Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học môn tiếng anh tại trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.36 KB, 118 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự hội nhập quốc tế đang là xu thế của
thời đại và trong bối cảnh đổi mới, mở cửa hướng ra thế giới, làm bạn với các
nước trên thế giới, chúng ta đã nhận thấy những bất cập trong chương trình
giảng dạy tiếng Anh trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và trước nhu cầu
mở rộng giao lưu vượt ra khỏi phạm vi quốc gia của đông đảo nhân dân.
Để hòa nhập vào sự phát triển chung của xã hội, tìm cho mình một chỗ
đứng thực sự trong thế giới đang ngày càng toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ,
chúng ta không thể không xem xét một cách nghiêm túc thực trạng chương
trình dạy ngoại ngữ, cụ thể là chương trình dạy tiếng Anh trong hệ thống giáo
dục quốc dân trong những năm qua để đưa ra những phương án khả thi đáp
ứng được những yêu cầu của đất nước.Trong xu thế hội nhập quốc tế, tiếng
Anh trở thành một phương tiện vô cùng quan trọng mà chúng ta không thể
không biết. Nhưng chúng ta đã đáp ứng đòi hỏi đó như thế nào và cách nào
khiến tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai đối với sinh viên khi ra trường?
Theo dự báo của các nhà phân tích, vào cuối thập kỷ này, 1/3 dân số thế
giới sẽ tham gia vào việc học tiếng Anh. Nhu cầu học tiếng Anh mang tính
khu vực và toàn cầu này cho thấy nhu cầu giao tiếp bằng tiếng Anh ngày càng
tăng đối với việc phát triển kinh tế và xã hội ở tầm cỡ quốc gia cũng như đối
với mỗi cá nhân trong xã hội.
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo cần phải tác động đến các yếu tố của
quá trình dạy - học, bên cạnh hai yếu tố mục đích và nội dung, “phương pháp
dạy học là một thành tố hết sức quan trọng của quá trình dạy học’’. Qúa trình
dạy - học sẽ không thể đạt hiệu quả như mong muốn nếu nội dung và mục
đích của nó không gắn kết với PPD-H phù hợp, vì thế quản lý quá trình HĐD-
H nhằm nâng cao chất lượng đào tạo là một vấn đề thời sự được nhiều nhà
khoa học, nhà QLGD, Đảng và nhà nước quan tâm và là đòi hỏi cấp thiết hiện
1
nay. Trong những năm gần đây, xu thế xã hội phát triển mạnh mẽ về nhiều
mặt đã đặt nhiệm vụ của GD nói chung và GDĐH-CĐ nói riêng trước đòi hỏi


mới. Đó là, giáo dục phải đào tạo nên nguồn nhân lực có đầy đủ các phẩm
chất, năng lực, chủ động, sáng tạo và linh hoạt để có thể thích nghi cao với thị
trường lao động trong thời hội nhập, tính cấp bách không chỉ toàn ngành
GD& ĐT quan tâm mà còn được thể hiện trong đường lối lãnh đạo công tác
GD& ĐT của Đảng và pháp luật của nhà nước. Ví dụ: Chiến lược phát triển
giáo dục 2001-2010, Luật giáo dục (2005).
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác định trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất văn hóa tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại hóa” “phát triển giáo dục và đào tạo là một
trong những động lực quan trọng trong thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Hoàn thành trách nhiệm đó là nhiệm vụ của tất cả các môn học và các
hoạt động trong nhà trường nói chung và môn ngoại ngữ nói riêng. Kinh
nghiệm của các nước phát triển và các nước trong khu vực châu Á- Thái Bình
dương đã chỉ rõ, trong những điều kiện cần thiết để hội nhập và phát triển thì
ngoại ngữ là điều kiện tiên quyết, là một công cụ, phương tiện đắc lực và hữu
hiệu trong tiến trình hội và phát triển trong thời đại ngày nay.
Trong báo cáo của Chính phủ về tình hình giáo dục của nước ta đã nêu
một cách khái quát các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp nhằm phát triển giáo
dục đúng cách và mạnh mẽ hơn trong thời gian tới. Đặc biệt là trong tình hình
chính phủ Việt Nam đang muốn nâng cao trình độ tiếng Anh của người Việt
để đến năm 2020 thì tiếng Anh trở thành một thế mạnh của nước ta, như mục
tiêu của đề án được nêu dưới đây:
2
Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học,
trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình

độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số
lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung
cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin
trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa
văn hoá; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trường Cao đẳng Kinh tế- Kỹ thuật Thương mại là một trong những trường
hàng đầu của Bộ Thương mại trước đây nay là Bộ Công Thương. Trường đã có 50
năm xây dựng và trưởng thành đã từng đào tạo hàng chục ngàn cán bộ nhân viên
cho ngành, lại có kinh nghiệm 12 năm đào tạo cao đẳng, định hướng phát triển lên
Đại học sau năm 2010, sứ mạng của trường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao. Sứ mạng của Trường Cao đẳng Kinh tế-Kỹ thuật Thương mại không chỉ là
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn nghiên cứu khoa học, chuyển giao
công nghệ và tham gia hợp tác quốc tế, nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành, của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với bối cảnh như vậy thì yêu cầu
đặt ra cho nhà trường là làm thế nào để nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh,
giúp học sinh- sinh viên có đựoc vốn tiếng Anh tốt để phục vụ cho công việc sau
này. Để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Công thương, nhà
trường phải đổi mới hoàn thiện ở rất nhiều lĩnh vực, một trong lĩnh vực đó là
chương trình đào tạo môn tiếng Anh cho các bậc học nhằm nâng cao chất lượng
dạy- học tiếng Anh tại trường.
Đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục và
giảng viên luận bàn về biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động dạy và học môn tiếng Anh. Một số luận văn mà tôi tham khảo đã đề cập
đến khía cạnh này như: biện pháp quản lý chương trình đào tạo hệ Cao đẳng
3
tại trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội (Lê Quốc Thành); Biện pháp quản lý
chương trình đào tạo ở trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội
(Lê thị Phương Thoa) Cho đến nay, chưa có một luận văn nào nghiên cứu về
biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học môn tiếng

Anh tại trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Thương mại. Là một giảng viên
của trường, bản thân tôi thấy hứng thú, quan tâm tới việc quản lý hoạt động dạy-
học môn tiếng Anh, đặc biệt là chương trình đào tạo Anh Thương Mại, vì đây là
chương hoàn toàn mới. Do đó tôi chọn để tài nghiên cứu: “Biện pháp quản lý
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học môn tiếng anh tại trường
cao đẳng kinh tế - kỹ thuật thương mại”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm ra những biện pháp quản lý chương trình đào tạo môn tiếng Anh
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh tại trường Cao đẳng Kinh tế
– Kỹ thuật Thương mại.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu những cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
3.2. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động day- học môn tiếng Anh tại
trường Cao đẳng Kinh tế- Kỹ thuật Thương mại.
3.3. Đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động dạy - học môn tiếng Anh
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh tại trường Cao đẳng Kinh tế
– Kỹ thuật Thương mại.
4. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý dạy học môn tuếng Anh tại trường Cao đẳng Kinh tế-
Kỹ thuật Thuơng mại
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy - học tiếng anh tại trường Cao đẳng kinh
tế- Kỹ thuật Thương mại góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại trường
4
5. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng những biện pháp quản lý khoa học đồng bộ chương trình
đào tạo tại trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Thương Mại thì có thể nâng
cao hiệu quả của hoạt động day – học tiếng Anh tại trường Cao đẳng Kinh tế
– Kỹ thuật Thương mại.

6. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu hoạt động day- học Tiếng Anh tại trường
Cao đẳng Kinh tế- Kỹ thuật Thương mại và đề ra những biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác này trong giai đoạn hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết, các văn kiện của Đảng và Nhà nước,
ngành giáo dục và đào tạo, tham khảo. phân tích các tài liệu khoa học; sách ;
báo có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp thống kê toán học
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý hoạt động dạy
và học môn tiếng Anh trong một cơ sở giáo dục.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy và học môn tiếng Anh tại
trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Thương mại.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động dạy và học môn tiếng Anh tại trường Cao đẳng Kinh tế- kỹ thuật
Thương mại.
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY- HỌC MÔN TIẾNG ANH TRONG MỘT CƠ SỞ GIÁO DỤC
1.1. Quá trình dạy và học
1.1.1. Bản chất quá trình dạy và học

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về dạy và học. Với quan niệm thông
thường dạy thế nào thì học thế ấy nên khái niệm dạy sẽ kéo theo khái niệm
học.
Có quan niệm cho rằng dạy học là một nghề trong xã hội hay dạy học là
hoạt động của thầy giáo trên lớp. Cũng có quan niệm cho rằng có việc học
mới cần đến việc dạy nên nhu cầu và cách học sẽ quyết định quá trình dạy.
Các quan niệm này đều nói về vai trò của người giáo viên. Các quan niệm
như thế đều không đầy đủ. Khái niệm dạy - học được tâm lý học sư phạm,
giáo dục học đề cập đến đến như những khái niệm xuất phát của tâm lý học sư
phạm và giáo dục của nhà trường. Lịch sử văn hoá phương Đông thường coi
Khổng Tử là học giả đầu tiên của giáo dục. Theo Nguyễn Văn Tiến: “Khổng
Tử là người đầu tiên đưa ra phương pháp giáo dục khoa học. Cách dạy của
ông là gợi mở để người học suy nghĩ, chứ không phải là giảng giải nhiều lời”
Có quan niệm cho rằng học là thu nhận kiến thức của nhân loại và mục
đích của việc học là để “khai trí tiến đức” như cố nhân đã dạy ( Nguyễn Ngọc
Quang- bài Bản chất quá trình dạy học - sách GD học đại học - Hà Nội
2000). Quan niệm học đó sẽ tương ứng với khái niệm “dạy là truyền thụ kiến
thức mà nhân loại đã tích luỹ được”. Ngoài ra còn rất nhiều các quan niệm
khác về quá trình dạy và học. Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang đã viết “học
là quá trình tự giác, tích cực, tự lực, chiếm lĩnh khái niệm khoa học (nội dung
học) dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên. Trong quan niệm này chúng
ta thấy rõ học mà chỉ ghi chép những gì giáo viên nói thì không phải là học,
6
học phải tích cực, tự giác, tự lực nếu không thì quá trình học sẽ không có kết
quả. Như vậy học là một hoạt động với đối tượng, trong đó học sinh là chủ
thể, khái niệm khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh. Theo cố giáo sư Nguyễn
Ngọc Quang khi nói về bản chất của quá trình dạy học ta phải xác định được
Học là gì?, Dạy là gì? Và bản chất toàn vẹn của quá trình dạy- học.
1.1.1.1. Học là gì?
1) Học là quá trình hoạt động với đối tượng, trong đó học sinh là chủ

thể, khái niệm khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh.
Học là quá trình tự giác tích cực tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học,
dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên.
2) Chiếm lĩnh khái niệm khoa học là mục đích của học. Với ý này học
sinh phải nắm vững nghĩa, đào sâu ý hàm chứa trong khái niệm, nghĩa càng
sâu ý càng phong phú. Chiếm lĩnh khái niệm còn có thể hiểu là tái tạo khái
niệm cho bản thân, thao tác với nó, sử dụng nó như công cụ phương pháp để
chiếm lĩnh những khái niệm khác hoặc để mở rộng, đào sâu thêm tính khái
niệm đó ở trình độ lý thuyết cao hơn. Tư duy khái niệm là trình độ tư duy lý
thuyết – đây chính là một trong những mục đích quan trọng của sự phát triển
năng lực tri thức cho học sinh thông qua học tập.
Chiếm lĩnh khái niệm, biến nó từ kho tàng văn hóa xã hội thành học vấn
riêng của bản thân, học sinh sẽ hình thành cho mình một thái độ mới trong
việc đánh giá các giá trị tinh thần và vật chất của thế giới khách quan, một sản
phẩm đạo đức mới. Như vậy quá trình chiếm lĩnh khái niệm mà thành công,
nó sẽ dẫn tới đồng thời ba mục đích bộ phận: Trí dục (nắm vững khái niệm) ,
phát triển ( tư duy khái niệm) và giáo dục( thái độ đạo đức). Ba mục đích bộ
phận này gắn bó hữu cơ với nhau, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau,
sinh thành ra nhau và tạo ra một hệ toàn vẹn mục đích bộ ba.
7
“ Khai trí tiến đức” điều mà cổ nhân đã dạy. “ Đến một trình độ cao, tri
thức với tư tưởng, đức dục với trí dục là một. Trí dục phải dẫn đến đạo đức,
đức dục là kết quả tất yếu của sự hiểu biết” ( Phạm Văn Đồng).
3) Về mặt cấu trúc chức năng, học có hai chức năng thống nhất với
nhau: Lĩnh hội( tiếp thu thông tin dạy của thầy) và tự điều khiển quá trình
chiếm lĩnh khái niệm của mình( tự giác tích cực tự lực)
4) Nội dung học là gì?
a. Nội dung của học chính là nội dung của khái niệm khoa học. Khái
niệm khoa học – đó là kiến thức về những dấu hiệu, thuộc tính, những mối
quan hệ bản chất và chung của đối tượng mà nó phản ánh, nhờ sự khái quát

hóa. Mỗi khái niệm khoa học đều là một mô hình của hiện thực một khi đã
được thực tiễn kinh nghiệm; nó chính là chân lý khách quan và phản ánh sâu
sắc hiện thực. Môn học thực chất là hệ thống những khái niệm khoa học
b. Ở trên, khi nói đến mục đích trí dục của học, ta có đề cập đến khái
niệm “tái tạo lại khái niệm khoa học”. Đó là quá trình sử dụng( thao tác)
khái niệm đã lĩnh hội để rút ra khái niệm mới, hoặc bằng cả hai cách để
tìm ra chân lý mới. Như vậy, chiếm lĩnh nội dung của khái niệm, còn có
nghĩa là lĩnh hội cả phương pháp kiến tạo nên khái niệm rồi từ đó mà suy
ra phương pháp nhận thức khoa học nói chung. Đây chính là loại kiến thức
có tính chất phương pháp luận, thế giới quan, một thành phần rất quan
trọng của nhân cách. Khái niệm khi đã được chiếm lĩnh sẽ tác động như
phương pháp nhận thức.
c. Chiếm lĩnh khái niệm còn có nghĩa là nắm vững lôgích của khái niệm
khoa học phản ánh đối tượng. Lôgích của khái niệm chính là quy trình sinh ra,
vận động và trưởng thành của đối tượng mà khái niệm phản ánh và con người
nhận thức được. Nó là lịch sử nhận thức của con người về đối tượng. Lôgích
của khái niệm là quá trình tiến hóa theo quy luật riêng của đối tượng từ đơn
giản đến phức tạp và đa dạng mà con người ý thức được.
8
Tóm lại: Nội dung của học là toàn bộ bộ máy khái niệm của môn học,
cấu trúc lôgích của môn học đó, các phương pháp đặc trưng của khoa học đó
và biết ứng dụng những hiểu biết đó vào việc tiếp tục học tập và lao động.
5) Phương pháp học là gì?
Đó là phương pháp lĩnh hội kiến thức có sẵn của nhân loại, nhưng là mới
đối với bản thân học sinh. Đó là chiếm lĩnh khái niệm, đó là giành lấy khái
niệm mới. Học có nghĩa là nhận thức.
Khi nhận thức một đối tượng, trước hết học sinh phải xem xét nó như
một hệ toàn vẹn, phát hiện ra cấu trúc chức năng của nó, đó là giai đoạn mô tả
đối tượng. Tiếp đó phải giải thích tại sao lại như thế; trong giai đoạn giải
thích, học sinh phải huy động những hiểu biết lý thuyết( khái niệm, định luật,

học thuyết ). Cuối cùng khi đã nắm vững cơ chế vận hành của đối tượng, học
sinh bước sang giai đoạn vận dụng- cải tiến đối tượng. Đó là quy luật của
nhận t ức khoa học, mà cũng là phương pháp nhận thức khoa học.
Vậy, phương pháp học là phương pháp nhận thức, phương pháp chiếm
lĩnh khái niệm khoa học phản ánh đối tượng của nhận thức, biến các hiểu biết
của nhân loại thành học vấn của bản thân. Đó là phương pháp mô tả, giải
thích và vận dụng khái niệm khoa học.
6) Học tốt là sự thống nhất của cả mục đích, nội dung lẫn phương pháp
của học. Đó là sự điều khiển tối ưu quá trình chiếm lĩnh khoa học trên cơ sở
của sự bị điều khiển.
1.1.1.2. Dạy là gì?
- Dạy là sự điều khiển tối ưu hóa quá trình học sinh chiếm lĩnh khái niệm
khoa học, trong và bằng cách đó phát triển và hình thành nhân cách.
- Dạy học có những mục đích cụ thể khác nhau. Nếu học nhằm vào việc
chiếm lĩnh khái niệm khoa học, thì dạy học lại có mục đích là điều khiển sự
học tập.
9
- Dạy học có hai chức năng thường xuyên tương tác với nhau, thâm nhập
vào nhau, sinh thành ra nhau(để tiện ta gọi là “chức năng kép”), đó là truyền
đạt thông tin dạy học và điều khiển hoạt động học.
1.1.1.3. Bản chất toàn vẹn của quá trình dạy học
1) Nói quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn như thế có nghĩa là
các thành tố của nó luôn tương tác với nhau theo một quy luật riêng, thâm
nhập vào nhau, qui định lẫn nhau để tạo nên sự thống nhất biện chứng:
a) Giữa dạy với học.
b) Giữa truyền đạt với điều khiển trong dạy.
c) Giữa lĩnh hội với tự điều khiển trong học.
Khái niệm khoa học là điểm xuất phát của dạy, lại là điểm kết thúc của học.
2) Quá trình dạy học là hoạt động cộng đồng hợp tác giữa chủ thể: thầy-
cá thể trò,trò – trò trong nhóm, thầy- nhóm trò v.v

3) Sự tương tác theo kiểu cộng đồng- hợp tác giữa dạy và học là yếu tố
duy trì và phát triển sự thống nhất toàn vẹn của quá trình dạy học, nghĩa là
của chất lượng dạy học. Dạy tốt , học tốt chính là đảm bảo được ba phép biện
chứng(ba sự thống nhất) nói trên trong hoạt động cộng tác. Đó là sự thống
nhất của điều khiển, bị điều khiển và tự điều khiển, có bảo đảm liên hệ nghịch
thường xuyên bền vững.
Tóm lại: Để có được một quá trình dạy học tối ưu phải xuất phát từ
lôgích của khái niệm khoa học và lôgích lĩnh hội của học sinh, thiết kế công
nghệ dạy học hợp lý, tổ chức tối ưu hoạt động dạy học cộng tác, bảo đảm liên
hệ nghịch, để cuối cùng làm cho học sinh tự giác tích cực chiếm lĩnh được
khái niệm khoa học, phát triển năng lực hình thành thái độ. Về thực chất quá
trình dạy học là bồi dưỡng cho người học một trình độ học vấn nhất định làm
cho họ trở thành những người lao động, người công dân có kiến thức, có kỹ
năng hoạt động nghề nghiệp, hoạt động thực tiễn sáng tạo. Quá trình dạy học
là một hoạt động phức tạp, chịu sự tác động qua lại của nhiều nhân tố cấu
10
trúc, tạo thành một hệ thống: mục đích, nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học,
phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức dạy học, hoạt động của người
dạy và người học. Mỗi nhân tố có vị trí xác định, có chức năng riêng, vận
động theo quy luật riêng nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại trong môi trường chính trị - xã hội, môi trường khoa học - kỹ
thuật của thời đại.
Trong các nhân tố cấu trúc của quá trình dạy học, hoạt động phối hợp
chặt chẽ giữa hai chủ thể - người dạy và người học được coi là nhân tố trung
tâm, quyết định chất lượng và hiệu quả đào tạo.
1.1.1.4. Người dạy
Giảng viên với vai trò là chủ thể của hoạt động giảng dạy, là người được
đào tạo cơ bản về nghiệp vụ sư phạm, người nắm vững kiến thức khoa học
chuyên ngành, phát huy phẩm chất và năng lực sư phạm để tổ chức thành
công hoạt động của mình. Chất lượng đào tạo của nhà trường phụ thuộc phần

lớn vào trình độ năng lực, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của mỗi giảng
viên. Bởi lẽ, giảng viên giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ quá trình dạy học, là
chủ thể tác động vào mọi nhân tố của quá trình dạy học, chi phối các nhân tố,
nhằm phát huy sức mạnh của các nhân tố khác. Giảng viên chính là người xây
dựng và thực thi mục đích, kế hoạch dạy học; tổ chức cho người học thực
hiện hoạt động học tập dưới mọi hình thức, trong thời gian và không gian
khác nhau; hướng dẫn thực hành, giải quyết những vấn đề thực tiễn, hình
thành các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản, cần thiết. Các công trình nghiên cứu đã
chỉ ra rằng: Cho dù mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, phương tiện dạy học,
các điều kiện có tốt đến mấy nhưng người dạy yếu kém về chuyên môn, suy
thoái về nhân cách thì chất lượng đào tạo không thể nâng lên được, không đáp
ứng được nhu cầu, nguyện vọng của người học. Ngược lại, nếu đội ngũ giảng
viên có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, có trình độ chuyên môn cao thì
ngay trong những điều kiện giảng dạy khó khăn, thiếu thốn, họ vẫn có thể
11
khắc phục khó khăn, sáng tạo vươn lên để đạt được những hiệu quả cao nhất
trong sự nghiệp của mình. Mặt khác, cũng cần phải hiểu vai trò chủ thể của
giảng viên không phải là truyền đạt cho học viên bao nhiêu kiến thức, mà là
người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển hoạt động của người học làm cho việc
học tập trở thành một hoạt động có ý thức, hướng tới trang bị cho học viên
khả năng tự thu thập kiến thức, tự tìm kiếm phương pháp giải quyết vấn đề
một cách sáng tạo.
1.1.1.5. Người học
Học viên với vai trò là người học, người tiếp nhận thông tin từ phía
người dạy, quyết định chất lượng của hoạt động đào tạo. Thật vậy, mục đích
của hoạt động đào tạo trong nhà trường nói chung là nhằm biến những kiến
thức chung của xã hội, của nhân loại thành nhận thức, hiểu biết, trí tuệ của
người học, hình thành thái độ tích cực, kỹ năng thực hành, tạo ra sự phát triển
trí tuệ, nhân cách toàn diện cho họ.
Mục đích của hoạt động đào tạo chỉ có thể đạt được khi mà bản thân

người học là chủ thể tham gia tích cực vào quá trình dạy học, tích cực suy
nghĩ, tích cực lắng nghe, sàng lọc kiến thức, mong muốn tiếp nhận kiến thức
từ bài giảng của thầy. Người học khi đã xác định được mục đích học tập, cần
phải có động cơ, thái độ học tập tích cực, chủ động, xây dựng được kế hoạch
học tập phù hợp, có nhu cầu, hứng thú học mới đem lại hiệu quả đích thực.
Thực tế đã chứng minh rằng: Nếu người học không có nhu cầu học tập, không
có động cơ học tập trong sáng, không cố gắng vươn lên, không tập trung suy
nghĩ, không chú ý lắng nghe thì cho dù thầy giỏi, uyên thâm về kiến thức,
chuyên môn nghiệp vụ thì dạy học khó đạt được kết quả tốt và như vậy chẳng
khác gì “ nước đổ lá khoai” hay “ chữ thầy lại trả thầy”. Việc học tập do chính
người học thực hiện một cách có ý thức, chủ động mới là con đường để mỗi
người tự làm giàu kiến thức, tự biến đổi bản thân, tạo cơ hội để trở thành
người lao động tự chủ, sáng tạo.
12
Tóm lại: Để đạt được hiệu quả của hoạt động giáo dục - đào tạo, cần có
sự phối hợp hài hòa, tích cực giữa chủ thể của hoạt động dạy và chủ thể của
hoạt động học, giữa giảng viên và học viên. Trong đó, hoạt động dạy điều
khiển hoạt động học, hoạt động học tuân thủ hoạt động dạy. Hoạt động dạy và
hoạt động học luôn được thực hiện đồng thời với cùng một nội dung, hướng
tới cùng một mục đích. Việc dạy tốt sẽ tạo điều kiện cho học tốt, việc học tốt
đòi hỏi phải dạy tốt. Nếu hai hoạt động này tách rời, chỉ có hoạt động của
người dạy hoặc chỉ có hoạt động của người học sẽ không tồn tại quá trình dạy
học, và tất nhiên sẽ không còn ý nghĩa gì khi bàn đến chất lượng đào tạo. Sự
tác động qua lại giữa người dạy và người học, giữa giảng viên và học viên là
mối quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau, cùng hướng
tới mục đích chung - vì người học, hoàn thiện nhân cách, phát triển trí tuệ cho
người học. Sự tác động qua lại này quy định sự tồn tại của qua trình dạy học,
quy định sự tồn tại của các nhân tố khác: mục đích dạy học, nội dung dạy học,
phương pháp dạy học, phương tiện dạy học…Sự tác động thống nhất biện
chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học tạo nên sự phát triển không

ngừng của quá trình dạy học.
Như vậy, có thể khẳng định mối quan hệ phối hợp tích cực giữa người
dạy và người học là nhân tố vô cùng quan trọng, quyết định chất đào tạo trong
nhà trường.
1.2. Chất lượng của dạy và học
Chất lượng dạy và học là mối quan tâm hàng đầu của nền giáo dục trên
thế giới, hầu hết các nước đều ra sức tìm mọi biện pháp để nâng cao chất
lượng dạy và học. Với mong muốn là làm sao để người dạy truyền đạt được
kến thức một cách dễ dàng, người học nắm bắt và vận dụng được kiến thức
đó trong thời gian ngắn nhất vào thực tế sản xuất, nghiên cứu một cách có
hiệu quả, và do vậy càng lúc càng đặt ra những yêu cầu gay gắt trong việc
nâng cao chất lượng giảng dạy và cách đánh giá người học như thế nào là
13
khách quan, công bằng, là động lực thúc đẩy để người học thấy đó là động
lực, mục tiêu phấn đấu. Chất lượng dạy và học phải nằm trong một tiến trình
làm biến đổi người học trong đó việc học của sinh viên phải được quan tâm
sâu sát và trợ giúp từ các khâu giảng dạy, đánh giá cũng như tất cả những yếu
tố khác trong trường (cơ sở vật chất, môi truờng, tác phong làm việc đối với
sinh viên, …). Việc giảng dạy phải làm sao thật sự kích thích khả năng ham
hiểu biết, tìm tòi sáng tạo để làm thỏa mãn bản thân sinh viên về những điều
chưa biết. Cách đánh giá không phải để kết thúc môn học hay chỉ để quyết
định sinh viên đậu rớt một môn học mà nên là một kênh nhận xét để sinh viên
hiểu năng lực và kiến thức của mình ở môn đó đã đạt đến mức nào, có nên
tiếp tục các khóa học có liên quan không hay nên học lại và nếu học lại thì
cần bổ sung nhưng khoảng trống tri thức nào. Tương tự các yếu tố khác trong
trường tạo tiền đề để việc học tập của sinh viên được diễn ra thuận lợi và đạt
hiệu quả cao nhất.
Ở đây chúng tôi xin đề cập đến hai quan niệm chính về về chất lượng
dạy và học. Mặc dù khó có thể đưa ra được một định nghĩa về chất lượng dạy
và học vì chất lượng là một khái niệm mang tính tương đối, động, đa chiều và

với những người ở các cương vị khác nhau có thể có những ưu tiên khác nhau
khi xem xét nó. Ví dụ, đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên thì ưu tiên của
khái niệm chất lượng phải là ở quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ cho quá trình giảng dạy và học tập. Còn đối với những người sử dụng
lao động, ưu tiên về chất lượng của họ lại ở đầu ra, tức là ở trình độ, năng lực
và kiến thức của sinh viên khi ra trường v.v. Khi nói về chất lượng dạy – học
ta phải nói đến ba yếu tố sau:
I P O
( Input) (Process) (Output)
Trong đó: Input là đầu vào của người học. Process lả quá trình dạy học.
Đó là những nhiệm vụ của quá trình dạy và học, đó là hệ thống các nguyên
14
tắc dạy học, kế hoạch dạy học, chương trình môn học, sách giáo khoa, hệ
thống các phương pháp dạy học và các hình thức dạy học.
Có hai quan điểm về chất lượng của dạy và học.
Theo quan niệm hẹp: Chất lượng dạy- học = Chất lượng của người học
Theo quan niệm rộng hơn: Chất lượng dạy - học = Chất lượng các thành
tố tạo nên quá trình dạy học và chất lượng của người được đào tạo. Các thành
tố của chất lượng dạy và học bao gồm:
- Chương trình giáo dục
- Chất lượng của người dạy: Đó là kiến thức, PPDH của người dạy.
- Chất lượng của người học: Đó là kiến thức, kỹ năng và thái độ học
tập của người học
- Chất lượng của các điều kiện đảm bảo cho chất lượng dạy- học: Đó
là CSVC, là chính sách đối với giáo viên khiến họ yên tâm công tác.
1.3. Đặc điểm của dạy học tiếng Anh
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, nắm vững một ngoại
ngữ, đặc biệt là tiếng Anh có thể coi như có trong tay chìa khóa để mở ra cánh
cửa của tri thức. Với nguồn tài liệu phong phú và đặc biệt là sự phổ cập của
mạng internet, người học ngoại ngữ và người dạy ngoại ngữ đều đã ở những

vị thế khác khác so với trước đây. Tuy nhiên một điều đáng lo ngại rằng rất
nhiều giáo viên không chỉ giáo viên ngoại ngữ cho rằng “Học sinh nào chẳng
như học sinh nào”. Và cũng có không ít người cho rằng việc giảng dạy ngoại
ngữ cũng không quá phức tạp. Vì vậy việc nhìn nhận lại vai trò của người học
và người dạy trong một lớp học ngoại ngữ là cần thiết để đáp ứng mục tiêu
nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ thời kỳ hội nhập.
Về phía người học.
Những đặc điểm dưới đây là đặc trưng tiêu biểu mà một người học ngoại
ngữ cần. Mặc dù không ai có tất cả những đặc tính đó.
15
- Có thái độ tích cực đối với ngôn ngữ mà họ đang muốn học, và với cả
người nói ngôn ngữ đó.
- Có động cơ cá nhân mạnh mẽ để học ngôn ngữ đó.
- Tự tin rằng họ sẽ thành công trong việc nắm bắt ngôn ngữ.
- Luôn chuẩn bị tinh thần sẵn sàng với việc có thể mắc lỗi và rút kinh
nghiệm từ những lỗi mắc phải
- Học tất cả những gì liên quan đến ngôn ngữ
- Sắp xếp thời gian thích hợp cho việc thực hành ngôn ngữ
- Chủ động tìm mọi cách để được thực hành nói về những thứ mà họ
không biết phải diễn đạt như thế nào cho chính xác bằng thứ ngôn ngữ mà họ
đang học
- Nhập vai trong các tình huống để thực hành ngôn ngữ và chủ động sử
dụng ngôn ngữ đó càng nhiều nhất có thể.
- Tư duy trực tiếp từ ngôn ngữ đang học hơn là chuyển dịch từ ngôn ngữ
mẹ đẻ sang
- Có những kế hoạch cụ thể cho việc học và ghi nhớ những điều cần nhớ
về ngôn ngữ và có quyết tâm để thực hiện những kế hoạch đó.
Những đặc trưng trên của một người học tiếng Anh giúp ích cho giáo
viên rất nhiều trong quá trình tiếp cận người học.
Về phía giáo viên.

Trước hết, giáo viên không nên coi việc học một ngôn ngữ giống như
một quá trình tri thức quá cao siêu. Tất cả các khía cạnh của con người như đã
kể trên đều được thể hiện qua ngôn ngữ và tất cả những điều đó đều đóng vai
trò nhất định trong việc tích lũy kiến thức ngôn ngữ. Khi người học tìm cách
tiếp thu một ngôn ngữ chính là họ đang học cách thể hiện chính bản thân
mình.
Thứ hai, giáo viên phải học cách để chia sẻ. Nếu giáo viên biết cách chia
sẻ nền văn hóa và ngôn ngữ với người học thì đó là một lợi thế. Tất cả các
16
giáo viên cần phải nhạy cảm với sự khác biệt xã hội và nên cố gắng tìm hiểu
nhu cầu mục đích và đặc tính của từng người học.
Thứ ba, giáo viên phải biết cách biến lớp học thành một nơi mà ở đó
những đặc tính tốt của mỗi người học đều được khuyến khích để thể hiện,
giáo viên sẽ giúp các cá nhân tìm và phát hiện ra những ưu điểm của họ. Ví
dụ, một số sinh viên có thể học tốt hơn qua những minh họa thực tế, số khác
lại thiên về tự nghiên cứu số khác lại tiếp thu ngôn ngữ tốt hơn qua thực hành.
Nhiệm vụ của một giáo viên là phải hiểu rõ những điểm mạnh và điểm
chưa mạnh của người học và điều quan trọng hơn nữa là chỉ cho họ biết đâu là
sở trường của mình. Dạy học Ngoại ngữ là thu hút học viên với các đề tài hấp
dẫn sắp xếp theo chủ đề, phát triển các kỹ năng giao tiếp hàng ngày, phát triển
toàn diện bốn kỹ năng chính (nghe, nói, đọc, viết).
Đặc điểm của việc dạy học Tiếng Anh được các giáo viên thể hiện như
sau:
-Tổ chức: Người học phải cảm thấy rằng mọi hoạt động của họ tại lớp
học là có chủ đích và là một giáo viên bạn cần phải tổ chức các hoạt động trên
lớp sao cho những hoạt động đó đem lại cảm giác đáng tin cậy đối với người
học. Làm thế nào để tạo được sự tin cậy nơi người học? Người học cần
những chỉ dẫn vừa đủ để họ biết hướng hành động, đồng thời họ cũng cần có
khoảng tự do nhất định để có chỗ cho tính sáng tạo của họ phát triển.
- Tạo sư an toàn. Nếu người học cảm thấy an toàn họ có thể yên tâm

tham gia vào các hoạt động của lớp học. Nếu giáo viên đem lại cho họ cảm
giác rằng mọi người trong lớp bao gồm cả giáo viên đang đứng về cùng một
phe với họ thì nỗi sợ hãi khi mắc lỗi sẽ không còn và những điều học được từ
những lần mắc lỗi đó sẽ khó quên.
- Tạo động cơ: Một vài người học có những động cơ bên ngoài. Điều đó
có thể là một hỗ trợ lớn cho việc học nhưng tất cả thành viên trong lớp đều
phải được khuyến khích để tham gia vào các hoạt động chung của lớp. Giáo
17
viên sẽ nhìn thấy ngay kết quả khi người học được kích thích hoạt động bằng
các bài tập thú vị, khi họ hoàn thành tốt các bài tập đó và đặc biệt là khi họ
thấy mối liên hệ của các hoạt động ở lớp học với cuộc sống ngoài đời thực.
- Chỉ dẫn. Sinh viên đến lớp để được học những điều mới và được hướng
dẫn cách để làm sao tiếp nhận được các điều mới mẻ đó.
- Làm mẫu. Người học cần được chỉ cho thấy những điều mới và giáo
viên là người làm mẫu cho họ thấy những điều đó được thực hiện như thế
nào.
- Trợ giúp: Người học cần sự giúp đỡ từ phía giáo viên để khám phá
những điều mới và cũng để thực hành những kỹ năng mới.
- Cung cấp thông tin: Người học cần thêm những thông tin hỗ trợ cho
vấn đề đang nghiên cứu, giáo viên sẽ là người đem lại những thông tin sát
thực nhất với vấn đề mà người học đang quan tâm.
- Phản hồi: Người học cần biết họ đã và đang tiến gần đến mục tiêu tới
mức nào. Liệu câu họ nói đã rõ nghĩa chưa? Động từ mà họ sử dụng đã chính
xác chưa? Câu văn mà họ viết đã giống với chuẩn mực của người bản ngữ
chưa? Tất cả những điều đó cần nhận được sự phản hồi từ chính giáo viên
trong mỗi buổi học
- Khuyến khích: Giáo viên phải nhận thức rõ ràng rằng mỗi lời động viên
khuyến khích của mình có thể là một động lực kích thích người học tiếp tục
khám phá, tiếp tục chinh phục những mục tiêu học tập phía trước. Người học
cần phải được cảm thấy rằng ngôn ngữ đang phát triển bên trong họ, thậm chí

đôi khi ngôn ngữ họ đang sử dụng chưa thật sự gần với tiếng Anh chuẩn lắm.
- Đánh giá: Người học cần phải có những chuẩn cần đạt tới, việc đỗ hay
trượt một kỳ thi là rất quan trọng. Họ cần phải biết kết quả công việc mình
đang làm. Giáo viên chính là người đo lường chính xác nhất kết quả công việc
của từng người học. Quan trọng hơn giáo viên phải công khai việc đánh giá
đó để người học tự điều chỉnh việc học của mình.
18
Vậy có thể cho rằng giảng viên phải là người tổ chức, tạo sự yên tâm,
khơi dậy động lực, chỉ dẫn, làm mẫu, hướng dẫn, cung cấp thông tin, cung
cấp thông tin phản hồi về quá trình học, khuyến khích và đánh giá kết quả của
người học? Tất cả những điều đó đều đúng. Nhưng một giáo viên giỏi còn
phải là người biết hướng người học tham gia một cách có trách nhiệm vào các
hoạt đông trên. Nhiệm vụ của chúng ta là giúp người học dần tự lập thoát ly
khỏi giáo viên và có thể vận dụng những điều đã học để tiếp tục nâng cao
kiến thức.
Chất lượng đào tạo phụ thuộc nhiều yếu tố, tuy nhiên yếu tố con người luôn
đóng vai trò quan trọng không thể phủ nhận được. Để nâng cao chất lượng đào
tạo cả thầy và trò cùng phải nhận thức rõ vai trò của mình trong lớp học.
1.4. Quản lý dạy – học nhằm nâng cao chất lượng dạy- học
Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và nâng cao chất lượng dạy và học
Tiếng Anh trên toàn quốc đòi hỏi chúng ta phải có bỉện pháp quản lý hiệu quả
để nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Anh.
1.4.1. Những vấn đề chung về quản lý
1.4.1.1. Quản lý
Quản lý là một hoạt động bắt buộc sự phân công, hợp tác lao động.
Chính sự phân công hợp tác lao động nhằm đạt đến hiệu quả nhiều hơn, năng
suất cao hơn trong công việc, đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối hợp, điều tra,
kiểm tra….và phải có người đứng đầu.
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà lý luận đưa ra nhiều khái
niệm về quản lý

- F.W. Taylor (1856-1915) người được coi là “cha đẻ của thuyết quản lý
khoa học” đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: “Mỗi loại công việc dù
nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ”. Theo ông:
“Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế
nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”
19
- Henry Fayon (1841-1925) cho rằng: “Quản lý là quá trình đạt đến
mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế
hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”. Ông khẳng định: “Khi
con người lao động hiệp tác thì điều tối quan trọng là họ cần phải xác định rõ
công việc mà họ phải hoàn thành, và những nhiệm vụ của mỗi cá nhân phải là
mắt lưới dệt nên mục tiêu của tổ chức”.
Ở nước ta cũng có nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu khái
niệm quản lý.
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là sự tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể những người quản lý đến tập thể những người
lao động (khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”.
- Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động
quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người
quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm
làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”[7, tr.9]
Tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng các tác giả đều thống nhất quan
điểm: Quản lý là một quá trình tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất.
Quản lý luôn tồn tại vói tư cách là một hệ thống gồm các yếu tố: Chủ thể
quản lý( người quản lý, người tổ chức quản lý); đối tượng quản lý( khách thể
quản lý) – con người, trang thiết bị kỹ thuật, nguồn tài chính, ; mục đích hay
mục tiêu chung của công tác quản lý do chủ thể quản lý áp đặt hay do yêu cầu
khách quan của xã hội hoặc do sự cam kết , thỏa thuận giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý, từ đó nảy sinh các mối quan hệ tương tác với nhau giữa chủ

thể quản lý và khách thể quản lý.
Trong hoạt động quản lý có hai hệ thống khăng khít với nhau, đó là chủ
thể quản lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay
một nhóm người có chức năng quản lý hay điều khiển tổ chức làm cho tổ
20
chức vận hành và đạt được mục tiêu. Khách thể quản lý bao gồm những
người thừa hành nhiệm vụ trong tổ chức, chịu sự tác động, chỉ đạo của chủ
thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung.
- Các chức năng cơ bản của quản lý:
+ Lập kế hoạch
+ Tổ chức
+ Chỉ đạo, lãnh đạo, điều khiển
+ Kiểm tra
- Các phương pháp quản lý:
+ Các phương pháp hành chính - tổ chức
+ Các phương pháp giáo dục
+ Các phương pháp tâm lý - xã hội
+ Các phương pháp kinh tế
- Vai trò của quản lý: Vai trò của quản lý giáo dục được thể hiện thông
qua các chức năng cơ bản của quản lý, Cụ thể được thể hiện thông qua quá
trình từ việc thiết kế, lập kế hoạch, triển khai và đánh giá chương trình đào
tạo[9].
1.4.1.2 Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, một chức năng của xã hội loài
người được thực hiện một cách tự giác. Cũng giống như mọi hoạt động khác
của xã hội loài người, giáo dục cần được quản lý. Quản lý giáo dục là loại
hình của quản lý xã hội. Tương tự như khái niệm quản lý, quản lý giáo dục
cũng có nhiều định nghĩa khác nhau:
Trong cuốn“ Những khái niệm về quản lý giáo dục” của Nguyễn Ngọc
Quang “ Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích ,có kế

hoạch phù hợp với những quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ
thống vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng , thực hiện
21
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học. Giáo dục thế hệ trẻ đưa giáo dục đến mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất [15, tr.12].
Theo Đặng Quốc Bảo “ Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hành
động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội” [3,tr.31]
Nói chung, quản lý giáo dục (QLGD) được hiểu là sự tác động của chủ
thể quản lý đến các khách thể quản lý trong lĩnh vực hoạt động/công tác giáo
dục. Nói một cách đầy đủ hơn, QLGD là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục,
là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực
hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Quản lý
giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy
mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.
Tóm lại: Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản: Quản lý giáo dục là
quá trình vận dụng những nguyên lý,phương pháp, khái niệm của khoa học
quản lý vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể, một ngành chuyên biệt- ngành
giáo dục. Hệ thống quản lý giáo dục bao gồm các thành tố:
- Chủ thế quản lý giáo dục: Là hệ thống quản lý giáo dục các cấp từ
trung ương đến địa phương.
- Đối tượng quản lý giáo dục/ Khách thể quản lý giáo dục:
+ Điều kiện cơ sở vật chất, nguồn lực cho giáo dục
+ Quá trình giáo dục.
+ Con người tham gia vào hoạt động giáo dục.
- Cơ chế không chính thức là những quy định không thành văn bản
nhưng được sử dụng nhằm duy trì quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý
được mọi thành viên trong hệ thống quản lý thừa nhận và tôn trọng.

22
- Mục tiêu của quản lý giáo dục: “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ nhân lực có trí thức và có tay nghề,
có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách
mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”. Mục tiêu của quản lý giáo
dục chính là trạng thái mong muốn trong tương lai đối với hệ thống giáo dục,
đối với trường học, hoặc đối với những thông số chủ yếu của hệ thống giáo
dục trong mỗi nhà trường. Những thông số này được xác định trên cơ sở đáp
ứng những mục tiêu tổng thể của sự phát triển kinh tế xã hội trong từng gia
đoạn phát triển kinh tế của đất nước.
- Đối tượng của quản lý giáo dục : Là hoạt động của cán bộ, giáo viên,
học sinh, sinh viên và tổ chức sư phạm của nhà trường trong việc thực hiện kế
hoạch và chương trình GD-ĐT nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã quy định
với chất lượng cao.
Quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển xã hội và phát triển nghành giáo dục. Trong bài
phát biểu tại buối khai mạc hội thảo về quản lý giáo dục tại trường Quản lý
Cán bộ giáo dục Trung ương I ngày 26/3/1996, Bộ trưởng Bộ Giáo dục- Đào
tạo Nguyễn Minh Hiển đã khẳng định: “ Quản lý giáo dục là yếu tố quan
trọng để tạo ra nội lực cho nghành trong điều kiện đất nước còn nghèo”.
[1,tr.13]
1.4.1.3. Các chức năng quản lý
Khi bàn về hoạt động quản lý và người quản lý, chúng ta cần tìm hiểu
người quản lý phải làm những gì, hay nói cách khác là tìm hiểu các chức năng
quản lý. Để đạt được mục tiêu của tổ chức, người quản lý phải biết cách vận
dụng các chức năng quản lý.
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia các chức năng quản lý
Tác giả Hà Sĩ Hồ đề xuất các chức năng quản lý sau: Soạn thảo và ra
quyết định, tổ chức thực hiện quyết định, kiểm tra việc thực hiện quyết định
và tổng kết.[11,tr.14]

23
Viện sĩ V.G Afanaxiep, nhà quản lý xã hội lỗi lạc của Liên Xô cũ đã
nêu lên 5 chức năng cơ bản là: Sử lý và thông qua quyết định, tổ chức, điều
chỉnh, sửa chữa, kiểm kê và kiểm tra.[11.tr. 14]
Henry Fayol(1841-1925), xuất phát từ các loại hình “ hoạt động quản
lý” là người đầu tiên phân biệt chúng thành 5 chức năng cơ bản: Kế hoạch
hóa, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra.
Như vậy các quan điểm có thể không giống nhau về mặt ngôn từ, song
hoạt động quản lý có 4 chức năng cơ bản sau:
- Kế hoạch hóa.
- Tổ chức.
- Chỉ đạo
- Kiểm tra
Kế hoạch hóa: Đây là khâu đầu tiên của chu trình quản lý. Nó giúp chủ
thể tiếp cận mục tiêu một cách hợp lý và khoa học. Kế hoạch là văn bản trong
đó xác định mục tiêu, mục đích đối với các thành tựu trong tương lai của tổ
chức và các con đường, các biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục
đích đó.
Chức năng kế hoạch hóa có 3 nội dung cơ bản sau:
- Xác định, hình thành mục tiêu( phương hướng) đối với tổ chức.
- Xác định và đảm bảo(có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các
nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu này.
- Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu
đó.
Tổ chức: Sự chuyển hóa những ý tưởng trong kế họach thành hiện thực.
Tổ chức là quá trình hình thành cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa
các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công kế
hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu
quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và
24

nhân lực. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của
người quản lý trong việc sử dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và
kết quả.
Theo Ernest Dale chức năng tổ chức là một quá trình gồm 5 bước:
- Lập danh sách các công việc cần phải hoàn thành để đạt được mục tiêu
của tổ chức.
-Phân chia toàn bộ công việc thành những nhiệm vụ để các thành viên
hay các bộ phận trong tổ chức thực hiện một cách thuận lợi và hợp lôgíc. Đây
được gọi là bước phân công lao động.
-Kết hợp các nhiệm vụ một cách lôgíc và hiệu quả. Đây là bước phân
chia bộ phận
-Thiết lập một cơ chế điều phối. Sự liên kết hoạt động của cá nhân, các
nhóm, các bộ phận một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện giúp đạt được các mục
tiêu của tổ chức một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.
- Theo dõi đánh giá tính hiệu nghiệm của cấu trúc tổ chức và tiến hành
những điều chỉnh cần thiết.
Chỉ đạo: Điều khiển hệ thống là cốt lõi của chức năng. Chỉ đạo còn có
tên gọi khác là quá trình chỉ đạo hay tác động. Dù dưới tên gọi nào thì chỉ đạo
bao gồm việc liên kết liên hệ với người khác và động viên họ hoàn thành
những nhiệm vụ nhất định để đạt được những mục tiêu của tổ chức, hay nói
cách khác, chỉ đạo là khả năng gây ảnh hưởng, động viên và chỉ dẫn người
khác nhằm đạt đến mục tiêu mong muốn. Việc chỉ đạo không chỉ bắt đầu khi
việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã hoàn tất, mà nó thấm sâu, ảnh hưởng
quyết định tới hai chức năng kia.
Chỉ đạo tập trung vào các ưu tiên sau:
- Nhận thức, lĩnh hội quan điểm, xây dựng tầm nhìn, lý tưởng, sứ mệnh
của hệ thống.
25

×