưng của đời lính. Đọc theo từng câu thơ, chúng ta tưởng chừng như còn nghe
thấy hơi thở nặng nhọc của họ trên mỗi chặng hành quân vượt dốc, với những gương mặt dãi
dầu sương gió :
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Trên mỗi chặng đường, không ít người lính đã kiệt sức thậm chí có người đã hi sinh vì
lam sơn chướng khí, vì rừng thiêng nước độc. Cụm từ gục lên sung mũ toát lên một sự hi sinh

vô cùng cao đẹp vì hạnh phúc của mọi người. Hình ảnh thật là vừa bi vừa hùng.
Tuy nhiên, cũng có những giây phút đoàn quân cảm nhận được sự thư thái và niềm vui
của đời lính. Đó là niềm vui khi chinh phục được núi cao, rừng thẳm, là sự phát hiện rất đặc
biệt về độ cao : Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Đặc biệt, giữa mạch thơ tập trung diễn tả cái
dữ dội tột đỉnh của thiên nhiên, lại hiện ra một ánh nhìn vô cùng bay bổng của người lính Tây
Tiến : Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ toàn thanh bằng như toát lên một tiếng thơ
phào nhẹ nhõm của người lính sau chặng đường vượt dốc vất vả.
Vượt qua núi rừng, đoàn quân đến với những bản làng. Nơi đó, người lính ngập tràn
hạnh phúc giữa tình quân dân ấm áp với những hương vị đặc trưng của miền Tây :
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Khép lại đoạn thơ, người đọc hình dung rất rõ về một cuộc hành quân gian nan nhưng
đầy tinh thần lạc quan và lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Với cảm hứng lãng mạn, thủ pháp
đối lập được khai thác triệt để, đoạn thơ đã khắc hoạ được vẻ hoang vu, dữ dội của núi rừng
Tây Bắc và hình ảnh vừa bi vừa hùng của người lính Tây Tiến cũng như những kỉ niệm ấm áp
tình quân dân trong kháng chiến chống Pháp.
2 – Một Tây Tiến thơ mộng, trữ tình (Doanh trại … đong đưa)
Khác với đoạn thơ phía trên, đến đoạn thơ thứ hai này, hình ảnh thơ không còn dữ dội
mà đậm màu sắc trữ tình, thơ mộng với hai bức tranh, hai khung cảnh khác nhau : buổi liên
hoan ở doanh trại và cuộc tiễn đưa trong một chiều sương. Giọng thơ vì thế cũng chuyển từ
nặng nề sang rộn vui và có lúc sâu lắng thiết tha.
Bốn dòng thơ đầu tái hiện những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết trong đêm
liên hoan văn nghệ nơi bản làng mà đoàn quân Tây Tiến dừng chân nghỉ. Đoạn thơ đã
đem đến cho người đọc ấn tượng về không khí hội hè rộn ràng vui vẻ, cái nhìn chiêm ngưỡng,
say sưa mà đa tình của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa xứ lạ,
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. Truyện Kiều có câu : “Đuốc hoa

chẳng thẹn với chàng mai xưa” (3096). Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về
đêm liên hoan lửa trại của các chiến sĩ với đồng bào bản mường. Ánh sáng của hội hè bừng lên
từ đuốc hoa, từ áo xiêm lộng lẫy làm cho người lính cũng ngạc nhiên reo vui : “kìa em”…
Dáng người đẹp mềm mại, e ấp theo những điệu múa, tiếng khèn rộn ràng thật tình tứ làm sao.
Trong cái nhìn lãng mạn, hào hoa của người lính, ánh đuốc của buổi liên hoan đã thành những
ngọn đuốc hoa tân hôn ngọt ngào. Còn người đẹp xiêm y như bước ra từ huyền thoại :
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
9
Người lính như nhập cuộc, hoà mình say sưa theo âm điệu dìu dặt, theo điệu múa yểu
điệu, đưa hồn về những giấc mơ, những chân trời chưa tới, xây hồn thơ với bao mộng ước ngọt
ngào : Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Bốn câu thơ tiếp theo gợi ra nỗi nhớ về cảnh sông nước miền Tây thơ mộng với
bức tranh Châu Mộc chiều sương bảng lảng mơ hồ :
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tác giả chỉ phác hoạ đôi nét, chủ yếu đánh thức, gợi cảm nhận ở người đọc. Những chữ
có thấy, có nhớ là hỏi lòng mình đầy bang khuâng, lưu luyến. Cảnh thơ tĩnh lặng, buồn, song
rất thi vị. Tâm tình con người gửi trong cái xôn xao nỗi niềm của hồn lau nẻo bến bờ, trong
một dáng người khoẻ khoắn trên con thuyền độc mộc trôi dòng nước lũ. Những đoá hoa rừng
duyên dáng, tình tứ biết đong đưa làm duyên với lính Tây Tiến. Tất cả những cảnh ấy, người
ấy làm sao không thấy và không nhớ ?
Thi liệu trong bốn câu thơ trên đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền
đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ Tây Tiến là những câu cổ thi tuyệt bút :
Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…
(Chinh phụ ngâm)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau :

Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.
(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)
Trong hai bức tranh, hai khung cảnh ấy, người lính hiện ra với tâm hồn lạc quan, yêu
đời của người lính. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học
sinh, sinh viên nên sự lạc quan, yêu đời đã sẵn có trong tâm hồn họ. Hơn nữa, sống đời lính
bôn ba thì ít nhiều họ cũng hay mơ mộng, đa tình. Những tâm hồn nhạy cảm đó bắt gặp những
cảnh tưng bừng, hay cảnh sông nước hữu tình thì hỏi sao tâm hồn người lính không xao xuyến
rung động.
Tây Tiến của những buổi liên hoan văn nghệ quân dân, của những chiều sương mơ hồ
bảng lảng đã để lại cảm giác nhung nhớ, bâng khuâng trong lòng người. Khác với đoạn thơ thứ
nhất, ở đây Quang Dũng chủ yếu sử dụng những nét vẽ mềm mại, tinh tế, cái tinh tế toát ra từ
“cốt cách hào hoa phong nhã và một thi tài hiếm có” (Trinh Đường).
3 – Một tượng đài người lính Tây Tiến bất tử với thời gian (Tây Tiến đoàn binh … độc
hành)
Trước hết, hình tượng người lính Tây Tiến được khắc hoạ bằng một nét vẽ chân dung
rất gân guốc, lạ hoá và phi thường :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Nhưng đó là cái lạ hoá, gân guốc bắt nguồn từ hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc
tóc là hậu quả của trận sốt rét rừng. Rồi trải qua nơi rừng thiêng nước độc, gian khổ thiếu thốn,
thuốc men không có. Quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Nhiều bài thơ chống Pháp
từng nói tới hiện thực này.
_ Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.
(Tố Hữu)
_ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt rung người vầng trán ướt mồ hôi”

10
(Chính Hữu)
Tuy nhiên, hiện thực ấy khúc xạ qua bút pháp lãng mạn Quang Dũng trở thành cách nói
mang khẩu khí lính Tây Tiến. Không mọc tóc chứ không phải tóc không thể mọc. Quân xanh
màu lá còn là xanh áo lính, xanh lá nguỵ trang. Thế mới xứng với những chữ dữ oai hùm. Đó
mới thực là khí phách, tinh thần của đoàn quân.
Đời lính đâu chỉ biết đối mặt với lam sơn chướng khí, đâu chỉ biết đối mặt với đạn bom,
người lính cũng có những giây phút tâm hồn bay bổng rất lãng mạn, mộng mơ :
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Bên cạnh cái gian khổ trèo đèo lội suối, bên cạnh nhiệm vụ chính trị của đời lính, bên
cạnh tinh thần sục sôi chiến đấu, vẫn có một khoảng trời của tâm tưởng đi về trong mộng ước
với dáng hình người đẹp. Dáng kiều thơm gợi vẻ đẹp yêu kiều, thanh lịch, sắc nước hương trời
của người thiếu nữ Hà thành – nơi mà ở đó người lính từng sống, từng học tập và cũng là nơi
các anh từ giã người thân lên đường đi chiến đấu. Nơi hậu phương ấy trở thành động lực thúc
giục người lính quên gian khổ để tiến lên phía trước, vượt qua bom đạn để trở về.
Những câu thơ tiếp theo sau như là lời phát ngôn cho lí tưởng, khát vọng của người
lính Tây Tiến với niềm tự hào chất ngất :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đời xanh tuổi trẻ, đời xanh bao mơ ước còn đang phía trước. Nhưng với các anh, còn gì
quý hơn Tổ quốc thân yêu, còn gì “quý hơn độc lập tự do”. Vì thế, dù biết rằng đời lính gửi vào
đầu súng mũi lê, ra đi không hẹn ngày về , nhưng các anh vẫn chấp nhận ra đi để dâng hiến, để
xả thân. Họ chẳng khác nào các vị tướng ngày xưa tung hoành chiến trận. Hai câu thơ như gợi
lại hào khí của cha ông ta xưa :
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Phạm Ngũ Lão).
Hào khí thời đại cũng ùa vào chắp cánh cho hai câu thơ này. Nó gợi cái âm vang của lời
thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” (Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi – Nào có sá chi đâu

ngày trở về - Ra đi ra đi bảo tồn sông núi – Ra đi ra đi thà chết không lùi…). Tinh thần “nhất
khứ bất phục phản” ngàn đời ấy đã trở thành lí tưởng, khát vọng của người chiến sĩ Tây Tiến.
Đoạn thơ thứ ba khép lại bằng sự hi sinh của người lính :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Quang Dũng không hề né tránh hiện thực khắc nghiệt, dữ dội. Trên chặng đường hành
quân, nhiều người lính không thể vượt qua đã vĩnh viễn gục lên súng mũ bỏ quên đời . Dọc
đường Tây Tiến cũng là vô vàn nấm mồ liệt sĩ mọc lên Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Tuy
nhiên, ấn tượng để lại với người đọc là cái đẹp trong tâm tưởng của họ. Họ đều là những chiến
tướng ngày xưa rực rỡ với chiếc áo bào :
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào áo gió thu
(Chinh Phụ Ngâm).
Cái chết đã được sang trọng hoá lên để xứng với ngoại hình, nội tâm và lí tưởng của họ.
Về đất là cách nói giảm nhằm thể hiện sự ra đi thanh thản của người lính sau khi làm tròn trách
nhiệm người trai. Cái chết của họ như thiêng liêng và động đến cả đất trời : Sông Mã gầm lên
khúc độc hành. Câu trên nhẹ nhàng, thanh thản, kìm nén. Câu dưới dữ dội, gào thét. Tất cả nội
lực câu thơ đều dồn xuống từ gầm và gợi ra một âm hưởng thật bi tráng cho đoạn thơ.
Cả đoạn thơ như một khúc ca mang âm điệu bi tráng về tượng đài người lính Tây Tiến.
Những câu thơ với hàng loạt các từ Hán Việt trang trọng, những hình ảnh phi thường đã làm
sống lại một thời oanh liệt của dân tộc ta.
11
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công
hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây hùng vĩ,
dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ
còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.
Tây Tiến (hoặc đoạn thơ trên nói riêng) rất tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ
Quang Dũng.
* PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
MỞ BÀI
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh
hùng vô danh; nhưng văn học, với sứ mệnh thiêng liêng của nó, đã khắc tạc một cách vĩnh viễn
vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền
độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Với Tây Tiến, Quang Dũng cũng đã dựng lên
một bức tượng đài bất tử về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng
ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
THÂN BÀI
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô
đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó, người lính mới chỉ hiện
ra trong đoàn quân mỏi " Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ", hay trong khung cảnh hết sức
lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình quân dân thì ở đây là hình ảnh đoàn binh
không mọc tóc, da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh
việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc

họ không thể mọc được. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây. Vẻ ngoài dường như
rất tiều tuỵ, nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến
binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo,
hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng
vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không
mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ
những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một
đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng
dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn quân
nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về
phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai
12
hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc
văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như
chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức
mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão
cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu -
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thề diệt sài lang xâm lược quân"
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ
mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền
thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng
của một hào khí ngút trời Đông A.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào
bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính
dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ
đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn
hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư
sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ,
người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo
nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép
cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ
biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian
khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ
đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương
phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được
những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với
những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng
mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật
về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập,
người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy
rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan
tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn,
hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác
nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ".
Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ.
Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang

lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng
muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
13
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã
trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ
của những người con anh dũng
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ sau đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên
những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến
trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau
của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
"Áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu Quang Dũng đều dành để thể hiện trong một câu thơ viết về sự hi
sinh của đồng đội mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội đã ra đi
trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính
Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó
khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn"
cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
"Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán"

Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm
hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có
người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo
cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh
chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông.
Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng
lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
KẾT BÀI
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng
đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có
sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc
đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài
được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc
tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của
mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất
nước về những người con anh hùng ấy.
II. Việt Bắc (trích) của Tố Hữu
1. Hoàn cảnh sáng tác
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Tháng 7 – 1954, Hiệp định
Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và
bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới.
Tháng 10 – 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà
Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử đó, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc để nói lên tình cảm
14
thắm thiết với Việt Bắc – quê hương của cách mạng. Việt Bắc rất tiêu biểu cho thể tài thơ trữ
tình chính trị của Tố Hữu.
Đoạn trích trong SGK là phần đầu của bài thơ, tái hiện những kỉ niệm về cách mạng
và kháng chiến.
2. Nội dung

a. Khung cảnh chia tay
Cuộc chia tay kẻ ở- người đi chung nhau nỗi nhớ, mỗi người biểu hiện nỗi nhớ theo cách
riêng của mình:
+ Kẻ ở lại thương nhớ bật thành lời: “ mình về” câu hỏi của trái tim hỏi trái tim, chỉ có thể
lấy nghĩa tình mà đáp lại.
+ Trước nỗi niềm của kẻ ở, người đi im lặng, lắng nghe. Tư thế trữ tình sâu lắng để tri âm, để
“ tiếng ai” ngân vang trong mình, im lặng cũng là cách trả lời đồng tình, hợp lí.
+ Áo chàm ( hoán dụ) bình dị, chân tình
@ Tóm lại kẻ ở - người đi đều bịn rịn, lưu luyến.
b. Vẻ đẹp của cảnh núi rừng và con người Việt Bắc:

- Cảnh vật núi rừng Việc Bắc hiện lên với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mơ mộng:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.
+ Nỗi nhớ Việc Bắc được so sánh “như nhớ người yêu”
à Nỗi nhớ thật da diết, mãnh liệt, cháy bỏng.
+ Điệp từ “nhớ” được đặt ở đầu câu
à như liệt kê ra từng nỗi nhớ cụ thể: nhớ ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những
bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng, sông
suối mang những cái tên thân thuộc.
=> Nỗi nhớ bao trùm khắp cả không gian và thời gian.
- Đẹp nhất trong nỗi nhớ là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
+ Thiên nhiên Việt Bắc hiệ lên với vẻ đẹp đa dạng, sinh động, thay đổi theo từng mùa:
o Mùa xuân: trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống với “mơ nở trắng rừng”
o Mùa hè: rực rỡ, sôi động với âm thanh “rừng phách đổ vàng”
o Mùa thu: yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hoà bình”
o Mùa đông: tươi tắn, không lạnh lẽo với hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”
+ Gắn bó với thiên nhiên là những con người bình dị:
o Người đi làm nương rẫy (Ngày xuân mơ nở trắng rừng)
o Người khéo léo trong công việc đan nón (Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang)
o Người đi hái măng giữa rừng tre nứa (Nhớ cô em gái hái măng một mình)
15
à Bằng những việc làm nhỏ bé, họ góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng
chiến.
- Trong nỗi nhớ của nhà thơ, đồng bào Việt Bắc hiện lên với những phẩm chất cao đẹp:
+ Hình ảnh “Hát hiu lau xám, đậm đà lòng son”
à Tuy họ nghèo về vật chất nhưng lại giàu về nghĩa tình.
+ Hình ảnh người mẹ:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
à nỗi xót xa về cuộc sống cơ cực của đồng bào miền núi.
+ Những tháng ngày:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
à Họ đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với người cán bộ kháng chiến.
=> Âm hưởng trữ tình tạo khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu thương đồng chí, đồng

bào, tình yêu thiên nhiên, đất nước.
3. Nghệ thuật
Bài thơ đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: thể thơ lục bát, lối đối
đáp, cách xưng hô mình - ta, ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi
4. Ý nghĩa văn bản
Bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến; bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến.
B. CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Nêu hoàn cảnh ra đời bài thơ Việt Bắc ?
Câu 2. Chứng minh rằng Việt Bắc là bài thơ đậm đà tính dân tộc ?
Câu 3.Hình ảnh con người Việt Bắc trong kháng chiến ?
Câu 4.Thiên nhiên thơ mộng của núi rừng Việt Bắc qua đoạn thơ :
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
* PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ VIỆT BẮC
Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sau chiến thắng Điện Biên
Phủ chấn động địa cầu, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 – 1954),
bài thơ Việt Bắc là tiếng hát nghĩa tình sắt son thuỷ chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ,
đồng bào với chiến khu Việt Bắc, với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ.
Việt Bắc còn là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu
lửa.
Bài thơ Việt Bắc mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu lục bát, vừa mang âm điệu
ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc. Đặc sắc

của bài thơ có thể kể đến đoạn thơ sau :…
1 – Đoạn 1 (Mình về mình có nhớ ta … Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay)
Giống như những khúc hát giã bạn “người ơi người ở đừng về” trong đêm hội, ở đây
người cất lên tiếng nói đầu tiên trong cuộc chia tay là người ở lại, gợi nhắc về những kỉ
niệm gắn bó suốt mười lăm năm :
Mình về mình có nhớ ta.
16
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Giọng cất lên là giọng của yêu thương trìu mến, nhung nhớ, chia xa. Tất cả nhắc gọi về
kỉ niệm giống như vô vàn những cuộc chia tay muôn thuở xưa nay. Có bao nhiêu điều cụ thể
từng chia sẻ, gắn bó đã trôi qua suốt Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng… Cụm từ thiết tha
mặn nồng dường như không chỉ là tình yêu lứa đôi mà còn gói trọn cả những sẻ chia sóng gió
thác ghềnh làm nên cái nặng sâu bền chặt của tình nghĩa vợ chồng. Thời gian mười lăm năm
được đánh dấu từ mốc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho đến khi kháng chiến chống Pháp kết
thúc, hoà bình lập lại, Việt Bắc đã làm tròn sứ mệnh của một căn cứ địa cách mạng vững chắc.
Chuyện nghĩa tình cách mạng lớn lao đầy màu sắc chính trị như vậy đã hoá thân tự
nhiên vào câu chuyện tình cảm lứa đôi bền chặt, để mười lăm năm ấy trở thành thiết tha mặn
nồng dìu dặt và quyến luyến lòng người.
Đúng ở thời khắc chia tay, mối bận tâm, điều muốn nhắn gửi, cũng là điều muốn dò
đón, khắc sâu chính là mối băn khoăn Có nhớ không ? trào lên qua câu chữ :
Mình về mình có nhớ không
Bảo là hỏi tu từ, hỏi để gợi nhắc, gợi nhớ cũng đúng. Nhưng bảo là mối quan tâm thực
sự tha thiết đang chờ đợi câu trả lời có lẽ đúng hơn. Có nhớ không ? trở thành mối quan tâm
đau đáu riết róng vì thói thường gian khổ thì bền chặt, sung sướng hạnh phúc rất dễ làm con
người quên đi những ngọt bùi cay đắng đã nếm trải.
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?
Bốn câu thơ trên chính là khúc dạo đầu của cảm xúc chia tay để từ đó biết bao điều
chưa nói sẽ được thổ lộ giãi tỏ tâm tình. Lời hỏi chỉ là cái cớ gợi dẫn để trào tuôn mạch cảm
xúc nhớ thương trong lòng người lên đường.
Bốn câu thơ cuối của đoạn (lời người đi) đã tái hiện trước mắt người đọc một cuộc

chia tay kẻ ở người đi đầy bâng khuâng, lưu luyến :
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Sắc áo chàm chất phát, đậm đà, quen thuộc gắn bó với đồng bào Việt Bắc giờ đây hiện
lên như một điểm nhớ thân thương trong lòng người ra đi qua cách sử dụng nghệ thuật hoán dụ
của nhà thơ. Tất cả đã làm trào dâng cảm xúc trong lòng người lên đường.
Người ra đi như đồng vọng thiết tha với cảm xúc thiết tha của người ở lại nên ngập
ngừng không nỡ bước chân :
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Các từ láy bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết hài hoà đồng điệu với nhau để thể hiện cảm
xúc, vừa lưu luyến nhớ thương, vừa mong ngóng nôn nao. Những câu thơ gợi nhắc tới bao
cuộc chia tay muôn thuở trong thi ca :
Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng
(Chinh phụ ngâm).
Nhà thơ đã sử dụng thành công nhịp ngắt linh hoạt của thơ lục bát để gợi ra khung
cảnh và ấn tượng, cảm xúc cuộc chia tay : Áo chàm đưa/ buổi phân li; Cầm tay nhau/ biết nói
gì/ hôm nay… Như hiển hiện sau câu chữ là động thái trữ tình : người đi kẻ ở tay trong tay,
những khoảng ngừng lặng không nói nên lời bởi bộn bề cảm xúc, biết nói gì đây bởi quá nhiều
điều để nói, bắt đầu từ đâu và nói bao nhiêu cho đủ, cho thoả bấy nhiêu năm thiết tha mặn nồng
gắn bó cùng nhau.
2 – Đoạn 2 (Mình đi có nhớ những ngày … Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?)
Đoạn thơ là lời người ở lại nhắn nhủ với người đi đừng quên “chiến khu” – vùng
đất gắn liền với những gian lao trong kháng chiến và lòng căm thù giặc nhưng cũng rất
hào hùng trong chiến đấu :
Mình đi, có nhớ những ngày
17
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?
Những dòng thơ gợi nhắc kỉ niệm đã lí giải vì sao nhà thơ gọi mười lăm năm ấy bằng từ
thiết tha mặn nồng đầy nghĩa tình. Bởi đó là thời gian dệt lên từ tình yêu thương, từ gian khổ
thiếu thốn, từ sự chung sức chung lòng. Ở đó ta – mình cùng chia sẻ những khó khăn, vất vả
của cảnh mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù, cùng dằn lòng với miếng cơm chấm muối,
chung một mối thù nặng vai, cùng trải qua những buổi hắt hiu lau xám để gánh cuộc kháng
chiến trên vai. Từ thuở khởi đầu chiến đấu, bên ta đã có mình, hỏi sao không chất chứa tình
cảm thiết tha mặn nồng lưu luyến ?
Đặt trong cấu trúc cân đối, hài hoà của những tiểu đối trong các câu thơ tám chữ, ấn
tượng để lại với người đọc là cái sắt son bền chặt thuỷ chung của tình cảm con người. Từ
miếng cơm chấm muối mà nung nấu tâm can mối thù nặng vai thêm sôi sục. Từ hắt hiu lau
xám, mưa nguồn, suối lũ, mây mù mà ngời lên đậm đà lòng son vẹn tròn, chung thuỷ. Mười
lăm năm ấy biết bao nhiêu tình. Mười lăm năm ấy cũng là bao nhiêu kỉ niệm kháng chiến.
Theo dòng hồi tưởng, người ở lại gợi nhắc cho chúng ta trở về thuở ban đầu gây dựng
nền móng cách mạng cho đến khi lớn mạnh trưởng thành. Và đến giờ, nghĩa tình của đồng
bào Việt Bắc vẫn sắt son và mãi khắc ghi trong dạ :
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?
Những khi ấy, mình – ta từng chung niềm vui kháng chiến sôi sục trong những ngày
kháng Nhật, phong trào Việt Minh và mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào nơi Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, tiền thân của quân đội Việt Nam lớn mạnh sau
này, nơi Quốc dân Đại hội phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Có rất nhiều cảm xúc đang dâng lên trong lòng người đưa tiễn trước lúc chia xa. Đó là

nỗi nhớ khôn khuây, ngơ ngẩn : Mình về, rừng núi nhớ ai – Trám bùi để rụng, măng mai để
già… Đó là nỗi niềm bồi hồi dâng lên khi kỉ niệm dào dạt ùa về.
Nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ rừng núi nhớ ai,… trám để rụng, măng để già, điệp từ
mình về, mình đi, có nhớ, còn nhớ, nhịp câu 2/4 – 4/4 đều đặn… gợi lên hình ảnh một người
đang bâng khuâng sững sờ với cảm giác hụt hẫng của chia li, dè chừng sự lãng quên nên tha
thiết nhắc nhở người về bằng những hoài niệm ân nghĩa nhất, nguồn cội sâu rộng nhất , sâu
trong tình người, rộng trong thời gian, không gian. Đây là tình cảm những con người cách
mạng trong không gian, thời gian của cách mạng.
3 – Đoạn 3 – (Nhớ gì như nhớ người yêu … Chày đêm nện cối đều đều suối xa)
Hiện theo mỗi điệp khúc nhớ là hình ảnh con người và thiên nhiên hoà quyện trong
nhau. Khác với đoạn thơ trước, cảnh Việt Bắc ở đây hiện ra rất thơ mộng hiền hoà. Một
vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiều lấp ló lưng nương :
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Những bản làng bồng bềnh thực hư trong sương khói :
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Những rừng nứa, bờ tre, những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê đầy vơi trong
nhung nhớ :
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
18
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Mỗi cảnh vật là một nét nhớ, nét thương thân thuộc vì gợi nhắc đến con người Việt
Bắc. Đó là những con người từng chia bùi sẻ ngọt cùng người cách mạng :
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Các từ ngữ thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm
cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân cá nước thêm ấm áp. Câu thơ làm ta nhớ đến những
vần thơ sáng ngời tình đồng chí của Chính Hữu : Súng bên súng đầu sát bên đầu – Đêm rét

chung chăn thành đôi tri kỷ (Đồng Chí).
Đó là những con người tảo tần lam lũ, chịu thương chịu khó :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Trên những miền núi quê ta, chúng ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh những người mẹ
vừa làm nương rẫy vừa địu con trên lưng thật cảm động : Mặt trời của bắp nằm ở trên đồi –
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng" (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn
Khoa Điềm. Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong
công việc. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi
bộ đội”… Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật nhất đã từng
xuất hiện như thế này trong nhiều trang thơ của Tố Hữu và bao giờ cũng gây một mối giao cảm
mãnh liệt.
Đó là những con người từng cùng vui niềm vui của lớp học xoá mù chữ, diệt giặc dốt
và những giờ liên hoan tưng bừng với ngọn đuốc sáng :
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sang những giờ liên hoan
Đó còn là những người lạc quan yêu đời gắn bó cùng kháng chiến và cuộc sống
thanh bình tươi đẹp Việt Bắc :
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Bức tranh không chỉ có đường nét, màu sắc, ánh sáng mà còn gợi tới âm thanh : tiếng i
tờ vỡ lòng ngượng nghịu, tiếng hát ca vang núi đèo, tiếng mõ rừng chiều thân quen, tiếng chày
đêm nện cối điểm nhịp đều đều nơi suối xa… Những âm thanh ấy đã thổi cái hồn riêng vào
bức tranh thơ.
Bên cạnh việc sử dụng điệp từ nhớ, trong cả đoạn thơ tác giả còn sử dụng thành công
nhiều biện pháp nghệ thuật khác. Đó là nhịp điệu thơ mượt mà, êm ái, như ru người đọc vào
những kỉ niệm bang khuâng. Đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con
người mang đậm chất Việt Bắc. Đó còn là những cách diễn tả đậm màu sắc trữ tình phù hợp

với cấu tứ như cuộc chia tay của đôi bạn tình đã từng gắn bó nay phải tạm chia xa. Việt Bắc đã
trở thành người yêu (Nhớ gì như nhớ người yêu), thành người thương (Sớm khuya bếp lửa
người thương đi về) trong nỗi nhớ ấy.
Đoạn thơ trên là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Tuy nhiên,
không phải nhà thơ chỉ dừng lại ở việc tả cảnh tả người, mà qua mỗi hình ảnh thiên nhiên, mỗi
hình ảnh về con người đều chất chứa một nỗi niềm nhung nhớ của người đi. Bức tranh hiện ra
với nhiều chi tiết thật cụ thể, thật quen thuộc, thật cảm động. Điều đó thể hiện nghĩa tình thuỷ
chung của người đi rất sâu đậm với chiến khu Việt Bắc.
4 – Đoạn 4 (Ta về, mình có nhớ ta … Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung)
Trong nhiều đoạn thơ của Việt Bắc, người đọc dễ dàng bắt gặp vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người hiện lên thật sinh động. Đặc biệt tác giả đã dụng tâm khắc hoạ một bức tứ bình về
thiên nhiên, con người Việt Bắc trọn vẹn trong khổ thơ cân đối hài hoà :
19
Ta về, mình có nhớ ta
… …
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Hai câu đầu khái quát chung về nỗi nhớ, cũng là hé mở cách tạo “bố cục” cho bức
tranh : một nét vẽ hoa (những hoa) – thiên nhiên và một nét vẽ con người (cùng người), cứ thế
lần lượt hiện ra :
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Những câu tiếp theo tập trung vào miêu tả thời gian trôi đều đặn qua bốn mùa cùng
những tín hiệu riêng của cảnh và người. Mùa đông ấm nóng, tươi tắn trong gam màu nóng
của những bông hoa chuối rừng đỏ tươi thắp lửa thấp thoáng bên tàu lá. Cả khu rừng màu xanh
như được điểm thêm sắc đỏ cùng “nắng ánh” như tạo một không gian khí trời mùa đông
“không lạnh lẽo”. Trong khung cảnh đó, nhà thơ vẽ một nét chấm phá về con người, đó là con
người đi rừng lao động thu hái sản vật núi rừng :
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Mùa xuân Việt Bắc bạt ngàn màu trắng của hoa mơ. Màu trắng của hoa mơ như gợi sắc

xuân núi rừng Việt Bắc một nét mơn mởn tươi trong và tinh khiết. Hoà cùng sắc xuân ấy là
cảnh người dân Việt Bắc chuốt giang đan nón. Cuộc sống mùa xuân như sôi động hơn cũng
chính bởi cảnh lao động của những thôn dân nơi đây :
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Hè sang, tiếng ve kêu báo tín hiệu của mùa và rừng phách ào ạt đổ vàng. Đó cũng
chính là lúc “cô em gái” đi hái măng “một mình”. Mùa nào thức nấy, thiên nhiên đã cung cấp
nhiều “sản vật” núi rừng cho bữa ăn hằng ngày của người dân nơi đây. Cảnh “cô em gái” măng
cũng thường xuất hiện nơi núi rừng Việt Bắc và đã để lại ấn tượng lâu dài trong lòng người đi :
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Mùa thu thanh bình trong ánh trăng hạnh phúc. Trong ánh trăng huyền ảo lung linh,
giọng ai cất lên tiếng hát về mối ân tình thuỷ chung càng làm cho bức tranh Việt Bắc thêm thơ
mộng và trữ tình biết bao :
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đoạn thơ trên có thể xem là tuyệt bút khi viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Chỉ qua một vài nét chấm phá, cảnh núi rừng Việt Bắc xuất hiện thật sinh động : mỗi mùa một
nét riêng, thiên nhiên hiện lên đa dạng theo thời gian, không gian, có nắng sớm, nắng chiều,
trăng khuya và các mùa… Bức tranh chẳng khác nào cuộc sống “nhàn” mà các nhà nho thường
chọn để giữ tròn nhân cách con người :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Đặc biệt, bức tranh Việt Bắc càng hữu tình, sinh động hơn khi có sự gắn bó với con
người qua cách miêu tả tài tình : một câu tả cảnh đi liền là một câu tả người. Âm hưởng bao
trùm đoạn thơ là ngọt ngào, thiết tha sâu lắng như ru vỗ con người vào nhịp nhớ đều đặn của
những kỉ niệm không quên.
5 – Đoạn 5 (Nhớ khi giặc đến giặc lùng … Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng)
Ta dễ dàng cảm nhận được đoạn thơ trên khắc hoạ cuộc sống chiến đấu nơi Việt Bắc

mang âm điệu mạnh mẽ, dồn dập, sôi nổi, hào hùng. Hình ảnh thơ hoành tráng, mang đậm chất
sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Một hình tượng “đất nước đứng lên” như sống dậy
trong mỗi câu thơ.
20
Đó là hình tượng người dân Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến, bộ đội, dân công,
rừng cây, núi đá, tất cả đã thống nhất thành một trận tuyến chống quân thù :
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
… …
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.
Cuộc kháng chiến thần thánh ngày một trưởng thành lớn mạnh. Từ lúc giặc đến giặc
lùng, rừng và người Việt Bắc che chở, bao bọc nhau, đến chỗ rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây là một bước phát triển của kháng chiến.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Sự lớn mạnh đó là nhờ vào sự chung lòng đoàn kết chiến đấu của mọi người dân :
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Để rồi từ đó, chúng ta có những chiến thắng đầu tiên nức lòng nhân dân, bộ đội gắn với
các địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị Hà,…
Ai về ai có nhớ không ?
… …
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Đó là bức tranh Việt Bắc ra trận với khí thế sôi nổi, hào hùng. Cuộc kháng chiến
chống Pháp đã đi đến những ngày quyết định cuối cùng. Cả một đội quân nhân dân trùng trùng
ra trận được khắc hoạ hoành tráng trong mỗi câu thơ :
Những đường Việt Bắc của ta
… …
Đèn pha bật sang như ngày mai lên.
Những con đường Việt Bắc cụ thể, cũng là những nẻo đường cách mạng của dân tộc đã
đến ngày rộng trải thênh thang. Con đường là hình ảnh quen thuộc trong thơ Tố Hữu gắn với ý

nghĩa biểu tượng về đường cách mạng. Tả con đường ra trận nhưng là để nói lên khí thế dũng
mãnh của những người ra trận bằng biện pháp so sánh cường điệu và từ láy gợi thanh :
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Tưởng như mặt đất cũng đang chuyển động dưới bàn chân những chiến sĩ trong một cuộc ra
quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách mạng.
Trong cuộc ra quân ấy, hình ảnh đoàn quân rất đẹp.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Đẹp trong đội ngũ điệp điệp, trùng trùng như một sức mạnh vô tận, đẹp trong ánh sao
đầu súng bạn cùng mũ nan gợi nhớ hình ảnh đầu súng trăng treo trong thơ Chính Hữu và hình
ảnh súng ngửi trời trong thơ Quang Dũng. Cái ánh sao ở đây vừa như gần gũi thân quen với
mũ nan của anh, lại như rực sáng lí tưởng trên đầu mũi súng của người lính. Một hình ảnh thơ
vừa thực, vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
Hai câu 5, 6 là hình ảnh những đoàn dân công phục vụ tuyền tiến. Khí thế mạnh mẽ
của đội quân nhân dân được tác giả khắc hoạ bằng lối thậm xưng, phóng đại :
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Hình ảnh những đoàn dân công đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện thực. Nhưng với ánh
đuốc đỏ rực ấy cùng với muôn tàn lửa bay thì lại lãng mạn biết bao. Có khác gì một hội hoa
đăng ! Còn bước chân nát đá là bước chân của những người đạp bằng mọi chông gai để đi tới,
hình ảnh được lấy từ ý ca dao : Trông cho chân cứng đá mềm…
Hai câu tiếp theo là hình ảnh những đoàn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch màn
sương đêm dày thăm thẳm :
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
21
Đèn pha bật sang như ngày mai lên.
Rất hiện thực mà cũng rất lãng mạn. Từ những đêm Việt Bắc, những đường Việt Bắc
đó, một cảm hứng lãng mạn bay bổng về tương lai tươi sáng của dân tộc chói loà qua từng câu
thơ đầy hào khí.

Và đây là một “bản đồ vui” toả rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng :
Tin vui chiến thắng trăm miền
… …
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Nhịp điệu thơ dồn dập tươi vui, náo nức phấn khởi. Mỗi một địa danh là một nốt nhạc
vui rộn ràng trong bản hùng ca chiến thắng.
Các địa danh không chỉ có ở Việt Bắc mà còn trải dọc theo trăm miền đất nước : từ
Nam Bộ, Tây Nguyên cho tới Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Sự xuất hiện của một loạt các địa
danh trăm miền bên cạnh nhau gắn với các tin vui chiến thắng dường như cho thấy tốc độ thần
kì của những thắng lợi đó.
Những từ ngữ vui về, vui từ, vui lên mặc nhiên đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi
miền vui. Từ Việt Bắc niềm vui toả đi. Và từ khắp nơi, tin vui bay lại Việt Bắc.

Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và
con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian –
tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu : Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống
quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa thuỷ chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
Việt Bắc (hoặc đoạn thơ trên) tiêu biểu cho hồn thơ và thể tài thơ trữ tình – chính trị
mang đậm tính sử thi, cảm hứng lãng mạng và đậm đà tính dân tộc của Tố Hữu.
III. Đất Nước (trích Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm
1. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
– Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943 tại tỉnh Thừa Thiên Huế, trong một gia đình có truyền
thống yêu nước và cách mạng; thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong những năm kháng
chiến chống Mĩ.
– Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc trữ tình
chính luận. Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (thơ, 1972); Mặt đường khát vọng (trường ca,1974),
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986)…
2. Đất Nước
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
– Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng thiết tha được Nguyễn Khoa Điềm

hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm
chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh
hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.
– Đoạn trích Đất nước thuộc phần đầu của Chương V trường ca Mặt đường khát vọng.
2.2. Nội dung
- Phần một: nêu lên cách cảm nhận độc đáo về quá trình hình thành và phát triển của đất
nước; từ đó khơi dậy ý thức về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nước.
*Đất Nước được cảm nhận trên nhiều bình diện:
* Cảm nhận chung về đất nước: (Đoạn mở đầu)
=> Đất Nước hiện ra trong cảm nhận qua những gì thân thương, gần gũi, đơn sơ:
- Đó là những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể.
- Là miếng trầu của bà, là hạt gao một nắng hai sương, là ngôi nhà ta ở
=> Giọng thơ nhẹ nhàng, âm hưởng đầy quyến rũ , sử dụng chất liệu VHDG , tác giả đưa ta
về với cội nguồn của Đất Nước : Một Đất Nước vừa cụ thể vừa huyền ảo và đã có từ rất lâu
đời.
22
* Cảm nhận về Đất Nước ở phương diện lịch sử - văn hoá :
- Đất Nước được cảm nhận gắn liền với nền văn hoá lâu đời của dân tộc:
+ Câu chuyện cổ tích, ca dao.
+ Phong tục của người Việt: ăn trầu, bới tóc.
- Đất Nước lớn lên đau thương vất vả cùng với cuộc trường chinh không nghỉ ngơi của con
người :
+ Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, gắn với hình ảnh cây tre- biểu tượng cho sức sống bất
diệt của dân tộc.
+ Gắn với nền văn minh lúa nước, lao động vất vả.
- Đất Nước gắn liền với những con người sống ân tình thuỷ chung.
=> Đất Nước không trừu tượng mà ở ngay trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
* Cảm nhận Đất Nước ở phương diện chiều rộng của không gian:
- Là không gian hò hẹn của tình yêu (Lối chiết tự đầy ý nhị vừa mang tính cá thể vừa hết sức
táo bạo , tác giả đã định nghĩa đất nước thật độc đáo)

- ĐN là nơi chốn sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ( nơi dân mình đoàn tụ )
=>Là sự thống nhất giữa cá nhân với cộng đồng.
- Đất Nước còn là không gian rộng lớn tráng lệ hùng vĩ của núi cao, biển cả.
=> ĐN là những gì gần gũi thân quen gắn bó với cuộc sống mỗi người lại vừa mênh mông rộng
lớn.
* Cảm nhận về ĐN ở phương diện chiều dài thời gian : ĐN được cảm nhận từ quá khứ với
huyền thoại “ Lạc Long Quân và Âu Cơ” cho đến hiện tại với những con người không bao giờ
quên nguồn cội dân tộc, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ .
* Suy ngẫm của tác giả về trách nhiệm của thế hệ mình với ĐN : phải biết gắn bó, san sẻ và hi
sinh vì đất nước.
=> ĐN hiện lên vừa thiêng liêng sâu xa , lớn lao vừa gần gũi thân thiết với sự sống mỗi người.
- Phần hai: tư tưởng ”Đất Nước của Nhân dân” được thể hiện qua ba chiều cảm nhận.
- Tác giả tiếp tục với những cảm nhận về đất nước trên nhiều bình diện: Chiều dài lịch sử,
chiều rộng địa lí, chiều sâu văn hoá lịch sử
+ Một Đất nước với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ,gắn với số phận, tính cách
,phẩm chất, tâm hồn nhân dân ( Hòn Trống Mái, Núi Vọng phu, Núi Bút, Non Nghiên, Vịnh
Hạ Long )
=> ĐN hiện lên vừa gần gũi vừa thiêng liêng.
+ Một Đất Nước giàu truyền thống :
. Anh hùng bất khuất : Có những anh hùng không ai nhớ mặt đặt tên. Họ hi sinh thầm lặng
cho Đất nước
. Đoàn kết trong đấu tranh, lao động sinh tồn
+ Một Đất Nước của ca dao, thần thoại , của những vẻ đẹp tâm hồn nhân hậu thuần phác
=>Tg chọn 3 dẫn chứng để nói về truyền thống của nhân dân :
+ Say đắm, lạc quan trong tình yêu (Yêu em từ thuở trong nôi .
+ Biết quý trọng tình nghĩa (Biết quý công )
+ Quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (Biết trồng tre )
=> Sự phát hiện thú vị và độc đáo của tg về ĐN trên các phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá
với nhiều ý nghĩa mới : Muôn vàn vẻ đẹp của ĐN đều là kết tinh của bao công sức và khát
vọng của nhân dân , của những con người vô danh , bình dị . ĐN từ nhân dân mà ra, do nhân

dân mà có và nhờ nhân dan mà tồn tại.
2.3. Nghệ thuật
– Sử dụng chất liệu văn hoá dân gian : ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi.
– Giọng điệu thơ biến đổi linh hoạt.
– Sức truyền cảm lớn từ sự hoà quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
23
2.4. Ý nghĩa văn bản
Một cách cảm nhận mới về đất nước, qua đó khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự
hào về nền văn hoá đậm đà bản sắc Việt Nam.
* CÂU HỎI:
1. Cho biết hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
2. Cho biết nội dung cơ bản và nghệ thuật của bài thơ.
3. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được thể hiện như thế nào qua phần hai của đọan
trích.
4. Phân tích 9 dòng thơ đầu của đoạn trích.
* THAM KHẢO: Phân tích 9 dòng thơ đầu của đoạn trích
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những
cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu
như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ
lệ hay cảm hững về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần
gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp
ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã
chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng
liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động
lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa,
truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với
cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta
sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự
hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua
mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất
Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi
24
khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện
trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện
cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn
nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất
nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc

phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau”
được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên.
Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân
ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng
là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền
thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên
Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên
cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay
trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải
chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu
hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình
ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm
chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng
hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất
khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".
25

×