Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Nghiên cứu về đái tháo đường thai kỳ ở nhóm thai phụ có yếu tố nguy cơ tại bệnh viện phụ sản trung ương nửa đầu năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.29 KB, 64 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hoá đang có tốc độ phát triển
nhanh. Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) là một thể đặc biệt của đái tháo
đường. Tỷ lệ ĐTĐTK thay đổi từ 1-14% [20], [28] các thai phụ, tuỳ theo
vùng địa lý, theo chủng tộc. Bệnh có xu hướng tăng nhất là khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam [2], [14], [15], [17].
Đái tháo đường thai kỳ nếu không được chẩn đoán và điều trị sẽ gây
nhiều tai biến cho mẹ và thai nhi bao gồm sảy thai, thai chết lưu, tiền sản giật,
tử vong chu sinh không rõ nguyên nhân, thai to dẫn đến đẻ khó. Trẻ sơ sinh có
nguy cơ bị hạ đường máu, hạ canxi máu, tăng hồng cầu và vàng da. Khi trẻ
đến tuổi dậy thì dễ bị béo phì, rối loạn dung nạp đường máu và đái tháo
đường. Nguy cơ đối với người mẹ là tăng huyết áp và đặc biệt là đái tháo
đường type II thực sự sau này [31], [32], [47], [50], [53].
Theo khuyến cáo của hội nghị quốc tế lần thứ 4 về ĐTĐTK tại Mỹ,
những phụ nữ có nguy cơ cao bị ĐTĐTK là những người thừa cân, béo phì
trước khi mang thai, người có tiền sử đẻ con to, tiền sử gia đình ĐTĐ thế hệ
1. Những phụ nữ có nguy cơ cao bị ĐTĐTK rất cần được sàng lọc chẩn đoán
ngay từ lần khám thai đầu tiên. Bởi vì nếu không được chẩn đoán và điều trị,
bệnh ĐTĐTK sẽ gây nhiều biến chứng cho mẹ và thai nhi. Trên thế giới đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu về ĐTĐTK và nhờ đó các thai phụ có nguy cơ
cao được chẩn đoán và điều trị kịp thời tránh được những tai biến.
Tại Việt Nam, những năm gần đây ĐTĐTK cũng bắt đầu được các tác
giả quan tâm. Năm 2000, Nguyễn Thị Kim Chi và cộng sự nghiên cứu xác
định tỷ lệ ĐTĐTK tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội là 3,6% [7]. Năm 2002 –
1
1
1
2004 Tạ Văn Bình và cộng sự tại 2 bệnh viện Phụ sản Trung ương và Phụ sản
Hà Nội là 5,7% [4]. Theo các tác giả Vũ Bích Nga, Tạ Văn Bình, tỷ lệ
ĐTĐTK ở nhóm nguy cơ cao là 25,2% và nhóm không có nguy cơ cao là
4,8% [16]. Hầu hết các nghiên cứu này đều sàng lọc ĐTĐTK cho các thai phụ


vào tuần thứ 24 – 28, sẽ không phát hiện được sớm và điều trị kịp thời
ĐTĐTK cho các thai phụ có nguy cơ cao để tránh tai biến cho mẹ và thai.
Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu về
đái tháo đường thai kỳ ở nhóm thai phụ có yếu tố nguy cơ tại bệnh viện
phụ sản trung ương nửa đầu năm 2011” với hai mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ ở nhóm thai phụ có yếu tố
nguy cơ.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ mắc đái tháo đường ở
các thai phụ có nguy cơ.
2
2
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐỊNH NGHĨA
Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) là trình trạng rối loạn dung nạp
glucose ở bất kỳ mức độ nào, khởi phát hoặc được phát hiện lần đầu tiên
trong lúc mang thai. Định nghĩa này được áp dụng dù người bệnh có cần phải
điều trị bằng insulin hay chỉ cần điều chỉnh chế độ ăn và dù cho diễn biến sau
đẻ còn tồn tại ĐTĐ hay không [7], [12], [19], [52], [67]. Những đa số trường
hợp ĐTĐTK sẽ hết sau khi sinh.
Định nghĩa này không loại trừ trường hợp bệnh nhân đã có rối loạn
dung nạp glucose từ trước (nhưng chưa được phát hiện) hay là xảy ra đồng
thời với quá trình mang thai.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT HIỆN, NGHIÊN CỨU CHẨN ĐOÁN ĐTĐTK
Vào đầu thể kỷ thứ XIX, năm 1828, Bennwitz lần đầu công bố 1 trường
hợp ĐTĐ phát hiện trong thời kỳ mang thai. Đó là thai phụ 22 tuổi, mang thai
lần thứ 4, có triệu chứng đa niệu vào tháng thứ 5 cùng với triệu chứng khác
như: khát nước, da khô…được chẩn đoán ĐTĐ, điều trị bằng chế độ ăn kiêng.
Thai phụ đủ tháng nhưng thai nhi chết trong cuộc đẻ và cân nặng của thai to

trên 4000g [37].
Đến cuối thể kỷ 19, Matthews Ducan lần đầu tiên công bố công trình
nghiên cứu về ĐTĐ ở thai phụ tại hội nghị sản khoa Anh quốc năm 1882.
Quan sát 22 lần mang thai ở 15 thai phụ có biểu hiện đái nhiều, ông nhận thấy
có 13 thai nhi tử vong. Tác giả nhận định rằng đây là những rối loạn xuất hiện
cùng khi mang thai và ĐTĐ được khái niệm một cách đơn giản là những bất
thường về số lượng và chất lượng nước tiểu.
3
3
3
Tới những năm 1940 – 1950, các nghiên cứu tại Mỹ và Scotland đã
khẳng định tăng glucose máu mẹ làm tăng tỷ lệ tử vong sơ sinh. Ngoài ra các
tác giả cũng chỉ ra rằng trong thời mang thai có sự thay đổi tính nhạy cảm với
insulin.
Năm 1954 nghiên cứu đầu tiên về bất thường chuyển hoá cacbohydrat
ở thai phụ được tiến hành tại Boston (Hoa Kỳ). Nghiệm pháp sàng lọc với
50g glucose lần đầu tiên được sử dụng.
Năm 1964 O’Sullivan và Mahan đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐTK
dựa trên các kết quả khi làm NPDNG trên 752 thai phụ.
Năm 1979 tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐTK của O’Sullivan và Mahan dựa
vào kết NPDNG uống 100g trong 3 giờ đã được Hội phụ khoa Hoa Kỳ
khuyến cáo sử dụng, uỷ ban quốc gia về ĐTĐ của Hoa Kỳ đã công bố tiêu
chuẩn này.
Thuật ngữ “ Gestational Diabetes Mellitus ”; ĐTĐTK lần đầu tiên được
đưa ra bởi Jorgen Pedersen năm 1967 tại Copenhagen nhưng định nghĩa về
ĐTĐTK mới được chính thức công nhận ở hội nghị thế giới lần thứ nhất về
ĐTĐTK tại Chicago năm 1980.
Cũng trong năm 1980, tổ chức y tế thế giới lần đầu tiên đưa ra tiêu
chuẩn chẩn đoán ĐTĐTK. Sau đó nhiều nghiên cứu về chẩn đoán, điều trị, và
theo dõi ĐTĐTK ở các nước trên thế giới lần lượt được công bố.

1.3. CHUYỂN HOÁ Ở THAI PHỤ BÌNH THƯỜNG
1.3.1. Chuyển hoá carbohydrate
Chuyển hoá glucose ở thai phụ bình thường có 3 đặc điểm cần chú ý đó
là: giảm nhạy cảm với insulin, tăng insulin máu và nồng độ glucose máu lúc
đói thấp [3], [27], [35].
4
4
4
1.3.1.1. Giảm nhạy cảm với insulin
Kháng insulin có xu hướng tăng dần trong suốt thời gian mang thai
song hành với các hormone. Các mô nhạy cảm với insulin bao gồm gan, cơ
vân. Gan tăng sản xuất glucose khi đói trong khi nồng độ insulin khi đói tăng
cao rõ rệt, điều này dẫn đến giảm nhạy cảm của gan với insulin [70]. Vào giai
đoạn mang thai, các thai phụ giảm 40% sự nhạy cảm của các mô ngoại vi với
insulin [28].
1.3.1.2. Tăng insulin máu
Nhiều nghiên cứu cho thấy ở thai phụ có hiện tượng tăng insulin máu,
tăng nhu cầu insulin để kiểm soát glucose máu. Sự bài tiết insulin đáp ứng
tăng dần khi truyền glucose. Nồng độ insulin tăng ở thai phụ là do thay đổi
chức năng của tế bào đảo tụy [26]. Ngoài ra ở phụ nữ có thai còn thấy hiện
tượng tăng độ thanh thải insulin. Catalano và cộng sự nghiên cứu đã báo cáo
vào giai đoạn 3 tháng cuối của thai kỳ có sự tăng 20% độ thanh thải insulin ở
người gầy và tăng 30% ở người béo [28].
1.3.1.3. Nồng độ glucose máu lúc đói giảm
Trong thời kỳ mang thai, dinh dưỡng bào thai phụ thuộc hoàn toàn vào
nguồn nhiên liệu chuyển hoá từ cơ thể. Nguồn năng lượng này được khuyếch
tán và vận chuyển thông qua tuần hoàn rau thai. Sự vận chuyển liên tục nhiên
liệu qua rau thai làm tăng các “khoảng trống năng lượng” của cơ thể người
mẹ do không được cung cấp thức ăn liên tục. Khi hiện tượng này xẩy ra, cơ
thể mẹ xuất hiện các phản ứng thích nghi nhằm đảm bảo hai quá trình: cung

cấp liên tục chất dinh dưỡng cho bào thai và đảm bảo năng lượng hoạt động
của chính cơ thể của người mẹ [3], [8], [27]. Các hiệu ứng này được đặc trưng
bởi sự kháng insulin gây ra “tình trạng đói tăng dần lên”. Biểu hiện bằng sự
dao động glucose từ trạng đói sang trạng thái no, tăng dữ trữ dinh dưỡng ở mô
5
5
5
mỡ, tăng phân giải mô mỡ tăng tạo ceton như một nguồn năng lượng của cơ
thể người mẹ. Do thể ceton qua được rau thai dễ dàng nên khi ceton máu mẹ
tăng do bất kỳ nguyên nhân nào thì ceton trong máu thai cũng tăng. Thai (tế
bào gan, tế bào não…) có thể sử dụng ceton như một cơ chất oxy hoá để tạo
năng lượng. Việc sử dụng thể ceton có thể gây ảnh hưởng xấu lên quá trình
phát triển tâm thần kinh của bé sau này. Do vậy cần chú ý đến tình trạng tăng
ceton máu ở mẹ.
Những thay đổi trong cơ thể mẹ khi mang thai có sự khác biệt giữa
trạng thái đói và trạng thái no của mẹ. Freinkel gọi những thay đổi trong trạng
thái no là “sự đồng hoá thuận lợi” [34]. Trong trạng thái no, cơ thể mẹ phát
triển sự kháng insulin ở ngoại vi. Tổng lượng glucose được sử dụng sẽ giảm
50-70% nhờ có hiện tượng kháng insulin xảy ra trong thời gian mang thai này.
Cơ chế này tạo thuận lợi cho đồng hoá chất béo ở thời kỳ mang thai sớm để
chuẩn bị cho những lúc cơ thể mẹ bị đói và có thể cân bằng lại sự giáng hoá
chất béo ở giai đoạn muộn của thai kỳ. Khả năng insulin thúc đẩy sử dụng
glucose ở mẹ bị giảm do thu nhận glucose vào các mô của mẹ sau khi ăn bị
chậm lại, tạo cơ hội thuận lợi để chuyển carbonhydrate tiêu hoá được cho bào
thai. Như vậy, hiện tượng kháng insulin ở mẹ tạo thuận lợi cho những nhu cầu
cấp thiết của cả cơ thể mẹ, đặc biệt là cơ thể con, đây là một đáp ứng sinh lý
[27], [35].
1.3.2. Chuyển hoá lipid
Chuyển hoá lipid ở thai phụ bình thường có 2 thay đổi đáng chú ý đó là:
- Tăng phân huỷ lipid và tăng tạo thể ceton.

- Tăng nồng độ triglyceride.
Khi mang thai, nồng độ triglyceride tăng gấp 2-4 lần, nồng độ
cholesterol toàn phần tăng thêm 20-50% [27].
6
6
6
1.3.3. Chuyển hoá protein
Protein là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho sự phát triển của thai
và rau thai. Cả thai và mẹ đều tăng giữ nitrogen. Điều này làm giảm mạnh
một cách có ý nghĩa nồng độ acid amin lúc đói của cơ thể mẹ. Sự thay đổi
sớm chuyển hoá acid amin lúc đói ở thai phụ so với người không mang thai
giải thích trình trạng mau đói hay gặp ở thai phụ. Ngoài ra, nồng độ acid amin
tương quan chặt chẽ với sự phát triển của thai nhi cả giai đoạn đầu và cuối.
Các acid amin đi từ mẹ sang thai qua rau thai theo cơ chế tích cực chủ động,
cần năng lượng và acid amin vận chuyển. Các acid amin vận chuyển có mặt ở
vi lông và mao màng cơ sở [27].

Mẹ Thai nhi
Hình 1.1. Sơ đồ các chất vận chuyển từ mẹ – thai qua rau thai [38]
Rau thai
Glucose
Glucose
Aminoacid
Aminoacid
Acid béo tự do
Acid béo tự do
Ceton
Ceton
Glycerol
Glycerol

Insulin
Insulin
7
7
7
1.4. SINH LÝ BỆNH CỦA ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ
Mang thai là yếu tố thuận lợi thúc đẩy sự xuất hiện các rối loạn điều hoà
đường máu do tăng tình trạng kháng insulin. ĐTĐTK có thể xảy ra khi tình
trạng kháng insulin sinh lý này tăng kịch phát và cùng xuất hiện song song sự
thiếu hụt tương đối.
Sinh lý bệnh của ĐTĐK tương tự như sinh lý bệnh của ĐTĐ type II bao
gồm kháng insulin và bất thường về tiết insulin.
1.4.1. Bài tiết hormon trong thời kỳ mang thai
Sản xuất các hormon có khuynh hướng tăng trong thời kỳ mang thai và
phần lớn các hormon này đều góp phần kháng insulin và gây rối loạn chức
năng tế bào beta của tụy. Nửa đầu thời kỳ thai nghén có sự tăng nhạy cảm với
insulin tạo điều kiện cho tích trữ mỡ của cơ thể mẹ, sự tích mỡ đạt mức tối đa
vào giữa thời kỳ mang thai. Vào nữa sau của thai kỳ có hiện tượng kháng
insulin, đồng thời nhu cầu insulin của các thai phụ cũng tăng khi thai càng
phát triển gây thiếu hụt insulin tương đối. Sự kết hợp của hai yếu tố trên làm
cho thai phụ có xu hướng dần tới ĐTĐ ở nửa sau của thai kỳ. Nồng độ của
progesteron, estrogen, HPL, do rau thai tiết ra tăng song song với đường cong
phát triển thai. Nồng độ các hormon rau thai tăng dần theo trọng lượng rau
thai sẽ làm tăng bài tiết của đảo tụy, giảm đáp ứng với insulin và tăng tạo
ceton. ĐTĐTK xuất hiện vào khoảng tuần thứ 24 của thai kỳ, khi mà rau thai
sản xuất một lượng đủ các hormon gây kháng insulin.
8
8
8
Hình 1.2. Sự bài tiết các hormon trong thời gian mang thai [23]

1.4.1.1. Vai trò của estrogen và progesteron với sự kháng insulin
Vào giai đoạn sớm của thai kỳ, cả hai hormon này tác động trên hoạt
động của insulin lại khác nhau. Estrogen có thể tăng đáp ứng của cơ với
insulin trong khi progesteron thì lại chất đối kháng nhẹ với insulin, giảm
nhạy cảm của mô với insulin, vì vậy hai hormon này có thể trung hoà cho
nhau [59], [70]. Nếu người bình thường sử dụng cả 2 hormon này sẽ làm tăng
nồng độ ceton, tăng triglycerit và tăng acid béo tự do mà không làm thay đổi
nồng độ glucose máu.
1.4.1.2. Vai trò của cortisol với sự kháng insulin
Nồng độ cortisol tăng khi mang thai, vào giai đoạn cuối thai kỳ, nồng
độ cortisol tăng gấp 3 lần ở người không mang thai [70]. Rizza và cộng sự sử
dụng kỹ thuật clamp trong nghiên cứu ở những người được truyền liều cao
9
9
9
cortisol, tác giả nhận thấy rằng có sự tăng sản xuất glucose ở gan và giảm
nhạy cảm insulin [58].
1.4.1.3. Vai trò của prolactin với sự kháng insulin
Trong thời kỳ mang thai, nồng độ prolactin tăng gấp 7-8 lần [70].
Skouby thăm dò mối liên quan giữa nồng độ prolactin và trình trạng dung nạp
đường glucose ở thai phụ bình thường và thai phụ ĐTĐTK bằng cách tiến
hành làm nghiệm pháp dung nạp đường máu vào nửa sau của thời kỳ thai
nghén và sau đẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: vào nửa sau của giai đoạn
mang thai, nồng độ đường máu lúc đói của thai phụ ĐTĐTK cao hơn một
cách có ý nghĩa so với nhóm chứng, còn sau khi uống đường thì đáp ứng tiết
insulin ở nhóm ĐTĐTK lại giảm hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm
chứng. Sự khác nhau về chuyển hóa glucose ở 2 nhóm càng rõ rệt hơn ở giai
đoạn ngay sau đẻ. Trong khi đó nồng độ prolactin ở cùng thời điểm của 2
nhóm hoàn toàn không có sự khác nhau. Nồng độ prolactin cũng không bị rối
loạn trong thời gian làm nghiệm pháp dung nạp glucose. Tác giả đi đến kết

luận không có mối liên quan giữa trình trạng dung nạp glucose và nồng độ
prolactin [65]. Như vậy prolactin không giữa vai trò quan trọng trong cơ chế
bệnh sinh ĐTĐTK.
1.4.1.4. Vai trò của human placental lactogen với sự kháng insulin
Lactogen có cấu trúc hoá học và chức năng miễn dịch giống như GH.
Nồng độ HPL vào thời điểm cuối của thai kỳ gấp 1000 lần nồng độ của GH.
Ngoài tác dụng đồng hoá protein và ly giải mỡ, HPL còn có tác dụng lên
tuyến vú và hoàng thể. Dùng một liều duy nhất có thể gây trình trạng rối loạn
dung nạp glucose nhẹ từ 5-12 giờ [70].
1
1
1
1.4.2. Các giai đoạn thai kỳ và ảnh hưởng của tăng glucose máu lên sự
phát triển của thai nhi
Một thai kỳ bình thường kéo dài khoảng 40 tuần. Thai kỳ được chia
thành 3 giai đoạn , mỗi giai đoạn kéo dài 3 tháng [10], [13].
- Ba tháng đầu thai kỳ: Sự điều hoà glucose trong giai đoạn đầu thai kỳ
có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành và đóng của ống thần kinh. Tăng
glucose máu nặng có gây ra dị tật ống thần kinh như: ống thần kinh, sọ
nhỏ.Ngoài ra tăng glucose máu cùng với tăng ceton máu còn gây ra nhiều dị
tật bẩm sinh khác trong 3 tháng đầu thai kỳ. Vì vậy cần kiểm tra glucose máu
cho những thai phụ có nguy cơ cao bị ĐTĐTK ngay từ lần khám thai đầu tiên
trong giai đoạn này [50].
- Ba tháng giữa thai kỳ: Thai nhi tiếp tục phát triển và trưởng thành. Đây
là giai đoạn tất cả các tế bào não có mặt trong suốt cuộc đời đều được hình
thành. Trong trường tăng ceton máu do đói hoặc toan ceton do ĐTĐ đều có
thể giảm hình thành pyrimidin trong não thai chuột. Qua quan sát trên, người
ta thấy rằng nếu số lượng tế bào não và hoạt động trí tuệ có tương quan nhau
thì tăng ceton máu có ảnh hưởng tới trí tuệ của trẻ [35].
- Ba tháng cuối thai kỳ: Tất cả các hệ thống cơ quan đều đã đuợc hình

thành đầy đủ, các xương sọ của thai mềm và dễ di chuyển. Lúc này thai bắt
đầu tăng cân và lớn nhanh. Tăng đường máu vào giai đoạn này không gây các
dị tật bẩm sinh cho thai nhi nhưng lại gây thai to. Vì tăng glucose máu mẹ làm
glucose máu thai tăng, kích thích tụy của thai sản xuất insulin làm phát triển
nhanh các tế bào mỡ, cơ [42], [50], [56].
1.5. YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI ĐTĐTK
Các nghiên cứu dịch tễ học về ĐTĐTK phát hiện nhiều điểm chung,
giống ĐTĐ type II. Những phụ nữ mắc bệnh ĐTĐTK có xu hướng hay gặp ở
1
1
1
người nhiều tuổi, có thừa cân trước khi mang thai [3]. Vì vậy theo khuyến cáo
của Hội nghị Quốc tế (HNQT) lần thứ 4 về ĐTĐTK tại Hoa Kỳ năm 1998 thì
các thai phụ sau có nguy cơ dễ mắc ĐTĐTK [13], [52].
- Béo phì:
Ở người béo phì có tình trạng kháng insulin, tăng tiết insulin phát hiện
qua nghiệm pháp dung nạp glucose bị rối loạn, dễ dẫn đến bệnh ĐTĐ. Người
béo phì có tỷ lệ bị ĐTĐ cao và có tới 80-90% người bị ĐTĐ có béo phì ở
Mỹ. Hầu hết các nghiên cứu đều nhận thấy tỷ lệ ĐTĐTK ở nhóm phụ nữ béo
phì cao [49].
Theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới đề nghị cho khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương tháng 2/2000, BMI ≥ 23 được coi là thừa cân và béo phì
[73]. Tạ Văn Bình và cộng sự trong nghiên cứu thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐTK
giữa hai nhóm BMI ≤ 23 và BMI ≥ 23 có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p < 0,005 [4].
- Tiền sử gia đình:
Tiền sử gia đình có người bị ĐTĐ, đặc biệt là người ĐTĐ thế hệ thứ nhất
là một trong những yếu tố nguy cơ cao của ĐTĐTK chiếm 50-60% so với
nhóm không có tiền sử gia đình. Nghiên cứu của Maggee cho thấy ở nhóm có
tiền sử gia đình thì ĐTĐTK cao hơn 40% [49]. Theo Wagaarach thấy tỷ lệ

mắc ĐTĐTK của thai phụ có tiền sử gia đình là 5,2% trong khi nhóm không
có tiền sử là 3,9% [72].
- Tiền sử đẻ con ≥ 3500g:
Cân nặng trẻ lúc đẻ vừa là hậu quả của ĐTĐTK vừa là yếu tố nguy cơ cho
mẹ mang thai lần sau. Đỗ Trung Quân và cộng sự đã nghiên cứu 196 thai phụ
có một trường hợp đẻ con > 4000g [13]. Khái niệm thai to > 4000g là tiêu
1
1
1
chuẩn của Châu Âu trước kia, ở Việt Nam có thể coi trẻ sơ sinh ≥ 3500g là
thai to.
- Tiền sử bất thường về dung nạp glucose:
Đây là yếu tố nguy cơ cao của ĐTĐTK. Đa số người có tiền sử RLDNG
thì khi có thai đều bị ĐTĐTK. Tiền sử này bao gồm cả tiền sử phát hiện
ĐTĐTK từ những lần sinh trước, và giảm dung nạp glucose [13]. Trong
nghiên cứu của mình, Wah Cheung đã nhận thấy đây là yếu tố nguy cơ của
ĐTĐTK với tỉ suất chênh so với nhóm không mắc ĐTĐTK là OR = 14,5 [70].
- Đường niệu dương tính:
Đây là yếu tố nguy cơ cao đối với ĐTĐTK. Tuy nhiên, có khoảng 10-
15% phụ nữ mang thai có đường niệu dương tính mà không phải ĐTĐTK.
Đây có thể là ngưỡng đường của thận ở một số phụ nữ mang thai thấp. Tuy
nhiên, khi đường niệu dương tính thì tỷ lệ có RLNPDNG tăng cao. Theo
Welsh nghiên cứu 101 thai phụ có đường niệu dương tính thì có 61,4% được
chẩn đoán ĐTĐTK. Nghiên cứu của Đỗ Trung Quân và cộng sự năm 2001 ở
196 thai phụ có 32 thai phụ có đường niệu dương tính thì 28,1% được chẩn
đoán ĐTĐTK [5].
- Tuổi mang thai:
Theo Hiệp hội sản khoa Mỹ thì người mẹ thai ở tuổi < 25 được coi là ít
nguy cơ ĐTĐTK, khi phụ nữ >35 mang thai thì nguy cơ ĐTĐTK tăng hơn.
Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ cao ở thai phụ Châu Á,Waggaarach thấy tỷ lệ

ĐTĐTK ở các thai phụ có tuổi > 35 là 7,8% gấp 2,5 lần với nhóm < 35 là
3,1% [72].
- Tiền sử sản khoa bất thường:
1
1
1
Bao gồm các tiền sử bất thường như: thai chết lưu, sẩy thai không rõ
nguyên nhân. Các yếu tố này vừa được coi là hậu quả của ĐTĐTK vừa là yếu
tố nguy cơ [13].
- Chủng tộc:
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ ĐTĐTK rất khác nhau tuỳ từng chủng
tộc. Đáng chú ý là rất nhiều nghiên cứu khẳng định phụ nữ Châu Á trong đó
có Việt Nam có tỷ lệ ĐTĐTK cao. Khi nghiên cứu 180 thai phụ Châu Á,
Gunton (úc) năm 1998 thấy tỷ lệ ĐTĐTK là 10,6%. Với nghiên cứu của
Moses tỷ lệ là 12,2% [52]. Henry O.A và cộng sự thấy tỷ lệ ĐTĐTK ở các
thai phụ gốc Việt Nam Là 7,8% (144/ 1839) [41].
Năm 2005, hội nghị quốc tế về ĐTĐTK tại Bỉ cũng khuyến cáo sàng lọc
cho thai phụ có nguy cơ ngay từ lần khám thai đầu tiên, còn các thai phụ khác
đều được sàng lọc vào tuần thứ 24 - 28 của thai kỳ [43].
1.6. HẬU QUẢ CỦA ĐTĐTK
1.6.1. Hậu quả đối với mẹ
1.6.1.1. Hậu quả trước mắt: Thai phụ ĐTĐTK có nguy cơ bị các tai biến sản
khoa cao hơn các thai phụ bình thường [24].
- Tăng huyết áp
Thai phụ ĐTĐTK dễ bị tăng huyết áp hơn các thai phụ bình thường [30],
[66]. Tỉ lệ bị tăng huyết áp trong thời gian mang thai có thể đạt tới 10% [68].
Nghiên cứu của Vambergue và cộng sự tại 15 trung tâm Bắc Pháp đã chỉ ra
rằng các thai phụ bị ĐTĐTK có tỉ lệ bị cao huyết áp là 17% tăng hơn so với
nhóm chứng chỉ là 4,6% (p < 0,005) [69].
Bệnh sinh của tăng huyết áp trong thời gian mang thai vẫn chưa được

rõ ràng, có nhiều yếu tố góp phần làm tăng huyết áp. Người ta thấy rằng ở
1
1
1
người ĐTĐTK, chính sự giảm dung nạp glucose và kháng insulin giữ vai trò
sinh lý bệnh chủ yếu làm tăng nguy cơ bị tăng huyết áp [24], [61], [62]. Hiện
tượng kháng insulin có tác động lên hệ thần kinh giao cảm. Kháng insulin làm
nồng độ insulin máu tăng sẽ kích thích giải phóng nor-epinephrine làm tăng
tần số tim và huyết áp tâm thu, tác dụng này vượt trội hơn cả tác dụng giãn
mạch trực tiếp của insulin trên mạch máu. Cường insulin máu gây phì đại tế
bào cơ trơn mạch máu dẫn tới co hẹp và cứng lòng mạch. Cường insulin máu,
giảm dung nạp glucose còn gây rối loạn lipid máu(tăng triglyceride và giảm
HDL) dẫn tới xơ vữa mạch máu. Ngoài ra cường insulin còn ảnh hưởng tới
bơm vận chuyển Ca++ATP và bơm vận chuyển Na+K+ ATP, làm tăng nồng
độ Ca++ trong tế bào từ đó dẫn đến tăng trương lực mạch máu [57].
Tăng huyết áp trong thời gian mang thai có thể gây ra nhiều biến chứng
cho mẹ và thai nhi như là: tiền sản giật, sản giật, co giật, đột quỵ, suy gan, suy
thận, thai chậm phát triển trong tử cung, đẻ non và chết chu sinh. Vì vậy đo
huyết áp thường xuyên, theo dõi cân nặng, tìm protein niệu cho các thai phụ
ĐTĐTK là việc làm rất cần thiết, nhất là vào nửa sau của thai kỳ [64].
- Tiền sản giật và sản giật
Thai phụ ĐTĐTK có nguy cơ bị tiền sản giật cao hơn các thai phụ
thường. Tiền sản giật bao gồm các triệu chứng: tăng huyết áp, có protein niệu,
acid uric máu tăng > 6mg/dl [31]. Thậm chí có bệnh nhân bị hội chứng
HELLP (Hemolysis, Elevated Liver enzyms, Low Platelet) rất rõ gồm các
triệu chứng tan máu, tăng men gan, số lượng tiểu cầu thấp. Tỉ lệ các phụ nữ
ĐTĐTK bị tiền sản giật khoảng 12% cao hơn các phụ nữ không bị ĐTĐTK
(8%) [68].
- Sảy thai và thai lưu
1

1
1
Người ĐTĐTK tăng nguy cơ bị sảy thai tự nhiên nếu đường máu kiểm
soát không tốt ở 3 tháng đầu. Ngược lại các phụ nữ hay bị sảy thai liên tiếp
không rõ nguyên nhân thì cần phải kiểm tra đường máu [74].
Thai chết lưu ở thai phụ bị ĐTĐTK gặp với tần suất cao hơn so với
nhóm chứng. Phần lớn các trường hợp thai chết lưu ở người ĐTĐTK xảy ra
đột ngột. Thai hay bị chết lưu khi đường máu của người mẹ kiểm soát kém,
khi thai to so với tuổi thai, khi bị đa ối, và thường xảy ra vào những tuần cuối
của thai kỳ. Người ta nhận thấy rằng mặc dù tỉ lệ tử vong chu sinh giảm đi
một cách có ý nghĩa so với trước đây nhưng tỉ lệ thai lưu vẫn còn và tỉ lệ thai
lưu: tử vong chu sinh là 2:1 [53].
Các biến chứng khác
- Nhiễm trùng tiết niệu
Thai phụ ĐTĐTK dễ bị nhiễm trùng tiết niệu [74]. Nghiên cứu của
Farooq cho thấy rằng nếu kiểm soát tốt đường máu thì tỉ lệ nhiễm trùng tiết
niệu chỉ còn 6% [34]. Có nhiều yếu tố thuận lợi làm tăng nguy cơ nhiễm trùng
tiết niệu ở thai phụ ĐTĐTK. Thứ nhất là nồng độ đường máu, đường niệu cao
tạo môi trường thuận lợi cho các loại vi khuẩn phát triển. Thứ hai là trong thời
gian mang thai, bản thân các thai phụ có sự suy giảm chức năng miễn dịch
cộng với nồng độ đường máu cao càng làm rối loạn chức năng miễn dịch dẫn
tới giảm khả năng đề kháng với vi khuẩn. Cuối cùng là mang thai gây chèn ép
bàng quang kết hợp tổn thương thần kinh thực vật gây nên sự tồn dư nước
tiểu càng tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng tiết niệu.
Người ĐTĐTK nếu kiểm soát đường máu không tốt càng tăng nguy cơ
nhiễm trùng tiết niệu. Nhiễm trùng tiết niệu có thể không có triệu chứng lâm
sàng nhưng làm cho đường máu của người mẹ mất cân bằng và cần phải được
điều trị. Nếu không được điều trị sẽ dễ dàng dẫn tới viêm đài bể thận cấp, từ
1
1

1
đó gây ra rất nhiều các tai biến khác như nhiễm toan ceton, đẻ non, nhiễm
trùng ối [74].
- Đẻ non
Người bị ĐTĐTK tăng nguy cơ đẻ non so với thai phụ không bị đái
tháo đường. Tỉ lệ đẻ non ở phụ nữ ĐTĐTK là 26% trong khi ở quần thể
thường chỉ là 9,7%. Các nguyên nhân dẫn đến đẻ non là kiểm soát đường máu
kém, nhiễm trùng tiết niệu, đa ối, tiền sản giật, tăng huyết áp [74].
- Đa ối
Đa ối hay gặp ở phụ nữ mang thai bị đái tháo đường. Tỉ lệ đa ối ở các
thai phụ ĐTĐTK cao gấp 4 lần so với các thai phụ không ĐTĐTK. Trong
nghiên cứu của Farooq và cộng sự cho thấy tỉ lệ đa ối ở các thai phụ ĐTĐTK
chiếm tỉ lệ 18%, cao hơn so với các thai phụ không ĐTĐTK [34]. Cơ chế đa
ối do đái tháo đường còn chưa được biết rõ. Có giả thuyết cho rằng đa ối liên
quan đến bài niệu thẩm thấu của thai nhi, nhưng điều này được bác bỏ vì kết
quả đo bài niệu của thai nhi trên siêu âm hoàn toàn bình thường [74]. Tuy
nhiên các tác giả đều thừa nhận tăng đường máu mẹ gây ảnh hưởng tới tạo
nước tiểu của thai nhi có thể do kích thích mạn tính kết hợp với thay đổi
chuyển hóa tại thận và điều này cần các nghiên cứu thực nghiệm hiện đại hơn
để giải thích. Dịch ối nhiều thường thấy từ tuần thai thứ 26-32. Dịch ối nhiều
cũng làm tăng nguy cơ đẻ non.
1.6.1.2. Hậu quả lâu dài
Nhiều nghiên cứu nhận thấy rằng các phụ nữ có tiền sử ĐTĐTK dễ
mắc ĐTĐ type II. Theo Hyer, khoảng 17% đến 63% các phụ nữ ĐTĐTK sẽ bị
ĐTĐ type II trong thời gian sau 5 năm đến 16 năm [43]. Thường thì khoảng
50% phụ nữ có tiền sử ĐTĐTK sẽ bị ĐTĐ type II trong tương lai. Các nghiên
cứu khác nhau với thời gian theo dõi khác nhau trên các nhóm chủng tộc khác
1
1
1

nhau cho kết quả khác nhau. Tỉ lệ mắc sẽ tăng theo thời gian, nguy cơ phát
triển thành ĐTĐ type II tăng 3% mỗi năm. Tóm tắt của 28 nghiên cứu cho
thấy rằng tỉ lệ bị ĐTĐ type II của các phụ nữ có tiền sử ĐTĐTK từ 2,6% tới >
70% với thời gian theo dõi từ 6 tuần tới 28 năm [62]. Nghiên cứu của Bian và
cộng sự trong 11 năm theo dõi, các tác giả nhận thấy tỉ lệ mắc ĐTĐ type II ở
nhóm phụ nữ có tiền sử ĐTĐTK là 33% cao hơn hẳn nhóm chứng chỉ là
2,6%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [23]. Các nghiên
cứu khác của Henry theo dõi 17 năm cũng cho kết quả tương tự, tỉ lệ mắc
ĐTĐ typeII là 40%. Tỉ lệ này đã tăng > 50% trong nghiên cứu của O’
Sullivan với thời gian theo dõi sau 28 năm [54].
Ngoài ra thai phụ ĐTĐTK sẽ tăng nguy cơ bị ĐTĐTK trong những lần
có thai sau đó. Họ cũng dễ bị béo phì, tăng cân quá mức sau đẻ nếu không có
chế độ ăn và tập luyện thích hợp.
1.6.2. Hậu quả đối với thai nhi và trẻ sơ sinh
- Thai to: với phân bố mỡ chủ yếu ở vùng ngực làm tăng nguy cơ đẻ
khó và có các sang chấn tổn thương sau đẻ như: liệt đám rối thần kinh cánh
tay, gãy xương đòn. Thai to làm tăng nguy cơ phải mổ đẻ. Tỉ lệ mổ đẻ ở các
thai phụ ĐTĐTK khá cao 47% [42], [43]. Pedersen cho rằng thai to là do tăng
đường máu mẹ đi qua rau thai làm đường máu thai tăng sẽ kích thích tụy thai
tăng sản xuất insulin gây cường insulin ở thai [56]. Mà insulin có tác dụng
đồng hóa kích thích tăng trưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
các yếu tố tăng trưởng. Điều này được chứng minh trong nghiên cứu của
Simmons, tác giả lấy máu cuống rốn định lượng insulin ở trẻ lúc được sinh ra
và nhận thấy rằng trẻ to béo của nhóm mẹ bị ĐTĐ có tình trạng cường insulin
so với trẻ của nhóm mẹ không bị ĐTĐ [65].
1
1
1
- Hạ đường máu sơ sinh trong những ngày đầu sau đẻ: khi đường máu
mẹ tăng vào 3 tháng cuối thai kỳ và đặc biệt là vào giai đoạn chuyển dạ thì

đường máu của thai cũng tăng sẽ kích thích tụy thai tăng sản xuất insulin. Sau
khi sinh, nguồn đường máu từ mẹ cung cấp cho thai ngừng đột ngột nhưng
nồng độ insulin trong máu con vẫn còn cao. Insulin cao làm cho các mô bắt
giữ đường nhiều hơn trong khi gan trẻ sơ sinh vẫn chưa sản xuất được đủ
glucose dẫn đến hạ đường máu. Thời gian hạ đường máu kéo dài tới 24-72
giờ sau khi sinh. Vì vậy kiểm soát tốt đường máu cho các thai phụ ĐTĐTK
trong thời gian mang thai và chuyển dạ sẽ tránh được tai biến này. Và cũng vì
vậy mà cần phải theo dõi chặt đường máu cho trẻ sơ sinh trong 3 ngày đầu
sau đẻ [47], [48], [51], [53 ].
- Hạ canxi máu sơ sinh: tỉ lệ hạ canxi máu sơ sinh của các trẻ đẻ non
hoặc ngạt có mẹ bị ĐTĐ cao hơn các trẻ có mẹ không bị ĐTĐ, trong 3 ngày
đầu tỉ lệ hạ canxi có thể đạt tới 50% nếu kiểm soát đường máu của mẹ không
tốt. Khi đường máu của mẹ không được kiểm soát tốt, mẹ sẽ bị mất ion Mg
(mangesium) qua nước tiểu, làm nồng độ Mg máu mẹ giảm dẫn đến nồng độ
Mg máu con giảm. Mất Mg sẽ ảnh hưởng tới sự bài tiết hormone PTH của
thai nhi và gây hạ canxi máu. Hạ canxi máu trẻ sơ sinh càng nặng nếu đường
máu mẹ càng cao [53].
- Đa hồng cầu: Hematocrit có thể > 70% vào 2 giờ sau sinh và > 65%
vào 6 giờ sau sinh. Tỉ lệ đa hồng cầu gặp từ 12-40% tuỳ theo các nghiên cứu.
Có hai lý do để giải thích hiện tượng đa hồng cầu ở trẻ sơ sinh của các bà mẹ
ĐTĐ. Thứ nhất là do thiếu oxy máu làm tăng sản xuất erythropoietin (vì tăng
đường máu, tăng insulin máu và tăng ceton máu làm tăng tiêu thụ oxy dẫn tới
bão hoà oxy máu động mạch giảm). Nồng độ erythropoietin của trẻ vào lúc
sinh sẽ tương quan với nồng độ glucose và nồng độ insulin trong nước ối và
máu cuống rốn. Thứ hai là do thay đổi phân bố dòng máu giữa nhau và thai
1
1
1
nhi. Bình thường thể tích máu của rau và thai trong tử cung khoảng
110mg/kg, trong đó rau chiếm 35%, thai chiếm 65%. Khi thiếu oxy luồng

máu phân bố sẽ thay đổi giữa rau và thai. Đa hồng cầu cần được chăm sóc cẩn
thận vì gây cô đặc máu dẫn tới tím, nhược cơ hô hấp, hạ đường máu, hoại tử
ruột và tắc tĩnh mạch [53].
- Tăng bilirubin máu: do nhiều yếu tố gây nên như là tăng khối lượng tế
bào máu, tan máu, chấn thương, chậm sản xuất các enzym của gan
- Hội chứng suy hô hấp cấp chu sinh: Trước đây, hội chứng suy hô hấp
cấp chu sinh thường gặp và có tiên lượng rất nặng. Ngày nay với những tiến
bộ trong chăm sóc và điều trị cho các bà mẹ ĐTĐTK nên tỉ lệ trẻ bị hội chứng
suy hô hấp cấp chu sinh đã giảm từ 31% xuống còn 3%. Do vậy có thể nói
đây là biến chứng có thể dự phòng được nếu bà mẹ được chăm sóc điều trị
tích cực.
Cơ chế bệnh sinh của hội chứng suy hô hấp sơ sinh: Các thai phụ
ĐTĐTK tăng nguy cơ đẻ non. Do đó phổi thai nhi chưa trưởng thành nên dễ
bị suy hô hấp lúc được sinh ra. Ngoài ra nếu kiểm soát đường máu cho các bà
mẹ ĐTĐTK không tốt sẽ dẫn đến bất thường sản xuất chất surfactant ở phổi
gây bệnh màng trong. Một số tác giả đã đi sâu nghiên cứu cố gắng giải thích
cơ chế bệnh màng trong. Hawdon và Aynsely-Green tiến hành nghiên cứu
trên các tế bào phổi type II của chuột và thỏ, tác giả nhận thấy rằng khi nồng
độ đường cao, làm nồng độ insulin tăng, insulin có tác dụng ức chế cortisol,
mà sản xuất phosphatidylcholine (lecithin) lại phụ thuộc vào cortisol, và chính
phosphatidylcholine là nguyên bào sợi của tế bào phổi [50], [53].
- Tăng tỉ lệ tử vong chu sinh: Người ta nhận thấy rằng tỉ lệ tử vong chu
sinh của các trẻ sinh ra từ các thai phụ ĐTĐTK cao hơn các thai phụ không bị
ĐTĐ. Nguyên nhân tử vong chu sinh vẫn còn chưa được biết rõ. Nhiều tác giả
2
2
2
cho rằng có thể tăng đường máu và tăng insulin máu làm thai nhi bị giảm oxy
máu, nhiễm toan, từ đó gây mất khả năng chống đỡ của trẻ với tình trạng hạ
oxy [57].

- Ngoài ra trẻ còn dễ mắc các bệnh khác như: dị tật bẩm sinh, chậm
phát triển trong tử cung, phì đại cơ tim [60].
- Về lâu dài: 10 đến 20 năm sau
− Tăng nguy cơ béo phì ở các trẻ em.
− Tăng nguy cơ ĐTĐ type II
Chính vì ĐTĐTK để lại nhiều hậu quả cho mẹ và con nên việc chẩn
đoán và điều trị kịp thời có thể làm giảm biến chứng cho mẹ, giảm bệnh lý và
tỉ lệ tử vong chu sinh cho con [47].
1.7. TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN ĐTĐTK
Chưa có tiêu chuẩn thống nhất để chẩn đoán ĐTĐTK trên toàn thế giới.
Các tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐTK còn là vấn đề tranh cãi mặc dù đã có nhiều
hội nghị quốc tế đề cập đến vấn đề này. Nhưng các tiêu chuẩn chẩn đoán xây
dựng dựa trên tỷ lệ bệnh tật liên quan có tính thuyết phục hơn cả. Đó là các
tiêu chuẩn xây dựng dựa trên nghiên cứu về tỉ lệ các tai biến sản khoa, tỉ lệ
mắc ĐTĐ trong tương lai của mẹ và các tai biến cho thai và trẻ sơ sinh với
mức đường máu đó. Tiêu chuẩn chẩn đoán dưới đây dựa trên cơ sở đó.
Tiêu chuẩn của HNQT lần thứ IV về ĐTĐTK tại Mỹ 1998 [52]
Các thai phụ được làm NPDNG với 75g glucose. Chẩn đoán ĐTĐTK
khi thai phụ có ít nhất hai giá trị lớn hơn hoặc bằng dưới đây
Thời điểm lấy mẫu Ngưỡng giá trị chẩn đoán NPDNG 75g
Lúc đói 5,3 mmol/L
2
2
2
1 giờ 10,0 mmol/L
2 giờ 8,6 mmol/L
Đây là tiêu chuẩn được nhiều tác giả sử dụng, nhất là các nước châu
Âu. Tới 2004 thì hội ĐTĐ Mỹ cũng khuyến cáo có thể dùng tiêu chuẩn này.
1.8. ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐTĐTK
1.8.1. Mục tiêu đường máu:

Bảng 1.1: Mục tiêu ĐM cần đạt cho thai phụ ĐTĐTK theo hội ĐTĐ Hoa
Kỳ 2004 [19]
Thời gian làm xét nghiệm ĐM (mmol/l)
ĐM lúc đói
≤ 5,3
ĐM sau ăn 2 giờ
≤ 7,2
HbA1C
≤ 6%
Đây là mục tiêu của hội ĐTĐ Hoa Kỳ 2004 có dựa trên mục tiêu của
HNQT lần thứ 4 về ĐTĐTK năm 1998. Tới 2006, hội ĐTĐ Hoa Kỳ vẫn
khuyến cáo theo mục tiêu này [18], [19].
1.8.2. Chế độ ăn:
* Chế độ ăn là nền tảng của việc điều trị ĐTĐTK.
* Chế độ ăn của người phụ nữ mang thai phải đạt được những mục tiêu
sau:
+ Không gây tăng đường máu lúc đói và sau khi ăn: kiểm tra đường
máu lúc đói và đường máu sau ăn.
+ Không ảnh hưởng tới sự tăng cân của mẹ, đảm bảo thai nhi phát triển
bình thường: nhu cầu năng lượng từ 25 -35 kcal/ kg, thành phần gồm
Carbonhydrat 40-55%, protein 20%, chất béo 25-40%.
+ Bữa ăn chia nhỏ làm nhiều lần trong ngày: 3 bữa chính và 3 bữa phụ.
2
2
2
+ Đảm bảo đủ vitamin và các yếu tố vi lượng.
1.8.3. Luyện tập:
Hội ĐTĐ Hoa Kỳ khuyến cáo ở thai phụ có thai nếu không có chống
chỉ định về sản khoa và nội khoa, thì nên bắt đầu hoặc tiếp tục tập luyện ở
mức vừa phải vì nó có tác dụng làm giảm đường máu ở người mẹ. Đi bộ sau

bữa ăn 20 phút là hoạt động nên thực hiện ở thai phụ, giúp kiểm soát đường
máu tốt hơn. Bởi cũng là một bài tập tốt cho thai phụ. Trong khi tập nên giữ
cho nhịp tim không vượt quá 140 lần/phút [37].
1.8.4. Thuốc viên hạ đường máu:
Sử dụng thuốc viên hạ glucose máu điều trị ĐTĐTK đang còn nhiều
tranh cãi. Một số nghiên cứu gần đây cho rằng có thể sử dụng thuốc viên hạ
glucose trong thời kỳ mang thai như Acarbose và Metformin. Tuy nhiên các
nghiên cứu sử dụng thuốc viên điều trị ĐTĐTK trên lâm sàng vẫn chưa đủ
sâu và rộng về tính an toàn trong thời gian mang thai, vì vậy không nên sử
dụng để điều trị để ĐTĐTK [20], [21], [44]. Chính vì thế mà insulin vẫn là
thuốc đầu tay để điều trị đái tháo đường trong thời kỳ mang thai khi mà chế
độ ăn đơn thuần không đảm bảo kiểm soát được đường máu [18], [20 ].
1.8.5. Điều trị bằng insulin:
Khi chế độ ăn và luyện tập không đảm bảo kiểm soát được glucose máu
thì thai phụ ĐTĐTK cần được điều trị phối hợp với insulin. Điều trị insulin
làm giảm tỷ lệ các biến chứng ở thai nhi.
Trong điều kiện bình thường, tuyến tụy của người phụ nữ sản xuất đủ
insulin để đáp ứng nhu cầu cơ thể, nhưng thai kỳ đòi hỏi nhiều insulin hơn
bình thường do sự tăng nồng độ các hormon gây kháng insulin. Thai phụ bị
ĐTĐTK, tụy không thể sản xuất đủ insulin để vượt qua sự đề kháng insulin
2
2
2
của cơ thể. Một số người chỉ cần điều chỉnh chế độ ăn hàng ngày là có thể
thắng sự đề kháng này, một số khác cần luyện tập thêm, và một số khác nữa
cần tiêm insulin.
Có nhiều loại insulin như chỉ có insulin người sinh tổng hợp là loại
được khuyến cáo dùng trong điều trị ĐTĐ trong thời kỳ mang thai. Insulin
người sinh tổng hợp hầu như không gây dị ứng. Insulin không qua đi qua
hàng rào rau thai vì vậy không gây hạ glucose máu trực tiếp của thai nhi.

Theo khuyến cáo của Hội ĐTĐ Hoa Kỳ 2004 [18].
- Các thai phụ ĐTĐTK có mức ĐM lúc đói < 5,3mmol/l và ĐM 2giờ
sau ăn < 11,1mmol/l được hướng dẫn chế độ ăn và luyện tập trong 2 tuần.
Nếu mức ĐM đạt mục tiêu điều trị thì tiếp tục theo chế độ ăn. Nếu mức ĐM
không đạt mục tiêu thì phối hợp với liệu pháp insulin.
- Các thai phụ ĐTĐTK có mức ĐM lúc đói ≥ 5,3mmol/l hoặc ĐM sau
ăn 2h ≥ 11,1mmol/l cần được phối hợp chế độ ăn và liệu pháp insulin ngay.
1.9. TÌNH HÌNH ĐTĐTK TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.9.1. Thế giới
Tỷ lệ ĐTĐTK thay đổi khác nhau tuỳ theo quốc gia, theo vùng, theo
chủng tộc. Tỷ lệ dao động từ 1% đến 14% [16], [19]. Theo một số nghiên cứu
cho thấy ở phụ nữ da trắng, tỷ lệ ĐTĐTK thấp hơn so với nhóm phụ nữ Ấn
Độ và thổ dân Canada.
Theo nghiên cứu của Mose năm 1998 trên các nhóm chủng tộc khác
nhau cho thấy tỷ lệ ĐTĐTK khác nhau rõ rệt và bệnh có xu hướng gặp nhiều
ở phụ nữ Châu Á.
2
2
2
Bảng 1.2: Tỷ lệ ĐTĐTK theo nhóm chủng tộc – nghiên cứu của Moshe
[52]
Nhóm Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Người Úc 2114 6,1
Người Châu Âu 534 7,1
Người Thổ dân 20 5,0
Người ở các đảo khu
vực Thái Bình Dương
21 9,5
Người Châu Á 90 12,2
Nhóm người khác 129 3,1

Bảng 1.3. Tỉ lệ ĐTĐTK của một số quốc gia trên thế giới [13]
Qu c giaố N mă T l T TK (%)ỉ ệ Đ Đ
an M chĐ ạ 1975 1-7
B c Ailenắ 1980 0,2-3
Hoa Kỳ 1980 12,3
Th y i nụ Đ ể 1984 1,3
Anh 1984 4
Australia 1988 2,4
1.9.2. Việt Nam
Năm 1999, Ngô Thị Kim Phụng tiến hành nghiên cứu xác định tỷ lệ
ĐTĐTK tại quận ở thành phố Hồ Chí Minh là 3,9% [12].
Năm 2000, Nguyễn Thị Kim Chi và cộng sự nghiên cứu 196 thai phụ
tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, tỷ lệ ĐTĐTK là 3,6% [5]. Tới năm 2002
-2004, Tạ Văn Bình và cộng sự nghiên cứu 1611 thai phụ tại Bệnh viện Phụ
sản Trung ương và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội tỷ lệ ĐTĐTK là 5,7% [4].
2
2
2

×