Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đề cương môn học Triết học Mac Lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.08 KB, 17 trang )

Câu 1: VK ĐH VIII nêu rõ : “Sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Aâu,
chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất
của thời đại, loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội
dung vào hình thức biểu hiện có nhiều nét mới” . (VKĐH VIII, trang 16) Đồng chí hãy
phân tích luận điểm trên
BÀI LÀM
Những tư tưởng lớn của nhân loại sớm muộn sẽ trở thành hiện thực và quá trình thực hiện
những tư tưởng xã hội thường bắt đầu bằng một cuộc cách mạng. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã
hình thành từ thờ cổ đại Hy Lạp trải qua nhiều giản đơn đến đầu thế kỷ 20, tư tưởng ấy được thực
hiện ở nước Nga (1917) bằng cuộc cách mạng Tháng Mười vĩ đại. 80 năm đã trôi qua, sau nhiều
cuộc biến động xã hội, nhân loại đã chứng kiến biết bao sự kiện thăng trầm của lịch sử. Từ sự
hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới đến sự kiện tan rã của các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu và Liên xô. Những biến động chính trị diễn ra trong vài thập kỷ gần đây, những
thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện nay không thể là căn cứ để chúng ta đi đến những kết luận vội
vàng mà phải căn cứ vào giá trị tư tưởng xã hội chủ nghĩa đối với vận mệnh của toàn nhân loại cả
trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai để xem xét. Trong văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta đã
khẳng định: “ sau những biến cố chính trị ở Liên xô …biểu hiện có nhiều nét mới”.
Trước hết sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển của lịch
sử xã hội loài người, sau cách mạng Tháng Mười Nga (1917) Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên
của nhân loại, một nhà nước thể hiện ý chí của loài người: xóa bỏ bất công, bóc lột, chủ nghĩa xã
hội là mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản, là ước mơ, nguyện vọng của đông đảo quần chúng
nhân dân lao động, và thực tế lịch sử đã chứng minh khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ra
đời thì chế độ chủ nghĩa xã hội là một xã hội thực sự tốt đẹp, có điều kiện phát triển từ đó cho tất
cả con người, lao động trở thành lẽ sống để họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Theo quan điểm của Đảng ta: chủ nghĩa xã hội là một xã hội trong đó nhân dân lao động làm
chủ, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, các dân tộc bình đẳng
giúp đỡ lẫn nhau, có quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới.
Thực tế cho ta thấy, trong quá trình hình thành và phát triển của mình, chủ nghĩa xã hội đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Riêng ở Liên xô “Từ sau cách mạng Tháng mười năm 1987 (cách


mạng tháng Mười tròn 70 năm), nếu so với trước năm 1917 thì tổng thu nhập quốc dân Liên xô
đã tăng 4 lần, sản lượng công nghiệp tăng 5 lần, nông nghiệp tăng 1,7 lần, quỹ tiêu dùng xã hội
tăng 5 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng 2,6 lần. Tốc độ tăng trưởng sản xuất và phát triển
khoa học kỹ thuật trong cùng một thời gian Liên xô đã tăng nhanh hơn Mỹ 10 lần” (theo Nguyễn
Đức Bình- Đảng của V.I. Lênin – Đảng của những công cuộc đổi mới xã hội vĩ đại nhất . Tạp chí
cộng sản số 11/1987) .
Vậy chủ nghĩa xã hội đã có những thành tựu thật đáng tự hào trên tất cả các lĩnh vực: chính trị,
văn hóa, kinh tế –xã hội, khoa học xã hội đã xây dựng được một chế độ cho người lao động, họ
đã thật sự là người làm chủ. Chẳng hạn về kinh tế 1985 các nước xã hội chủ nghĩa chiếm 43%
kinh tế toàn thế giới, năng suất lao động dần dần cân bằng với các nước công nghiệp, quân sự tạo
được thế cân bằng, mức sống của nhân dân được nâng lên.
Thế nhưng, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở các nước Đông Aâu và Liên xô. Nguyên nhân là bắt
nguồn từ những sai lầm về chính trị: trong một thời gian dài nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ là
hình thức, dân chủ bị cắt xén, thậm chí có lúc giả dối, đảng chưa làm tròn vai trò của người chiến
sĩ tiên phong, tư duy giáo điều, lý luận yếu kém, lạc hậu, bộ máy nhà nước cồng kềnh, lẫn lộn
chức năng lãnh đạo đảng và sự quản lý của nhà nước , chức năng kiểm tra đảng không rõ ràng.
Về nhà nước: chưa thể hiện đúng là một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Về kinh tế: các nước
xã hội chủ nghĩa không thực hiện đúng, đầy đủ bản chất những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-
Lênin mà thực hiện một cách giáo điều, máy móc. Khi tiến hành tập thể hóa, quốc hữu hóa về tư
liệu sản xuất lại đưa tất cả tư liệu sản xuất tập thể hóa vào quốc hữu hóa với biện pháp thực hiện
thì ép buộc, cưỡng bức thực hiện theo chỉ tiêu.
Sản xuất hàng hóa không được nhận thức đầy đủ mà lại cho rằng chủ nghĩa xã hội phải được
xây dựng trên cơ sở một nền kinh tế phi sản xuất hàng hóa, làm kìm hãm trong sản xuất làm đời
sống nhân dân thấp, niềm tin về chủ nghĩa xã hội của nhân dân giảm sút.
Phân phối không theo lao động mà theo cấp bậc và chủ nghĩa bình quân… Trong quan hệ kinh
tế đối ngoại giữa các nước xã hội chủ nghĩa với nhau là quan hệ một chiều, tâm lý dựa dẫm, ỷ
lại .Trong một thời gian dài chủ nghĩa xã hội tự thỏa mãn với chính mình, không quan hệ kinh tế
với các nước khác. Chính những nguyên nhân trên đây mà chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở các
nước Đông Aâu và Liên xô. Nhưng khi hệ thống xã hội chủ nghĩa đó sụp đổ đã tạo nên làn sóng
chống chủ nghĩa xã hội và xét lại các giá trị của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và các học

thuyết Mác-Lênin.
Xét cả tiến trình phát triển của xã hội loài người, từ lý luận của Mác-Lênin và tình hình cách
mạng thế giới, Đảng ta vẫn khẳng định: “Sau những biến cố… nét mới”.
Nghiên cứu thực tiễn của cách mạng thế giới hiện nay một cách khoa học và biện chứng chúng
ta thấy rằng quan điểm của Đảng ta hoàn toàn đúng đắn.
Trước hết chúng ta thấy rằng thời đại ngày nay là thời đại bắt đầu từ sau cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười, loài người bắt đầu bước vào hình thái kinh tế xã hội thứ 5: xóa bỏ chủ nghĩa
tư bản, thiết lập xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Quan điểm của Đảng ta về thời đại, ngoài sự thống nhất những quan điểm trên của chủ nghĩa
Mác-Lênin về thời đại, Đảng ta còn bổ sung thêm:
Đảng ta nêu rõ: hiện nay trong nội bộ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện một mâu thuẫn mới đó
là mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa phátơc1 tư bản chủ nghĩa chậm phát triển. Từ đó
Đảng ta đã kết luận: thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng vĩ đại ở nước Nga 1917 là thời đại đấu
tranh cho thắng lợi của hòa bình –độc lập dân tộc –dân chủ và chủ nghĩa xã hội, gắn liền với cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề vật chất –kỹ thuật, xã hội ngày
càng đầy đủ cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta nêu ra đặc điểm và xu thế của thời đại: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là thời đại đan xen giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội sẽ
ngày càng mạnh hơn và mở rộng từ một ra nhiều nước, còn chủ nghĩa tư bản thì ngày càng suy
yếu và thu hẹp . Đó là xu thế chung có tính quy luật xuyên suốt thời đại.
Tại Đại hội lần thứ VIII (tháng 6/1996) Đảng ta lại tiếp tục bổ sung: “Chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên xô và Đông Aâu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm với thế thoái trào nhưng điều
đó không làm thay đổi tinh chất thời đại, loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội, những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển có mặt
sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới”.
Như vậy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Aâu và Liên xô: thành quả sự lựa chọn của
tương lai và trí tuệ của nhân loại là một bước lùi đầy bi kịch của lịch sử, nhưng lịch sử được tính
bằng trăm năm chứ không phải bằng chục năm. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong thời đại ngày

nay không hề chết. Một xã hội bình đẳng, không có áp bức, một con đường phát triển không
bằng cách tước đoạt vẫn là sự lựa chọn của phần đông nhân loại. Dĩ nhiên mục tiêu vĩ đại ấy
không thể dễ dàng và nhanh chóng được thực hiện, xây dựng xã hội mới phải trải qua quá trình
khó khăn phức tạp, nên việc mắc những sai lầm là tất yếu. Sự thay đổi chế độ chính trị nước này
hay nước khác không đồng nghĩa với sự thất bại của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử không
bao giờ dừng lại, nghĩa là nó sẽ tiếp tục phát triển để đạt đến tư tưởng của loài người về xây dựng
một xã hội công bằng, văn minh vẫn là tư tưởng dẫn đường cho thời đại. Tuy vậy, phải giải quyết
những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển có mặt sâu sắc hơn, nội dung và
hình thức biểu hiện có nhiều nét mới, cụ thể đó là:
Mâu thuẫn cơ bản nhất đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn
này xuyên suốt thời đại. Trước đây giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là đối đầu nhưng
nay có những nét mới về nội dung và hình thức, sự chuyển hóa ấy thành ba dạng cụ thể:
Tiến hành diễn biến hòa bình và đấu tranh chống diễn biến hòa bình.
Hiện nay Mỹ đang thực hiện chiến lược toàn cầu “Vượt trên ngăn chặn ” để thay thế cho chiến
lược ngăn chặn trước đây, thực chất là chiến lược mạnh bạo hơn tất cả các chiến lược trước đây
của Mỹ, nhưng biện pháp sử dụng một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn và tế nhị hơn. Trong giản
đơn hiện nay Mỹ đang thực hiện đối với khu vực châu Á- Thái bình dương: cụ thể: trong quan hệ
với TQ một mặt Mỹ ủng hộ và quan hệ hợp tác với TQ, mặt khác Mỹ tìm cách kiềm chế, không
muốn TQ mạnh lên.
Trong quan hệ với Việt Nam: Mỹ tìm cách để xóa bỏ chế độ chính trị ở Việt Nam, nhưng mặt
khác vì lợi ích chiến lược lâu dài Mỹ phải quan hệ với Việt Nam. Đầu tư vào Việt Nam từ 1,2 tỷ
đến 1,3 tỷ USD nhưng Mỹ lại gây sức ép với ta nhiều vấn đề vô lý: vấn đề nhân quyền, vấn đề
bình thường hóa quan hệ thương mại…
Mỹ cho rằng với chính sách đầu tư kinh tế dần dần sẽ làm thay đổi được tư tưởng chính trị của
tầng lớp thanh niên thích cuộc sống vật chất và khi đó mới tiến hành âm mưu lật đổ của mình.
Thứ hai: hành động lật đổ và đấu tranh chống hành động lật đổ:
Thứ ba : áp đặt can thiệp và đấu tranh chống áp đặt và can thiệp từ bên ngoài.
Ví dụ: dự luật H.R2431 của Mỹ (hạ nghị viện) đưa ra 36 nước cần trừng phạt, trong đó có Việt
Nam (dựa trên vấn đề về tôn giáo, nhân quyền). Ta đã kịch liệt phản đối buộc Mỹ không tiến
hành thực hiện dự luật này.

Các nước phương tây (nhất là Mỹ) lợi dụng những người Việt phản động ở nước ngoài để lập
các tổ chức phản động nhiều lần xâm phạm, gây rối nước ta. Mỹ trong điều kiện để bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam, có ép ta thả những tên phản động đội lốt thầy chùa ở Huế, sự kiện
Tây Nguyên…
Mâu thuẫn thứ hai: đó là mâu thuẫn giữa công nhân và chủ nghĩa tư bản. Trước đây là bóc lột
sức lao động, hiện nay vẫn bóc lột nhưng tinh vi hơn, bằng cách điều chỉnh các chính sách xã hội,
chính sách bán chịu trả dần. Lợi dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ để bóc lột cao hơn,
tinh vi hơn.
Mâu thuẫn thứ ba: đó là mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và các nước độc lập dân tộc chuyển
thành mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước tư bản đang phát triển. Chúng bóc
lột tinh vi hơn, đó là chính sách siêu công nghiệp thực dân kiêu mới, thông qua hợp tác, đầu tư,
hợp tác dây chuyền sản xuất. Có độc lập chủ quyền nhưng vẫn bị bóc lột. Ví dụ ở Việt Nam
trong các khu chế xuất sự bóc lột êm dịu tinh vi, giá nhân công rẻ mạt, nhưng so với mức sống ở
Việt Nam thì ban đầu có thể chấp nhận được. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta có qui định mới về
tiền lương để đảm bảo quyền lợi cho người lao động Việt Nam.
Mâu thuẫn thứ tư: đó là mâu thuẫn giữa các nước tư bản là lợi ích và tranh giành, ảnh hưởng ví
dụ giữa Mỹ và Nhật Bản tranh về thương mại, ô tô. Mỹ và các nước Tây Aâu về nông sản, hải
sản. Chủ nghĩa tư bản chông chủ nghĩa tư bản, mặc dù chúng thống nhất với nhau về việc mâu
thuẫn với chủ nghĩa cộng sản.
Chính những mâu thuẫn cơ bản trên, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những đường lối và chủ
trương đổi mới kịp thời, đáp ứng được sự phát triển của đất nước trong tình hình mới, chống
những âm mưu diễn biến hòa bình của Mỹ, đẩy lùi từng bước và thắng lợi những âm mưu lật đổ,
âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ để đất nước ta ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế,
đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trên cơ sở Đảng ta đã nêu lên được những đặc điểm của tình hình thế giới:
- Sau những biến cố chính trị ở Liên xô và Đông Aâu, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thế
thoái trào nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người đang trong thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,
xung đột sắc tộc, tôn giáo vẫn đang diễn ra nhiều nơi. Ví dụ xung đột giữa Palestin và Ixraen.

- Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển ở trình độ ngày càng cao vừa tạo thời cơ
vừa tạo ra những thách thức đối với các nước nghèo, các nước chậm phát triển trên thế giới.
- Hiện nay có nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu đang đặt ra, đòi hỏi nhân loại phải giải quyết
như đói nghèo, bệnh tật, môi trường…
- Khu vực châu Á-TBD-ĐNA đang phát triển năng động và tiếp tục phát triển với tốc độ cao,
đồng thời cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định (trong đó có Việt Nam).
Chính những đặc điểm về thời đại, những mâu thuẫn cơ bản trên mà chúng ta thấy hiện nay:
các nước tư bản, đứng đầu là Mỹ đã thi hành hàng loạt chính sách để hòng làm bá chủ thế giới:
Đối với các nước đồng minh: vừa liên hiệp, vừa hạn chế, đối với các nước cộng hòa (Liên xô
cũ) tìm mọi cách biến hóa, lôi kéo các nhà lãnh đạo thành người bạn chân thành của Mỹ.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại: thừa thắng lấn tới, tiếp cận chuyển hóa (Việt Nam,
TQ, Cuba…).
Tóm lại, qua phân tích trên chúng ta thấy rằng những đặc điểm, tính chất và mâu thuẫn của thời
đại là những nhân tố tạo điều kiện, thời cơ và thách thức để cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa, các
nước xã hội chủ nghĩa phát triển theo đúng quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người
CÂU 2: Đồng chí hãy làm rõ nội dung, đặc điểm xu thế và những mâu thuẫn của thời
đại trong giai đoạn hiện nay
BÀI LÀM

Sau những biến cố CT ở LX và Đông Âu CNXH tạm thời lâm vào thoái trào. Đây là một
biến cố to lớn tác động sâu sắc đến tình hình thế giới hiện nay và nhiều năm tới, đồng thời
cũng tác động đến nhận thức của nhân loại về thời đại ngày nay. Để hiểu đúng hơn về thời
đại ngày nay cần làm rõ đặc điểm, nội dung, xu thế và những mâu thuẫn của thời đại trong
giai đoạn hiện nay
Đánh giá tình hình thế giới ĐH khẳng định: tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng phức
tạp và chứa đựng những nhân tố khó lường, cụ thể nổi lên 5 điểm về tình hình thế giới như
sau:
-“Chế độ XHCN ở LX và các nước đông âu sụp đổ khiến CNXH lâm vào thoái trào nhưng
điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người vẫn trong thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển có mặt sâu sắc

hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới đấu tranh dân tộc và đấu tranh GC tiếp
tục diễn ra dưới nhiều hình thức”
- Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục
bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,
khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
- CM khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ ngày càng cao, LLSX tăng nhanh
đồng thời thúc đẩy quá trình chuẩn dịch cơ cấu KT thế giới, quốc tế hóa nền SX và đời sống
xã hội. Các nước đều đứng trước cơ hội để phát triển nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ…
thuộc về các nước TB phát triển và các công ty đa quốc gia, cho nên các nước chậm phát
triển và đang phát triển đứng trước những thách thức to lớn. Chênh lệch giàu nghèo giữa các
nước ngày càng mở rộng. Cuộc cạnh tranh KT, thương mại, KHCN diễn ra gay gắt
- Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế
bùng nổ dân số, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh hạt nhân…), không một quốc gia riêng lẻ nào
có thể tự giải quyết mà không cần phải có sự có sự hợp tác của đa phương. Nguyên nhân và
trách nhiệm thuộc về các nước phát triển còn hậu quả thuộc về các nước nghèo.
- Khu vực châu Á- TBD đang phát triển năng động và tiếp tục phát triển với tốc độ cao.
Đồng thời khu vực này cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây ra mất ổn định. Đánh giá triển
vọng tình hình thế giới trong thế kỷ 21 đảng ta nêu rõ: thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi,
KHCN có bước nhảy vọt, kinh tế trí thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển LLSX, toàn cầu hóa KT là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác
nhau, tồn tại và phát triển có mặt sâu sắc hơn, đấu tranh dân tộc và đấu tranh GC vẫn tiếp tục
diễn ra gay gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ
nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương. CNTB hiện đại đang nắm ưu thế
về vốn, KHCN, song không thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa tính chất XH hóa ngày càng cao của LLSX với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất; mâu thuẫn giữa các nước TB phát triển và các nước đang phát triển, các dân tộc
ngày càng tăng cường các cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển
của mình, CNXH trên từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự
thức tỉnh của các dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra những bước phát triển mới, theo

quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, nhưng chiến tranh cục
bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật
đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi và tính chất phức tạp ngày càng tăng. Hòa bình hợp tác
phát triển là xu thế lớn, phản ảnh đòi hỡi bức xúc của các quốc gia dân tộc, cuộc đấu tranh vì
hòa bình, được lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng XHcó những bước tiến
mới ở khu vực Đông nam á-châu á-TBD sau khủng hoảng tài chính tiền tệ có khả năng phát
triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định
Từ đặc điểm của tình hình thế giới nêu trên, VK ĐH lần thứ 8 của ĐCSVN chỉ rõ, 5 xu thế
chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay:
Hòa bình ổn định hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc
và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho phát triển KT, coi phát triển kinh tế có ý
nghĩa đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Đây là xu thế lớn nhất, chủ
đạo nhất đối với quan hệ quốc tế hiện nay. Nó tác động mạnh đến mọi quan hệ quốc tế hiện
nay dù ý thức quan hệ có đối đầu với nhau, nhưng khi mở rộng quan hệ KT sẵn sàng xếp sự
đối đầu vào thứ yếu (QH Việt-Mỹ)
Các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực và
quan hệ hợp tác ngày càng tăng, nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt: EU, ASEAN, APEC,
NAFTA
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt
can thiệp từ bên ngoài bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc.
Các nước XHCN, các Đảng cộng sản, GC công nhân và các lực lượng tiến bộ trên thế giới
vẫn kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ XH
Các nước có chế độ chính trị XH khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa
bình, đây là một xu thế rất lớn và rất mới thể hiện rõ tính chất gay go phức tạp của cuộc đấu
tranh GC không phân tuyến, trong giai đoạn hiện nay. ĐH IX của đảng khẳng định hòa bình,
hợp tác và phát triển là xu thế lớn phản ánh đòi hỡi bức xúc của tất cả các quốc gia dân tộc.
Những chuyển biến của tình hình thế giới đã có những ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức về
thời đại ngày nay, đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức đúng đắn và khoa học về vấn đề thời
đại, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tương đối thống nhất cho rằng: thời đại là khái

niệm để phân kỳ lịch sử xã hội, để phân biệt những nấc thang phát triển khác nhau của XH
loài người theo những tiêu chuẩn nhất định được đánh dấu bằng những mốc lịch sử, nó làm
thay đổi nhịp điệu và phương thức sống của XH loài người. Theo đó thời đại thực tế là thời
kỳ lịch sử tương đối dài với những đặc trưng riêng biệt được hình thành bởi những yếu tố
khách quan nhất định. Những người theo CN Mác - Lenin lấy học thuyết về hình thái KT-
XH làm cơ sở để phân chia thời đại. Từ đó khẳng định, loài người đã trải qua 4 hình thái
KTXH: CSNT, nô lệ, PK, TBCN và loài người đang đi tới hình thái KTXH CSCN. Đồng
thời khẳng định thời đại ngày nay, thời đại chúng ta sống là thời đại mới được bắt đầu từ sau
CM tháng mười Nga. Theo lê-nin nội dung của thời đại mới là xóa bỏ chủ nghĩa TB đồng
thời phải thiết lập những cơ sở của xã hội-XHCN và CSCN thời đại ngày nay là thời đại quá
độ loài người đang loại bỏ CNTB để tiến lên chế độ XH tốt đẹp hơn, giải phóng lao động,
tránh khởi những cuộc chiến tranh đế quốc, mọi người sống trong hòa bình, là thời đại giai
cấp VS trở thành GC thống trị, đứng ở vị tr1 trung tâm của thời đại, quyết định sự vận độâng
của lịch sử
Hội nghị của ĐCS và GC công nhân 1957-1958 ờ mátxcơva nhận định: thời đại ngày nay là
thời đại quá độ từ CNTB lên CNXHtrên phạm vi toàn thế giới, là thời đại đấu tranh giữa 2 hệ
thống XH đối lập, là thời đại giải phóng dân tộc và CM XHCN, là thời đại chủ nghĩa đế quốc
bị sụp đổ, bị thủ tiêu, là thời đại nhiều nước đi lên CNXH, là thời đại của CNXH, CNCS trên
phạm vi toàn thế giới
Đảng ta đã đồng nhất và thống nhất với quan điểm của CN Mác-Lênin về thời đại và thời
đại ngày nay. Sau 1991 trước sự thay đổi to lớn của tình hình thế giới Đảng ta đã đánh giá và
bổ sung về sự thay đổi đó như sau: thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng cuộc CM tháng 10 Nga vĩ đại, là thời đấu tranh cho
thắng lợi, cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH gắn liền với cuộc CM khoa
học và CN hiện đại tạo ra những tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc
tiến lên CNXH
Thời đại quá độ lên CNXH là thời đại đan xen giữa CNXH và CNTB. CNXh sẽ ngày càng
mạnh mẽ hơn và mở rộng từ một nước ra nhiều nước, còn CNTB ngày suy yếu và thu hẹp.
Đó là xu thế chung có tính chất quy luật xuyên suốt thời đại. VK ĐH 9 khẳng định: CNXH
trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại, cũng như từ sự khát vọng và thúc tỉnh

của các dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra những bước phát triển mới, theo quy luật tiến
hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa XH
Trong thời đại ngày nay, Đảng ta khẳng định vẫn còn tồn tại phát triển và có mặt sâu sắc
hơn nội dung hình thức có nhiều nét mới với 4 mâu thuẫn cơ bản sau:
- Mâu thuẫn giữa CNTB và CNXH đây là mâu thuẫn cơ bản nhất bao trùm nhất và xuyên
suốt nhất trong thời đại ngày nay, dù hệ thống XHCN ở LX và Đông âu đã bị sụp đổ nhưng
mâu thuẫn này vẫn còn, Cuba bị bao vây cấm vận; Việt Nam, Trung Quốc các thế lực thù
địch không muốn ĐCS lãnh đạo, không muốn ta xây dựng thành công CNXH, cuộc đấu
tranh ý thức hệ tư tưởng XHCN-TBCN vẫn sôi động trước sự mất uy tín của CNTB và trước
mưa đồ của CN đế quốc không để CNXH ở LX và đông âu phục hồi và ngăn các nước khác
đi vào CNXH trước hết là các nước XHCN đang tồn tại. Tuy nhiên mâu thuẫn này về nội
dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Thể hiện trước đây từ đầu nay chuyển sang đối
thoại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình, sẵn sàng chuyển đối đầu, bất đồng
sang thứ yếu để cùng hợp tác phát triển
- Mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc với độc lập dân tộc vẫn đang phát triển sâu sắc
(mâu thuẫn giữa CN đế quốc với các nước đang phát triển), thế giới lên án gay gắt các nước
TB bóc lột các nước nghèo, đòi phải xóa nợ cho các nước nghèo. Việc cấm vận Irắc, nam tư
gây thiệt hại lớn. Các dân tộc hiện nay tập hợp lại đấu tranh chống cường quyền áp đặt, đây
là cuộc đấu tranh rất quyết liệt
- Mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau thể hiện 2 mặt: thống nhất với nhau về chống
CNXH-CNCS, mặt khác mâu thuẫn với nhau về quyền lợi, ảnh hưởng, thị trường. Mâu thuẫn
này còn hết sức phức tạp thể hiện ở chiến tranh thương mại, chống sự áp đặt của Mỹ…
Vedrin bộ trưởng ngoại giao Pháp: là bạn đồng minh, nhưng Pháp không chấp nhận phải
đứng sau Mỹ
- Mâu thuẫn giữa CNTB với nhân dân lao động ở các nước TB vẫn tồn tại và phát triển,
mặc dù GC TS tìm mọi cách để xoa dịu cuộc đấu tranh của GC công nhân: mua chuộc một
bộ phận công nhân, trí thức, bán cổ phần, tuyên truyền tính ưu việt của CNTB… nhưng về
căn bản GC TS không thể giải quyết được mâu thuẫn vốn có của nó giữa TB và lao động,
giữa tính chất XH hóa rất cao của LLSX và chế độ sở hữu tư nhân TBCN
Chính sự vận động của các mâu thuẫn đó cùng với sự đấu tranh không mệt mỏi của GC

công nhân và nhân dân lao động trên thế giới sẽ quyết định số phận của GC tư sản. Vì thế,
trong hoàn cảnh phức tạp của tình hình thế giới hiện nay việc nhận thức đúng đắn về vấn đề
thời đại là rất quan trọng và cần thiết, nó giúp cho GC công nhân và nhân dân lao động, các
Đảng cộng sản và phong trào CM trên thế giới thoát ra khỏi tình trạng hoang mang dao động,
mất phương hướng. Từ đó có thể đề ra đường lối chiến lược sách lược, phương pháp đấu
tranh CM nhằm đem lại hòa bình dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH trên phạm vi toàn thế giới./.
CÂU 3

: Trong cương lĩnh xây dựng XHCN trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở
nước ta có nêu: “CNXH hiện đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Lịch sử
thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định
sẽ tiến tới CNXH vì đó là qui luật tiến hoá của lịch sử”.
Hãy làm rõ luận điểm trên.
BÀI LÀM
CNXH hiện thực ra đời là một tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người. Đây là sự biểu hiện, sự vận động không ngừng tiến lên của lịch sử, đó là sự phát
triển kế tiếp nhau của các PTSX, các chế độ xã hội và chế độ xã hội ra đời sau bao giờ
cũng tiến bộ hơn xã hội trước đó. Chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nghiên
cứu những ĐK tiền đề cho sự ra đời một xã hội mới – XHCN và sứ mệnh đó phải do giai
cấp vô sản thực hiện trên cơ sở phát động phong trào cách mạng nhằm lật đổ CNTB.
Điều đó đã trở thành hiện thực bằng cuộc CMT.10 Nga, 1917 xây dựng nên CNXH đầu
tiên trong lịch sử. Nhà nước đó không những là mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản
mà còn là ước mơ nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động, vì đó là chế độ không
có áp bức, bóc lột, con người được tự do, bình đẳng có cuộc sống ấm no hạnh phúc và có
nền dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản trước đó.
Các nhà kinh điển còn dự đoán thiên tài về một xã hội tương lai, xã hội CSCN. Đó là
một xã hội mà trong đó mọi sự áp, bóc lột, bất công đều bị xoá bỏ. Con người được hoàn
toàn tự do và bình đẳng, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc. Trên thực tế của lịch sử
ngay từ khi mới ra đời, giai cấp vô sản đã bắt đầu thể hiện lý tưởng đó bằng những cuộc
đấu tranh tự phát đầu tiên của giai cấp mình. Trãi qua những bước thăng trầm, thành công

và thất bại, giai cấp vô sản không ngừng trưởng thành về số lượng và chất lượng. Phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp tiến tới
lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, xây dựng xã hội mới, mở
đầu bằng sự thắng lợi của cuộc CMT.10 Nga, 1917 đưa đến việc thiết lập một nhà nước
XHCN đầu tiên trong lịch sử loài người. Thắng lợi đó đã thúc đẩy lịch sử phát triển lên
một bước mới, mở ra thời đại mới trong lịch sử toàn thế giới. Đó cũng là thành quả vĩ
đại, là sản phẩm trực tiếp của phong trào cộng sản và CN quốc tế.
CMVN là một bộ phận không thể tách rời phong trào CM thế giới. Đảng CSVN là một
bộ phận của phong trào cộng sản và CN quốc tế, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và chủ nghĩa yêu nước ở một số nước thuộc địa
nửa phong kiến đã nắm được qui luật phát triển tất yếu của lịch sử đưa đất nước vào quĩ
đạo phát triển chung của lịch sử nhân loại. Ngay từ khi mới ra đời đã xác định con đường
đi lên của CMVN là tiến tới CNXH. Vì đây là con đường duy nhất đúng đắn và phù hợp
với qui luật phát triển tất yếu của xã hội loài người.
Từ nước Nga XHCN đầu tiên đã trở thành một hệ thống XHCN trên thế giới phải trải
qua một quá trình phát triển như sau:
Từ tháng 10/ 1917 – 1960, đây là giai đoạn tạo tiền đề và đưa đến sự hình thành hệ
thống XHCN thế giới, bằng việc Liên Xô đánh tan chủ nghĩa Phát xít trong chiến tranh
thế giới lần 2 để giúp cho hàng loạt nước tiến lên CNXH. Các nước CNXH đã thiết lập
hai tổ chức: HĐTTKT (1949) và khối quân sự Vacsava (1955), điều đó XHCN trở thành
một hệ thống thế giới nói lên sức mạnh vật chất của CNXH đủ sức đương đầu với CNTB.
Tuy nhiên, giai đoạn này CNXH cũng gặp một số khó khăn: CNĐQ gây ra chiến tranh
lạnh, bao vây kinh tế, cấm vận đối với các nước XHCN. Đồng thời, CN Cơ Hội phá hoại
gây bạo loạn ở Hungari, 1956 và Nam Tư bị khai trừ ra khỏi hệ thống XHCN, 1948.
Giai đoạn những năm 1960: Là giai đoạn phát triển mới của CNXH, thể hiện sự hợp tác
giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước XHCN nhằm đẩy nhanh việc xây dựng cơ sở vật chất
kinh tế cho CNXH. Tuy nhiên, việc giúp đỡ ở đây do Liên Xô hoàn toàn gánh vác, gây
tâm lý dựa dẫm, giáo điều, phụ thuộc vào Liên Xô. Giai đoạn này, Mỹ ra sức chống phá
Cuba bằng việc đổ quân lên đảo Hêrôn (Tháng 4/ 1961), Liên Xô đưa tên lửa vào Cuba
gây sự khủng hoảng tên lửa 1962 giữa Mỹ – Xô và Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc Việt

Nam.
Mặt khác CN Cơ Hội phá hoại với việc xuất hiện chủ nghĩa xét lại hiện đại:
Khơrôxếp làm phân hoá Đảng CS Liên Xô và phong trào cộng sản và CN quốc tế. CN
Mao ảnh hưởng nghiêm trọng trong giai đoạn này, Đảng CS Trung Quốc công khai
chống “đế quốc xã hội Liên Xô” và CN Cơ Hội gây bạo loạn ở Tiệp Khắc, 1968.
Giai đoạn những năm 1970: Là giai đoạn củng cố sức mạnh của CNXH với tiềm lực
kinh tế, khoa học kỹ thuật quốc phòng lớn mạnh tạo sự cân bằng chắc chắn về vũ khí
chiến lược và cùng chạy đua vũ trang với CNTB thế giới.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này CNXH cũng gặp khó khăn do sự cấu kết Trung – Mỹ thể
hiện ở thông cáo Thượng Hải, 1972. Trung Quốc bán đứng CMVN cho Mỹ, Mỹ đánh phá
miền Bắc VN, 1972. Năm 1978, Trung Quốc xâm lược VN, ủng hộ Polpot chống VN.
Từ những năm 1980 đến nay: Sau giai đoạn phát triển mạnh mẽ, kinh tế các nước
XHCN bắt đầu chựng lại, trì trệ cần phải cải tộ cải cách đổi mới, nhưng khi đổi mới, cải
cách mỗi nước làm một kiểu và có nhiều biến động, có nước đạt kết quả, có nước bị thất
bại. Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, Trung Quốc, Việt Nam đứng vững và tiếp tục phát triển.
Tuy vậy, trong suốt thời gian qua, CNXH đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã xác lập được một chế độ xã hội của người lao
động, nâng người lao động từ địa vị nô lệ lên làm chủ xã hội, họ là người trực tiếp tham
gia sản xuất và quản lý xã hội. Họ được tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ, phát
huy tài năng. Mặt khác, dù gặp muôn vàn khó khăn nhưng CNXH đã đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật và quân sự đã trở thành thành trì
của hoà bình, là chỗ dựa tinh thần của giai cấp công nhân ở các nước TBCN trong cuộc
đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những tựu cơ bản mà CNXH đã đạt được trong quá trình phát triển
của mình, các nước XHCN đã phạm những sai lầm nghiêm trọng đã đẩy CNXH thế giới
lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện. Đó là duy trì quá lâu mô hình cũ làm cho
tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, sản xuất bị trì trệ, nền dân chủ bị vi phạm, những vấn
đề xã hội trở nên căng thẳng, các giá trị xã hội bị xáo trộn, kỷ cương pháp luật không
nghiêm.
Về chính trị: Trong thời gian dài không thực hiện đúng, đầy đủ bản chất của nền dân

chủ XHCH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin mà thực hiện nền dân chủ hình
thức, cắt xén, thậm chí giả dối. Tổ chức Đảng chưa làm tròn vai trò của người chiến sĩ
tiên phong, tư duy giáo điều lạc hậu, yếu kém về lý luận. Một đố đảng cầm quyền đã biến
bộ máy của đảng thành một bộ máy quan liêu, cồng kềnh kém hiệu quả. Đội ngũ cán bộ
được đào tạo phiến diện, chắp vá, và một bộ phận thiếu gương mẫu, năng lực yếu. Mặt
khác, do bè lũ cơ hội xét lại phá hoại đảng, còn nhà nước chưa thực hiện đúng là nhà
nước của dân, do dân và vì dân mà nhà nước mất dân chủ đối với nhân dân lao động.
Về kinh tế: Duy trì quá lâu mô hình XHCN theo kiểu Liên Xô, cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp đã bộc lộ tính lỗi thời, trong thời gian đầu chưa chú trọng đúng mức, các
ngành khoa học ứng dụng và đội ngũ trí thức không thực hiện đúng và đủ bản chất
nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin về chế độ sở hữu với hình thức CNXH, không nhận
thức đầy đủ về sản xuất hàng hoá, phân phối theo kiểu cấp bậc, bình quân, quan hệ sản
xuất giữa các XHCN theo kiểu một chiều biệt lập đóng cửa với nền kinh tế thế giới,
không tiếp thu được những thành tựu của cách mạng KHKT hiện đại, đi ngược lại với xu
thế quốc tế hoá, toàn cầu hoà nền kinh tế thế giới làm cho kinh tế các nước XHCN không
phát triển được.
Những sai lầm trên tích tụ lâu ngày, chậm phát hiện sửa chữa. Khi phát hiện sửa chữa
cải cách thì lại quá xa rời nguyên tắc Mác xít cộng với sự chống phá của các thế lực thù
địch phản động làm cho các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu làm cho CNXH đang ở vào giai đoạn khó khăn nhất
từ trước tới nay, CNXH lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng mà theo quan điểm
của Đảng ta là: CNXH tạm thời lâm vào thoái trào đã làm cho thành trì hoà bình trên thế
giới bị suy yếu, các nước độc lập dân tộc tỏ ra mất phương hướng, cục diện thế giới diễn
biến phức tạp nghiêng về lợi thế cho CNTB. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
đã khủng hoảng cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, uy tín của các Đảng CS giảm sút, nhiều
Đảng CS dao động muốn rời bỏ ý thức hệ giai cấp công nhân chuyển sang XHDC, nội bộ
tự phân hoá chia rẽ.
Tuy nhiên, gần đây có xu hướng phục hồi quan trọng.
Sự sụp đổ này không thuộc về bản chất của CNXH KH mà là sự khủng hoảng của một
mô hình xã hội, cụ thể mô hình đó đã chứa đựng những biểu hiện của xã hội không

tưởng, chủ quan duy ý chí, bất chấp qui luật khách quan chậm được phát hiện khắc phục
trong quá trình xây dựng CNXH. Bởi vì bên cạnh sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu
cũng đã có những nước XHCN cải cách đổi mới giành được những thành tựu bước đầu
quan trọng: Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới theo xu hướng XHCN.
Ngay cả ở các nước XHCN trước đây đã sụp đổ nay nhân dân đã thức tỉnh, tiếc nuối cho
CNXH và ngày càng tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh mới, nhiều Đảng CS trở lại vai
trò lãnh đạo: Bungari, Mông Cổ, Ba Lan … Cả một số quan chức lãnh đạo ở Mỹ cũng đã
thừa nhận hiện nay có gần 20 quốc gia theo xu hướng XHCN và chủ nghĩa Mác – Lênin
vẫn còn sức sống cao ở nhiều trường đại học Mỹ. Hơn nữa, ý thức đông đảo nhân dân các
nước kể cả các nước tư bản phát triển cũng ngày càng không thể chấp nhận những bất
công, những tệ nạn xã hội độc ác, đồi truỵ do CNTB hiện đại gây ra.
Bên cạnh đó, theo qui luật quan hệ xã hội phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Mặc dù, CNTB ngày nay có ưu thế về vốn công nghệ còn
khả năng phát triển và có sự vượt trước nhưng bản thân nó không thể giải quyết được
mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó.
Với tính chất xã hội hoá lực lượng sản xuất ngày càng cao với chế độ sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất và tất yếu. Cuộc CM xã hội sẽ nổ ra lật đổ chế độ TBCN, xây dựng chế
độ XHCN mà sứ mệnh lịch sử đó đặt lên vai giai cấp công nhân. Vì thế đòi hỏi phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế phải phát huy vai trò tiên phong, không ngừng củng
cố cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đoàn kết các Đảng CS anh em kiên trì đấu tranh vì
mục tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập, dân tộc dân chủ và CNXH. Ra sức
chống lại chủ nghĩa Cơ Hội và các thế lực thù địch nhằm bảo vệ, duy trì, củng cố và phát
triển phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong thời điểm lịch sử hiện nay.
Lịch sử luôn vận động theo hướng đi lên, với những qui luật của nó, quá trình vận động
đó rất phong phú và năng động, có khi quanh co, khúc khuỷu. Như CNXH với tính cách
là một xã hội tốt đẹp, là mục đích của nhân loại cần đạt tới, trong quá trình phát triển tuy
có bước quanh co nhưng nhất định sẽ giành được thắng lợi. Đúng như trong văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần VII, Đảng CSVN ghi rõ: “CNXH hiện đang đứng nhiều khó
khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, nhưng loài người
cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là qui luật tiến hoá của lịch sử”.

Suy ra, sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, CNXH tạm thời lâm vào
thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người nhất định
sẽ tiến tới CNXH vì đó là qui luật tiến hoá của lịch sử.
Nhận thức đúng qui luật trên, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định đúng đắn
đường lối tiến lên CNXH ở nước ta vì đó là một xã hội văn minh nhất trong lịch sử đem
lại tương lai tươi sáng cho dân tộc. Ngày nay, với đường lối đổi mới đất nước đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá do Đảng khởi xướng và lãnh đạo tiếp bước trên con đường phát
triển và nhất định sẽ thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam – XHCN./.
Câu 4: Hãy làm rõ tính tất yếu của công cuộc cải tổ đổi mới CNXH nói chung và
ở Việt Nam nói riêng.
BÀI LÀM
Sự ra đời của CNXH hiện thực là phù hợp với sự phát triển của xã hội loài người.
Bởi vì lịch sử xã hội loài người luôn phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện, chế độ xã hội ra đời sau bao giờ cũng cao hơn xã hội ra đời trước.
CNXH còn là sản phẩm trực tiếp của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bởi
vì chủ nghĩa xã hội là mục đích, là lý tưởng để giai cấp vô sản phải đạt tới và là ước mơ
là nguyện vọng của quần chúng nhân dân lao động. Chính vì lý do trên mà giai cấp công
nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình bằng đường lối chiến lược của Đảng đề ra.
Đường lối đó phù hợp với nguyện vọng của QCND nên nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn, sự
ra đời của CNXH hiện thực là tất yếu lịch sử mà không sức mạnh nào có thể ngăn cản
được. Trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, Mác chỉ rõ : “ Sự diệt vong của
chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng Sản đều là tất yếu như nhau”. Các
nhà kinh điển còn dự đoán thiên tài về một xã hội tương lai. Xã hội Cộng sản Chủ Nghĩa
là xã hội mà trong đó có áp bức bóc lột bất công đều bị xoá bỏ, con người được tự do ấm
no, hạnh phúc có cuộc sống công bằng văn minh.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta
lựa chọn là con đường duy nhất và đúng đắn, thực tế đã chứng minh Đảng ta đã lãnh đạo
giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài,
gian khổ và giành được những thắng lợi vĩ đại làm cuộc cách mạng tháng tám thành

công, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng nửa đất nước,
miền Bắc chuyển sang giai đoạn Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa, đồng thời kháng chiến
chống Mỹ giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc cả nước bước vào thế kỷ quyết định
lên CNXH.
Vì sao đi lên CNXH là một tất yếu khách qua. Như mọi người đều biết, việc lực
chọn con đường Cách Mạng Vô Sản, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến tới mục tiêu
chủ nghĩa Xã hội, đã được Bác Hồ nêu trong chánh cương vắn tắt của Đảng: “ làm tư sản
dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới xã hội Cộng Sản”. Sự lựa chọn ấy dựa trên hai căn
cứ chủ yếu: một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp
bức bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân, hai là thắng
lợi của Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa Tháng 10 Nga 1917 đã mở ra thời đại mới, tạo ra
khả năng hiện thực cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường XHCN. Thắng lợi của các
cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược và những thành tựu bước đầu của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, công cuộc đổi mới ở nước ta, chứng tỏ sự định hướng mục
tiêu chủ nghĩa xã hội do Đảng ta từ đầu là đúng đắn.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954, vấn đề bước
vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trở thành lẽ đương nhiên. Xét cả
về lý luận lẫn thực tiễn, cả về tình hình trong nước và hoàn cảnh quốc tế, không những
cho phép mà còn đòi hỏi phải như thế nào? Bởi vì:
Nhân dân lao động nước ta đã từng chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành
lại độc lập dân tộc, mà còn gì cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có
CNXH mới đáp ứng được.
Trong CM dân tộc dân chủ, giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình
là Đảng CS để lãnh đạo cách mạng. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình, Đảng ta phấn đấu
vì lý tưởng XHCN, CSCN. Khi giành được chính quyền, để từng bước thực hiện được
mục đích nói trên, CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng không thể không bước vào thời kỳ quá
độ tiến lên CNXH.
Những năm 1950, Liên Xô đã trở thành một cường quốc, cùng với một loạt nước
XHCN ra đời, tạo thành hệ thống XHCN vững mạnh. Toàn bộ lịch sử cách mạng VN đã

chứng minh rõ qui luật của cách mạng nước ta là độc lập, dân tộc gắn liền với CNXH, chỉ
có đi lên CNXH mới giành và giữ được độc lập, tự do cho dân tộc. Khôngquán triệt sâu
sắc ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH thì không huy động được sức mạnh tổng hợp của
nhân dân trong nước cũng như nhân dân thế giới. Trong quá trình đấu tranh vì độc lập,
dân tộc, không tiến lên CNXH mà đi con đường TBCN có nghĩa là chuyển các thành quả
cách mạng vào tay lực lượng khác có lợi ích đối lập với lợi ích của nhân dân. Không phải
ai khác, chính nhân dân lao động sẽ một lần nữa rơi vào vòng bị áp bức, bóc lột. Đông
đảo nhân dân ta nhất định không chấp nhận điều đó.
Những thành tựu trong lịch sử của CNXH đã đạt được những thành tựu vĩ đại, về
chính trị đã xác lập được xã hội do dân làm chủ, về kinh tế trong quá trình phát triển, mặc
dù gặp nhiều khó khăn thử thách nhưng CNXH cũng đạt được những thành tựu đáng kể.
Liên Xô đi lên CNXH từ nền kinh tế thấp và đã trở thành một cường quốc về văn hoá xã
hội đã nâng dần cuộc sống vật chất cả tinh thần.
Trên thực tế, CNXH đã xác lập được chế độ xã hội của những người lao động, mà
bản chất của nó là vì con người, phục vụ con người. Nhân dân lao động là người trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất và quản lý xã hội. CNXH không ngừng tạo điều kiện cho
người lao động cống hiến trí tuệ, năng lực của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ
chế độ XHCN.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, CNXH vẫn mắc phải sai lầm thiếu sót làm biến
dạng:
Về chính trị: Vấn đề dân chủ trong thời gian dài, CNXH không thực hiện đúng, đầy
đủ bản chất và nền dân chủ theo chủ nghĩa Mac – Lênin mà thực hiện nền dân chủ hình
thức, cắt xén thậm chí giả dối. Đảng trong thời gian vừa qua cũng mắc phải sai lầm trên,
thực tế ở nhiều nước XHCN thời gian qua chưa làm tròn vai trò của người chiến sĩ tiên
phong thể hiện ở chỗ tư duy giáo điều.
Về lý luận: Đã biểu hiện sự lạc hậu, yếu kém, tổ chức bộ máy cồng kềnh hoạt động
kém hiệu quả, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nghị quyết ra nhiều nhưng làm ít, công
tác kiểm tra thiếu kịp thời, xử lý chưa nghiêm minh, thậm chí cấp trên nói, cấp dưới
không nghe. Nhà nước ở các nước XHCN vừa qua chưa thể hiện đúng là nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Nhà nước không điều hành và quản lý bằng pháp luật mà nhà nước

mất dân chủ đối với nhân dân lao động, hoạt động còn chồng chéo trong các cơ quan giữa
hành pháp và lập pháp, lẫn lộn chức năng quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh
doanh, chưa phát huy hết quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tệ tham nhũng, nạn
mất dân chủ còn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều vấn đề gây phiền hà cho nhân dân.
Về kinh tế: Sai lầm trong chế độ sở hữu, thời gian không thực hiện đúng và đầy đủ
những bản chất, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về chế độ sở hữu mà dùng
biện pháp nhà nước ép buộc cưỡng bức chạy theo chỉ tiêu pháp lệnh. Không để cho nhân
dân họ tự quyết định. Chính nguyên nhân này làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
nhân dân, từ đó dẫn đến mất niềm tin với Đảng và nhà nước.
Về sản xuất hàng hoá: Thời gian qua chưa nhận thức đầy đủ về nền sản xuất hàng
hoá mà cho rằng CNXH không có nền sản xuất hàng hoá, đã triệt tiêu động lực sản xuất
dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển.
Về chế độ phân phối cũng mắc phải sai lầm, khuyết điểm không thực hiện phân
phối theo lao động mà thực hiện theo phân phối cấp bậc và kèm theo chủ nghĩa bình
quân.
Về quan hệ kinh tế đối ngoại: Thì chỉ quan hệ một chiều dựa vào sự giúp đỡ một
bên chứ không phải quan hệ đôi bên cùng có lợi, từ đó làm nảy sinh sự trông chờ, ỷ lại và
thực hiện nền kinh tế khép kín, cách biệt với nền kinh tế thế giới, chỉ biết quan hệ trong
các nước XHCN mà thôi, chứ không cần quan hệ với các nước TBCN tức là CNXH đã
ngủ quên trên những biến động của xã hội, say sưa với chiến thắng, thoả mãn với chế độ
XHCN. CNXH đã mắc sai lầm biệt lập, đóng cửa với nền kinh tế thế giới. Do vậy, không
tiếp thu được những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp hiện
đại. Mặt khác, các nước XHCN đóng khung các quan hệ kinh tế giữa các nước XHCN
với nhau đi ngược lại xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, làm cho
nền kinh tế của các nước XHCN không thể phát triển được.
CNXH, trong thời gian dài đã không chú trọng đúng mức tới các ngành khoa học
ứng dụng, chưa sử dụng đúng mức đội ngũ trí thức. Từ đó dẫn đến hậu quả chưa sử dụng
hết tài năng, dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám từ các quốc gia XHCN sang thế giới
TBCN.
Những sai lầm đó tích tụ lâu ngày, chậm được phát hiện, chậm được sửa chữa đã

đưa đến hậu quả nghiêm trọng chưa từng có trong lịch sử phát triển của CNXH. Mặt
khác, CNĐQ lợi dụng sai lầm đó để phản lại công cuộc CNXH, chủ nghĩa Mác – Lênin,
phủ nhận sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người.
Chính những tư tưởng trên, cũng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Do vậy, Đảng ta
chủ trương đổi mới, mở cửa quan hệ với các nước, nhưng phải linh linh động, sáng tạo
phù hợp với tình hình hiện nay.
Tính tất yếu của đổi mới là một tất yếu lịch sử khách quan do quá trình phát triển
của lịch sử xã hội loài người, đòi hỏi CNXH phải tiến hành đổi mới vì đó là sự tồn tại và
phát triển của một xã hội tương lai. Việc đổi mới này, đòi hỏi phải có những hình thức và
bước đi phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử, hướng tới
mục tiêu phát triển của CNXH. Phải thực hiện một cách đầy đủ những bản chất nhân đạo,
dân chủ và văn minh.
Đổi mới là quá trình tìm tòi sáng tạo để vươn lên, đổi mới phải tiến hành trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho các Đảng CS cầm quyền và nhà nước XHCN là phải
mở rộng và phát huy dân chủ tạo điều kiện cho nhân dân phát huy tích cực sáng tạo trong
công cuộc xây dựng CNXH. Muốn vậy, phải cương quyết khắc phục những quan hệ giá
trị đã kiềm hãm sự phát triển kinh tế xã hội, xây dựng mối quan hệ mới trong hệ thống
chính trị. Tăng cường giáo dục lối sống theo phương châm: Sống và làm việc theo hiến
pháp và pháp luật, giữ gìn kỷ cương và trật tự xã hội.
Về kinh tế: Vấn đề hàng đầu của công cuộc đổi mới là sự thay đổi cơ chế quản lý
bằng mệnh lệnh, tập trung, hành chánh bao cấp sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ này phải tiến
hành ở tất cả các khâu của nền kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu. Trong đó sở hữu
nhà nước và tập thể giữ vai trò nền tảng, đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên
tắc bình đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập, tự chủ.
Về xã hội: Phải thật sự quan tâm đến vấn đề con người, con người vừa là mục đích,
vừa là động lực thực hiện công cuộc đổi mới đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, sau nhiều năm tiến hành cải tổ, đổi mới ở các nước XHCN đưa đến kết
quả không giống nhau. Một số nước càng lún sâu vào khủng hoảng và đi đến tan rã

CNXH như: Liên Xô và các nước Đông Âu, do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân
xa rời các nguyên tắc Mác xít Lênin nít về định hướng, mục tiêu và bước đi. Một số nước
khác đã tiến hành công cuộc cải tổ, đổi mới dành được những thành tựu bước đầu quan
trọng như: Trung Quốc, Việt Nam …
Qua những thành công và thất bại trong cải tổ, đổi mới CNXH đã giúp cho các
Đảng CS rút ra được những bài học kinh nghiệm để tiếp tục quá trình cải tố, đổi mới
CNXH giành thắng lợi.
Thứ nhất là bài học về giữ vững mục tiêu dân tộc và CNXH trong quá trình đổi
mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới.
Thứ ba, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo hướng XHCN. Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Thứ tư, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của
cả dân tộc.
Thứ năm, mở rộng hợp tác quốc tế tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của
nhân dân thế giới, kết hợp với sức mạnh của cả dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Thứ sáu, Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt.
Từ những thành tựu đã đạt được và những thiếu sót trong quá trình đổi mới, đồng
thời bám sát thực tiễn, Đảng ta đã tổng kết chặng đường qua 15 năm đổi mới đã rút ra bài
học kinh nghiệm sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên
nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn
thử thách, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên
định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn, phát huy những
truyền thống quí báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được giữ vững

độc lập dân tộc, vững bước đi lên CNXH.
Hai là, đổi mới phải dựa vào dân vì lợi ích của dân, phù hợp với thực tiễn luôn luôn
sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội VN, tham
khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào, đổi
mới toàn diện đồng bộ và triệt để với những bước đi hình thức và cách làm phù hợp. Có
những điều chỉnh bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp
linh hoạt sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ làm
chuyển biến tình hình.
Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mỗi lĩnh vực tạo ra nhiều điển hình tiên
tiến, kinh nghiệm hay và nhân tố mới, từ đó Đảng có cơ sở để tổng kết thực tiễn và phát
triển lý luận, đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do dân và
vì dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân và
các thành phần kinh tế khác tham gia.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Công cuộc
đổi mới diễn ra vào lúc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển như vũ
bão, toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân
dân thế giới vì hoà bình độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi. Tiến hành đổi
mới nhân dân ta ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn
Đảng tạo ra sự thống nhất về quan điểm ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ
chức thực hiện xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh.
Tóm lại:
Mặc dù CNXH hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách to lớn. Song
CNXH vẫn tiếp tục duy trì củng cố xây dựng ở một số nước. Qua những năm cải tổ, đổi
mới, một số nước XHCN đã có những chuyển biến tích cực đạt những thành tựu quan
trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các Đảng CS và
công nhân ở các nước XHCN đã đổ vỡ. Ở các nước này hiện nay đang có sự chuyển biến
tích cực trên con đường phục hồi về tổ chức và hoạt động của các Đảng CS, điều này

càng chứng tỏ rằng CNXH có sức thu hút mạnh các lực lượng tiến bộ của thời đại với tư
cách là một chế độ xã hội văn minh nhất trong lịch sử, đại diện cho lực lượng sản xuất
phát triển trong tương lai của xã hội loài người.

×