Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Hoàn thiện pháp luật về giao dịch chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 167 trang )

1
Lời Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thị trờng chứng khoán tại Việt Nam đã đi vào hoạt động đợc hơn 7
năm. Mặc dù là một lĩnh vực kinh tế còn rất mới mẻ và phức tạp, song đến nay
Nhà nớc ta đã ban hành đợc một hệ thống các văn bản pháp luật khá đầy đủ để
điều chỉnh mọi mặt hoạt động của thị trờng. Đặc biệt, sự ra đời của Luật Chứng
khoán đợc Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã tạo dựng cơ sở
pháp lý ngày càng vững chắc cho sự phát triển của thị trờng.
Tuy nhiên, sự phát triển hết sức sôi động của thị trờng trong một vài năm
gần đây cũng đồng nghĩa với việc các hoạt động giao dịch trên thị trờng diễn ra
ngày càng phức tạp và đa dạng hơn, đặt ra nhiều yêu cầu cho các cơ quan ban
hành văn bản pháp luật phải liên tục có sự điều chỉnh và bổ sung để thích ứng với
sự linh hoạt của thực tiễn thị trờng. Đặc biệt, khi thị trờng bớc vào giai đoạn
có những chuyển biến đột phá về chất và lợng (riêng trong năm 2006, giá trị
vốn hoá toàn thị trờng đã đạt gần 30% GDP, vợt xa mức dự báo về giá trị vốn
hoá toàn thị trờng tới năm 2010 là 15% GDP nêu tại Chiến lợc phát triển thị
trờng chứng khoán đến năm 2010), những đòi hỏi này lại càng cấp thiết. Điều
này đặt ra yêu cầu phải có những nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt
động giao dịch trên thị trờng chứng khoán nói chung, trong đó trọng tâm là thị
trờng giao dịch tập trung, để tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh lĩnh vực kinh tế này một cách hiệu quả.
Trong dài hạn, xây dựng thị trờng chứng khoán phù hợp với định hớng
đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nớc là chủ trơng lớn của Đảng và Nhà
nớc ta nhằm tạo lập kênh huy động vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc. Định hớng này đã đợc khẳng định nhất quán trong văn
kiện Đại hội X của Đảng: "Khẩn trơng nâng cấp và thực hiện các biện pháp
đồng bộ để phát triển nhanh thị trờng chứng khoán thành một kênh huy động
vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Hình thành đồng bộ thể chế về thị
trờng chứng khoán; tăng cờng hỗ trợ của Nhà nớc về kết cấu hạ tầng kỹ


thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho
công chúng tham gia thị trờng này" [13]. Để thực hiện đợc mục tiêu đó, một
trong những giải pháp quan trọng là xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đồng
bộ và hiệu quả cho sự vận hành của thị trờng [69, tr.59]. ở Việt Nam, thị trờng
2
chứng khoán vẫn còn là một định chế tài chính mới mẻ. Các vấn đề pháp lý điều
chỉnh hoạt động của thị trờng mặc dù đã đợc đề cập tại Luật Chứng khoán
2006 nhng vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, đặc biệt là các vấn
đề pháp lý liên quan tới hoạt động giao dịch trên thị trờng giao dịch chứng
khoán tập trung. Kinh nghiệm của các nớc nói chung và của Việt Nam nói riêng
cho thấy, việc hoàn thiện pháp luật về giao dịch chứng khoán có ý nghĩa to lớn
đối với sự phát triển của thị trờng chứng khoán nói riêng, nền tài chính và kinh
tế quốc gia nói chung. Do đó, tôi mạnh dạn chọn vấn đề: "Hoàn thiện pháp luật
về giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung làm đề tài luận án
tiến sĩ luật học của mình. Việc này rất có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị trờng chứng khoán
trong thời gian gần đây đã thu hút đợc sự quan tâm của nhiều nhà khoa học
thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong đó có giới nghiên cứu khoa học pháp lý.
Trong vài năm qua, giới nghiên cứu khoa học pháp lý đã có một số công trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề này, nh: Một số vấn đề pháp lý về đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu t trên thị trờng chứng khoán tập trung
của Th.S Hoàng Thị Quỳnh Chi, "Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Trung
tâm giao dịch chứng khoán ở Việt Nam" của TS. Lê Thị Thu Thuỷ và TS. Nguyễn
Anh Sơn, "Hớng tới một thị trờng chứng khoán hiệu quả ở Việt Nam", Luận án
Tiến sĩ của Nguyễn Thị ánh Vân, Xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thị
trờng chứng khoán ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ của Phạm Thị Giang Thu
Vấn đề này cũng thu hút đợc sự quan tâm chú ý của các nhà kinh tế thuộc Viện
Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ơng (Đề tài khoa học cấp Bộ: Các hạn
chế đối với sự phát triển thị trờng chứng khoán Việt Nam và các giải pháp

chính sách), Bộ Kế hoạch và Đầu t, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nớc
Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã tập trung luận giải
một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về thị trờng chứng khoán Việt Nam. Các công trình nghiên cứu này
chủ yếu nghiên cứu khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trờng chứng
khoán Việt Nam dới góc độ bao quát, tổng thể, từ đó đa ra phơng hớng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về thị trờng chứng khoán Việt Nam nói chung.
Đây là những nền tảng cơ bản cho việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật
về thị trờng chứng khoán ở những khía cạnh hẹp hơn nh: pháp luật về công ty
chứng khoán; pháp luật về hệ thống đăng ký, lu ký, thanh toán bù trừ chứng
khoán; pháp luật về giao dịch chứng khoán
3
Với mục tiêu tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về thị trờng
chứng khoán nói chung và pháp luật về giao dịch chứng khoán nói riêng, tác giả
luận án sẽ tiếp cận vấn đề ở một góc độ đào sâu nghiên cứu một cách cơ bản,
toàn diện, mang tính hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật
điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung
nhằm đa ra cơ sở khoa học, phơng hớng, giải pháp cho việc hoàn thiện pháp
luật về giao dịch chứng khoán trên thị trờng tập trung ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán
trên thị trờng giao dịch tập trung. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các phơng
hớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao dịch chứng khoán, góp phần vào
việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị trờng
chứng khoán tại Việt Nam.
Để đạt đợc mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ
cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh giao
dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung, trong đó tập trung làm rõ

bản chất pháp lý của các giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập
trung và nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động giao dịch trên thị trờng.
- Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành về
giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung. Đánh giá những u
điểm và nhợc điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành về giao dịch chứng
khoán, từ đó rút ra những vấn đề cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện.
- Đề xuất phơng hớng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung ở Việt Nam.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
Đối tợng nghiên cứu của luận án là: pháp luật nớc ngoài và pháp luật
Việt Nam về giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung; thực tiễn
xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật về giao dịch chứng khoán trên thị trờng
tập trung ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận án: việc giới hạn phạm vi nghiên cứu của
luận án này là các giao dịch trên thị trờng giao dịch tập trung vì giao dịch chứng
khoán trên thị trờng giao dịch tập trung là những giao dịch điển hình và phổ
biến nhất của mọi thị trờng chứng khoán. Các giao dịch chứng khoán trên thị
4
trờng giao dịch phi tập trung (OTC) xét về bản chất pháp lý không khác biệt lớn
so với các giao dịch trên thị trờng tập trung (giao dịch trên thị trờng tập trung
đợc đặc trng bởi việc so khớp lệnh tập trung tại một địa điểm là Sở giao dịch
chứng khoán và với nguyên tắc trung gian là một trong các nguyên tắc cơ bản
của thị trờng, trong khi đó giao dịch chứng khoán trên thị trờng OTC đợc đặc
trng bởi tính chất thoả thuận, linh hoạt và phân tán). Do đó, xét về khía cạnh
pháp lý, nghiên cứu giao dịch trên thị trờng tập trung có thể đảm bảo tính toàn
diện và điển hình cho các giao dịch trên thị trờng chứng khoán nói chung. Trong
luận án có đề cập tới một số phân tích về thị trờng giao dịch phi tập trung là để so
sánh, làm rõ các vấn đề cần hoàn thiện đối với thị trờng giao dịch tập trung.
Trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ luật học, không có điều kiện và
không thể giải quyết hết mọi vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động giao dịch

chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung. Vì vậy, khi phân tích thực trạng
pháp luật về giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung ở Việt
Nam, tác giả giới hạn phạm vi đánh giá thực trạng pháp luật thông qua một số
văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động giao dịch của thị trờng giao dịch tập
trung còn có những điểm hạn chế, bất cập, gây ra những ảnh hởng tiêu cực đến
sự phát triển lành mạnh của thị trờng giao dịch tập trung. Các vấn đề pháp luật
khác liên quan tới các lĩnh vực hoạt động khác của thị trờng hoặc liên quan tới
các hoạt động giao dịch ngoài thị trờng tập trung nh thị trờng OTC hoặc thị
trờng tự do là những vấn đề cần đợc tiếp tục nghiên cứu sâu ở các công trình
nghiên cứu khoa học pháp lý khác.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận án sử dụng phơng pháp luận biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Luận án sử dụng các phơng pháp nghiên cứu khoa học nh: phơng pháp
tổng hợp, phân tích, phơng pháp thống kê, phơng pháp so sánh luật học,
phơng pháp logic và lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn
6. Những điểm mới của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau:
- Luận án nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về
pháp luật điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trờng tập trung
để tìm ra những nét đặc thù về mặt pháp lý của giao dịch chứng khoán so với các
giao dịch dân sự, thơng mại khác, trên cơ sở đó tìm ra nét đặc trng chi phối
5
việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với các giao dịch này.
- Luận án đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật điều chỉnh
hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trờng tập trung ở Việt Nam. Bên cạnh
việc phân tích những u điểm, luận án đi sâu phân tích những điểm còn bất cập,
hạn chế và nguyên nhân của sự hạn chế đó. Việc đánh giá và phân tích đợc tiến
hành toàn diện trên các khía cạnh pháp lý của giao dịch chứng khoán, bao gồm:

pháp luật về tổ chức thị trờng giao dịch tập trung, pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể trong giao dịch, pháp luật về hàng hoá là đối tợng của giao
dịch, pháp luật về cơ chế giao dịch và pháp luật về xử lý vi phạm và giải quyết
tranh chấp liên quan tới giao dịch chứng khoán. Trên cơ sở đó, luận án khẳng
định sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm đáp ứng tốt
hơn việc điều chỉnh hoạt động giao dịch trên thị trờng chứng khoán đang trong giai
đoạn phát triển nhanh và mạnh về quy mô và chất lợng ở Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu xu hớng phát triển và thực tiễn áp dụng pháp luật
về giao dịch chứng khoán ở một số nớc và ở Việt Nam, luận án đề xuất những
phơng hớng và giải pháp chính nhằm hoàn thiện pháp luật về giao dịch chứng
khoán trên thị trờng tập trung ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án bao gồm 3 chơng:
Chơng 1: Lý luận về pháp luật điều chỉnh các giao dịch chứng khoán trên
thị trờng giao dịch tập trung
Chơng 2: Thực trạng pháp luật về giao dịch chứng khoán trên thị trờng
giao dịch tập trung tại Việt Nam.
Chơng 3: Phơng hớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao dịch
chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung tại Việt Nam.
6
Chơng 1
lý luận về pháp luật điều chỉnh các giao dịch chứng
khoán trên thị trờng giao dịch tập trung
1.1. tổng quan về giao dịch chứng khoán trên thị trờng
giao dịch tập trung
1.1.1. Khái niệm thị trờng giao dịch tập trung
1.1.1.1 Khái niệm thị trờng chứng khoán
Thị trờng chứng khoán đợc xem là đặc trng cơ bản, là biểu tợng của
nền kinh tế hiện đại. Là một bộ phận cấu thành của thị trờng tài chính, thị

trờng chứng khoán đợc hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch
mua bán, trao đổi các chứng khoán giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua
bán này đợc thực hiện theo những quy tắc ấn định trớc [65, tr.15].
Trong các văn bản pháp luật về thị trờng chứng khoán của các nớc, hầu
nh không đa ra định nghĩa nh thế nào là thị trờng chứng khoán. Hiện nay, có
nhiều quan niệm khác nhau về thị trờng chứng khoán, song chủ yếu các quan
điểm này nghiên cứu thị trờng chứng khoán dới góc độ kinh tế và gắn nó trong
mối quan hệ với thị trờng tài chính. Theo Giáo trình Thị trờng Chứng khoán
của Trờng Đại học Kinh tế Quốc dân tổng kết một số quan điểm về thị trờng
chứng khoán nh sau: (i) quan điểm thứ nhất cho rằng thị trờng chứng khoán và
thị trờng vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: thị
trờng t bản (capital market). Nếu xét về mặt nội dung thì thị trờng vốn biểu
hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. Thị
trờng chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do
đó, các thị trờng này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng
phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trờng t bản. (ii) Quan
điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng thị trờng chứng khoán đợc đặc
trng bởi thị trờng vốn chứ không phải đồng nhất là một. Nh vậy, theo quan
điểm này, thị trờng chứng khoán và thị trờng vốn là khác nhau, trong đó thị
trờng chứng khoán chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài
hạn nh trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài
chính ngắn hạn đợc giao dịch trên thị trờng tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt
động của thị trờng chứng khoán. (iii) Quan điểm thứ ba dựa trên các quan sát
thực tế hoạt động của đa số các Sở giao dịch chứng khoán và cho rằng thị trờng
chứng khoán là thị trờng mua bán cổ phiếu do các công ty cổ phần phát hành ra
để huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trờng chứng khoán đợc đặc trng bởi
7
thị trờng mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu, còn
những công cụ nợ khác thì không thuộc phạm vi của thị trờng này [65, tr.19].
Các quan điểm về thị trờng chứng khoán dới góc độ kinh tế mặc dù ở

khía cạnh này hay khía cạnh khác đều phản ánh đợc tính chất và biểu hiện của
thị trờng chứng khoán song đã đi từ chỗ quá rộng (đồng nhất với thị trờng vốn)
đến chỗ quá hẹp (chỉ là thị trờng cổ phiếu). Các quan điểm này cũng không nêu
bật đợc đặc thù của thị trờng chứng khoán thể hiện qua những đặc tính cơ bản
của hàng hoá giao dịch trên thị trờng. Quan điểm thứ hai đã bớc đầu tiếp cận
dới góc độ đặc tính cơ bản của hàng hoá là chứng khoán, song cũng chỉ mới
dừng lại ở tính kỳ hạn của chứng khoán (thị trờng chứng khoán chỉ giao dịch,
mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn nh trái phiếu chính phủ, cổ
phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn đợc giao dịch trên
thị trờng tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của thị trờng chứng khoán).
Tuy nhiên, đây cha phải là những đặc tính quan trọng nhất của chứng khoán.
Một số cuốn Từ điển về thuật ngữ tài chính trên thế giới tiếp cận khái niệm
thị trờng chứng khoán dựa trên loại hàng hoá mà nó giao dịch nhng cũng
không đề cập cụ thể tới tính chất của hàng hoá đó. Ví dụ Từ điển kỹ thuật về thị
trờng chứng khoán và thị trờng tài chính định nghĩa:

Thị trờng chứng khoán
là thị trờng chính thức và công khai, nơi niêm yết và giao dịch các loại chứng
khoán đã đăng ký niêm yết [104, tr.72], hoặc Từ điển Pháp luật (Barrons) định
nghĩa:

Thị trờng chứng khoán là thị trờng có tổ chức, nơi các cổ phiếu và trái
phiếu đợc giao dịch một cách sôi động thông qua Sở giao dịch chứng khoán
hoặc thị trờng OTC [100, tr.488]. Định nghĩa nêu trên khiến ngời đọc không
có một hình dung rõ ràng về sự khác biệt giữa thị trờng chứng khoán và các thị
trờng hàng hoá khác.
Dới góc độ pháp lý, tác giả luận án cho rằng cần tiếp cận khái niệm thị
trờng chứng khoán dựa trên những đặc trng pháp lý cơ bản của hàng hoá giao
dịch trên thị trờng, đó là: thị trờng chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch
mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán đợc hiểu là các loại giấy

tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu
nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu
này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của
chúng. Khái niệm này, theo tác giả, phản ánh đợc đặc trng của thị trờng
chứng khoán so với các thị trờng hàng hoá khác thể hiện ở tính chất đặc thù của
loại hàng hoá đợc giao dịch trên thị trờng đó (xem chi tiết phần 1.1.2.2, trang
8
15 luận án).
1.1.1.2. Thị trờng giao dịch tập trung khái niệm và nguyên tắc hoạt động
Căn cứ vào sự luân chuyển vốn, thị trờng chứng khoán đợc chia thành
(i) thị trờng sơ cấp và (ii) thị trờng thứ cấp.
(i) Thị trờng sơ cấp là thị trờng mua bán các chứng khoán mới phát
hành. Trên thị trờng này vốn từ nhà đầu t đợc chuyển sang nhà phát hành
thông qua việc nhà đầu t mua chứng khoán mới phát hành và vì vậy thị trờng
sơ cấp là nơi huy động vốn cho doanh nghiệp [32, tr.19].
(ii) Thị trờng thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã đợc phát hành
trên thị trờng sơ cấp. Thị trờng thứ cấp có hai chức năng: thứ nhất là tạo tính
thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành, tức là tạo điều kiện cho việc
mua bán chứng khoán đợc tiến hành nhanh chóng và thuận tiện; thứ hai, xác lập
giá chứng khoán căn cứ theo cung cầu thị trờng [32, tr.19].
Thị trờng thứ cấp đợc tổ chức theo ba phơng thức: thị trờng giao dịch
tập trung, thị trờng phi tập trung và thị trờng thứ ba.
Thị trờng giao dịch tập trung là thị trờng mà các giao dịch đợc tổ chức
tập trung theo một địa điểm vật chất dới dạng các Sở giao dịch chứng khoán
[58, tr.17], tại đó ngời mua và ngời bán (hay đại diện và những nhà môi giới
của họ) gặp nhau để tiến hành giao dịch. Vì vậy "ngời ta còn gọi Sở giao dịch
chứng khoán là thị trờng tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi các chứng
khoán của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả" [65, tr.23-24]. Giá cả của
chứng khoán tại thị trờng giao dịch tập trung đợc xác lập chủ yếu qua cơ chế
đấu lệnh tập trung.

Thị trờng giao dịch tập trung phân biệt với thị trờng giao dịch phi tập
trung (Over-the-counter, OTC) ở chỗ: thị trờng OTC là thị trờng mà hoạt động
giao dịch đợc thực hiện thông qua mạng lới máy tính điện tử diện rộng chứ
không có địa điểm giao dịch tập trung nh đối với thị trờng giao dịch tập trung.
Cơ chế xác lập giá trong thị trờng OTC chủ yếu là cơ chế thơng lợng giá giữa
bên mua và bên bán chứ không bằng đấu giá tập trung nh thị trờng sở giao
dịch. Chứng khoán giao dịch trên thị trờng OTC chủ yếu là chứng khoán của
các công ty vừa và nhỏ, công ty công nghệ cao, công ty mới thành lập nhng có
tiềm năng phát triển tốt, cũng có thể nói là chứng khoán cha đủ tiêu chuẩn niêm
yết và có độ rủi ro cao hơn so với chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập
trung. Tuy nhiên, với sự phát triển của thị trờng chứng khoán hiện đại và với
những ứng dụng ngày càng sâu rộng của công nghệ thông tin vào hoạt động của
9
thị trờng chứng khoán, sự phân biệt giữa thị trờng giao dịch tập trung và thị
trờng giao dịch phi tập trung ngày càng mờ nhạt và chỉ mang tính tơng đối.
Đây cũng chính là quan điểm của nhiều nhà quản lý đối với thị trờng OTC hiện
đại [26, tr.6]. Tác giả Lê Thị Mai Linh cho rằng, cần phải phân biệt giữa thị
trờng OTC truyền thống và thị trờng OTC hiện đại. Thị trờng OTC truyền
thống là thị trờng có hình thức tổ chức giao dịch mua bán phi tập trung với
nghĩa là không có địa điểm, vị trí giao dịch tập trung giữa bên mua và bên bán
nh đối với thị trờng giao dịch tập trung. Còn thị trờng OTC hiện đại là thị
trờng có thể kết hợp các hình thức giao dịch tập trung và phi tập trung, trong đó
hình thức giao dịch tập trung đợc tổ chức giống Sở giao dịch (ví dụ, NASDAQ
là thị trờng OTC nổi tiếng nhất của Mỹ ngày 13/1/2006 vừa qua đã đợc Uỷ ban
Giao dịch và Chứng khoán Mỹ phê chuẩn để trở thành một Sở giao dịch chứng
khoán), còn hình thức giao dịch phi tập trung cũng đợc tổ chức tập trung hơn
Sở giao dịch chứng khoán và thị trờng OTC truyền thống nhờ có mạng máy tính
điện tử diện rộng [71, tr.7].
Ngoài hai loại thị trờng nêu trên, ngời ta còn nói đến thị trờng thứ ba là
thị trờng trong đó hoạt động giao dịch chứng khoán đợc thực hiện tự do, phân tán,

không qua thị trờng giao dịch tập trung và cũng không qua thị trờng OTC.
Cho dù hiện nay thị trờng phi tập trung đã có những biến thái đa dạng,
thậm chí phát triển gần giống thị trờng tập trung, song thị trờng giao dịch tập
trung vẫn đợc coi là thị trờng truyền thống, điển hình và là thị trờng cơ bản,
là bộ mặt của mọi thị trờng chứng khoán. Khi nhắc đến thị trờng chứng khoán
của một quốc gia, trớc tiên ngời ta nhắc đến thị trờng giao dịch tập trung - Sở
giao dịch chứng khoán của quốc gia đó, ví dụ: Sở giao dịch chứng khoán New
York, Sở giao dịch chứng khoán TokyoThị trờng chứng khoán ngày càng có
nhiều biến đổi, đặc biệt là do ảnh hởng của cách mạng công nghệ thông tin,
song những nguyên tắc vận hành cơ bản của một thị trờng chứng khoán vẫn
không thay đổi và đợc thể hiện tập trung nhất qua các nguyên tắc hoạt động của
các Sở giao dịch chứng khoán. Hoạt động giao dịch thông qua các Sở giao dịch
chứng khoán là cơ sở cho hoạt động giao dịch của các thị trờng chứng khoán
khác nh thị trờng giao dịch chứng khoán phái sinh hoặc thị trờng OTC. Giá
cả và các động thái thị trờng diễn ra trên Sở giao dịch chứng khoán có tác động
trực tiếp đến toàn bộ thị trờng chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Thị trờng giao dịch tập trung vận hành trên cơ sở những quy luật của mọi thị
trờng hàng hoá khác nh quy luật cung cầu và quy luật giá trị. Tuy nhiên, do chứng
10
khoán là hàng hoá giao dịch trên thị trờng là loại tài sản đặc biệt nên thị trờng
giao dịch tập trung còn vận hành trên cơ sở các nguyên tắc đặc thù khác, đó là
nguyên tắc trung gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai [32, tr.56-60].
Nguyên tắc trung gian: ngời mua và ngời bán chứng khoán trên thị
trờng chứng khoán không tiến hành mua bán trực tiếp mà phải thông qua các
trung gian môi giới. Trung gian môi giới chứng khoán gồm 2 loại: ngời môi giới
chứng khoán (brokers) và ngời buôn bán chứng khoán (dealers).
Ngời môi giới hởng hoa hồng trên cơ sở tiến hành môi giới giao dịch
cho khách hàng (nhà đầu t). Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng, nhà môi giới có
thể cung cấp dịch vụ môi giới trọn gói, từ đại diện thơng lợng mua bán chứng
khoán cho đến thay mặt khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan quyền sở

hữu chứng khoán, t vấn đầu t chứng khoán hoặc chỉ cung cấp một dịch vụ môi
giới đơn thuần, nghĩa là làm trung gian giao dịch chứng khoán.
Khác với ngời môi giới, ngời buôn bán chứng khoán tiến hành giao dịch
cho chính mình để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trên thị trờng chứng khoán sự
có mặt của những ngời buôn bán chứng khoán có vai trò nh những nhà tạo lập
thị trờng (market maker): mua vào chứng khoán khi giá hạ và bán ra khi giá
cao, góp phần điều tiết cung cầu thị trờng và đảm bảo cho thị trờng vận hành
liên tục, không bị gián đoạn.
Nguyên tắc công khai: quyết định của nhà đầu t phụ thuộc phần lớn vào
những thông tin mà họ có đợc về chứng khoán, do vậy, thông tin là yếu tố có
tầm quan trọng đặc biệt đối với thị trờng chứng khoán. Công bằng, công khai và
minh bạch đợc coi là nguyên tắc đặc thù của thị trờng chứng khoán. Mọi thông
tin về chứng khoán giao dịch trên thị trờng, tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh của công ty có chứng khoán niêm yết, số lợng, giá cả chứng khoán,
những thông tin khác có thể ảnh hởng đến giá chứng khoán đều phải đợc công
bố một cách công khai, chính xác và kịp thời trên các phơng tiện thông tin đại
chúng. Hành vi sử dụng thông tin nội bộ hoặc thông tin cha đợc phép công bố
chính thức để tiến hành giao dịch chứng khoán thu lợi nhuận bị coi nh hành vi
giao dịch nội gián và bị cấm.
Nguyên tắc cạnh tranh tự do thông qua đấu giá chứng khoán: trên cơ sở
quan hệ cung cầu, giá chứng khoán đợc xác định thông qua đấu giá cạnh tranh
bình đẳng trên thị trờng. Trên thị trờng sơ cấp thông qua đấu giá để xác định
giá phát hành chứng khoán. Trên thị trờng thứ cấp tuỳ theo mô hình thị trờng
việc định giá chứng khoán đợc thực hiện theo phơng pháp đấu giá hoặc đấu
11
lệnh. Theo phơng pháp đấu giá, các nhà môi giới đóng vai trò nh những nhà
tạo lập thị trờng, đa ra mức giá chào bán và chào mua tốt nhất cho mỗi loại
chứng khoán. Trên cơ sở đó, nhà đầu t lựa chọn mức giá tốt nhất với họ và tiến
hành giao dịch với nhà tạo lập thị trờng. Giá cả đợc xác định thông qua cạnh
tranh giữa các nhà tạo lập thị trờng. Theo phơng pháp đấu lệnh, các lệnh

mua/bán chứng khoán sẽ đợc tập trung và so khớp trực tiếp về mức giá và khối
lợng để tìm ra mức giá thoả mãn cả bên mua và bán mà không cần vai trò của
nhà tạo lập thị trờng.
1.1.2. Giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung
1.1.2.1 Khái niệm giao dịch chứng khoán
Tiếp cận khái niệm giao dịch chứng khoán trớc hết cần phải trên cơ sở
khái niệm pháp lý về giao dịch và giao dịch dân sự nói chung.
Theo nghĩa rộng, giao dịch chứng khoán có thể hiểu là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phơng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ đối với chứng khoán. Điều 121 Bộ luật Dân sự Việt Nam (2005) quy định:
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phơng làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo nghĩa này, giao dịch
chứng khoán bao gồm 2 dạng: hợp đồng song vụ làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ về chứng khoán (cụ thể là hợp đồng mua bán chứng
khoán trên thị trờng chứng khoán nói chung) và hành vi pháp lý đơn phơng về
chứng khoán, ví dụ: lập di chúc, hởng thừa kế chứng khoán.
Các luật gia nhìn chung đều thừa nhận quan điểm này. Tác giả Belykh C.A
cho rằng, theo nghĩa rộng, giao dịch chứng khoán là bất kỳ giao dịch dân sự nào
mà khi thực hiện chúng làm phát sinh việc chuyển quyền sở hữu chứng khoán từ
chủ thể này sang chủ thể khác [2, tr.143] và phạm vi của các giao dịch có thể
diễn ra ở mọi thị trờng giao dịch chứng khoán (bao gồm thị trờng giao dịch tập
trung, thị trờng giao dịch phi tập trung và thị trờng thứ ba). Đồng ý với quan
điểm này, tác giả Nguyễn Kiều Giang cũng cho rằng pháp luật điều chỉnh các
giao dịch này cũng cần đợc hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả pháp luật dân sự
và pháp luật chứng khoán (với t cách là pháp luật chuyên ngành) [16].
Theo nghĩa hẹp, giao dịch chứng khoán là hợp đồng mua bán chứng khoán
trên thị trờng giao dịch tập trung. Theo nghĩa này, giao dịch chứng khoán đợc
giới hạn ở hợp đồng song vụ về mua bán chứng khoán, và phạm vi hợp đồng chỉ
diễn ra trên thị trờng giao dịch tập trung (không phải là toàn bộ thị trờng
chứng khoán nói chung). Cũng đồng quan điểm nh vậy nhng xem xét vấn đề

12
dới một góc độ khác, T.S Nguyễn Kiều Giang cho rằng, theo nghĩa hẹp, giao
dịch chứng khoán chỉ là các giao dịch mua bán chứng khoán đợc thực hiện giữa
các chủ thể mà trong đó ít nhất một bên phải là chủ thể đợc phép kinh doanh
chứng khoán. Các giao dịch loại này chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên
ngành là pháp luật chứng khoán. Các nhà làm luật Việt Nam quan niệm giao
dịch chứng khoán theo nghĩa hẹp, tức là chỉ giới hạn trong việc mua, bán chứng
khoán đã phát hành phù hợp với quy định của pháp luật chứng khoán [16]. Mặc
dù đợc diễn đạt theo một cách khác, song trong quan điểm này cũng chứa đựng
hai nội dung: thứ nhất, giao dịch chứng khoán chỉ đợc giới hạn trong những
giao dịch trên thị trờng tập trung (là các giao dịch bắt buộc thực hiện thông qua
trung gian - nguyên tắc cơ bản của thị trờng giao dịch tập trung); thứ hai, pháp
luật điều chỉnh các giao dịch này là pháp luật theo nghĩa hẹp, nghĩa là chỉ bao
gồm pháp luật chuyên ngành là pháp luật chứng khoán.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, luận án giới hạn nghiên cứu
giao dịch chứng khoán theo nghĩa hẹp, nghĩa là các giao dịch mua bán chứng
khoán trên thị trờng giao dịch tập trung và do pháp luật về chứng khoán và thị
trờng chứng khoán điều chỉnh, vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung là
những giao dịch điển hình và phổ biến nhất của mọi thị trờng chứng khoán. Các
giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch phi tập trung xét về bản chất
pháp lý không khác biệt lớn so với các giao dịch trên thị trờng tập trung (giao
dịch trên thị trờng tập trung đợc đặc trng bởi việc so khớp lệnh tập trung tại
một địa điểm là Sở giao dịch chứng khoán và với nguyên tắc trung gian là một
trong các nguyên tắc cơ bản của thị trờng, trong khi đó giao dịch chứng khoán
trên thị trờng giao dịch phi tập trung đợc đặc trng bởi tính chất thoả thuận,
linh hoạt và phân tán). Do đó, xét về khía cạnh pháp lý, nghiên cứu giao dịch trên
thị trờng tập trung có thể đảm bảo tính toàn diện và điển hình cho các giao dịch
trên thị trờng chứng khoán nói chung.
Thứ hai, các giao dịch chứng khoán là hành vi pháp lý đơn phơng mặc

dù cũng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với chứng
khoán song chỉ là những giao dịch đơn lẻ, và không thực hiện qua hệ thống giao
dịch của thị trờng chứng khoán (chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật dân sự), do
vậy không mang tính phổ biến, điển hình và không thuộc phạm vi nghiên cứu của
luận án.
1.1.2.2. Đặc điểm pháp lý của giao dịch chứng khoán
13
Giao dịch chứng khoán, với ý nghĩa là một giao dịch dân sự theo nghĩa
hẹp, trớc hết chứa đựng những đặc điểm pháp lý của một hợp đồng dân sự nói
chung. Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 388 Bộ luật Dân sự). Tuy
nhiên, do giao dịch chứng khoán có nhiều đặc thù xuất phát từ: (i) tính chất đặc
biệt của chứng khoán là hàng hoá - đối tợng giao dịch trong hợp đồng mua bán
chứng khoán; (ii) mục đích mua bán chứng khoán là tìm kiếm lợi nhuận; (iii)
luôn có sự tham gia của các thơng nhân là ngời môi giới chứng khoán nên các
giao dịch chứng khoán đợc pháp luật của nhiều nớc trên thế giới coi là hành vi
thơng mại điển hình [66, tr.16].
Điều 632 Bộ luật thơng mại Pháp (1807) (sửa đổi bởi Luật ngày
13/7/1967 và Luật ngày 9/1/1970) coi các hành vi thơng mại do bản chất bao
gồm các hoạt động ngân hàng hay hối đoái hoặc hành vi thơng mại phụ thuộc
bao gồm các hành vi nh trái vụ giữa các nhà kinh doanh, các thơng nhânBộ
luật Thơng mại Nhật Bản cũng liệt kê các giao dịch thơng mại tại Điều 501,
502, 503, trong đó những giao dịch về chứng khoán, những giao dịch có liên
quan đến hối phiếu và các chứng từ thơng mại khác đợc coi là những giao
dịch thơng mại thuần tuý. Hoặc Bộ luật Thơng mại và Dân sự Thái Lan quy
định các hành vi thơng mại bao gồm: mua bán hàng hoá, thuê tài sản, thuê mua
tài sản, thuê thầu khoán, vận tải, đại lý, đại diện, môi giới, bảo hiểm, hoạt động
của các hội kinh doanh và công ty.
Bộ luật Thơng mại Đức theo đuổi hệ thống chủ thể, coi thơng nhân là
điểm mấu chốt cho các quy định. Một hành vi có đợc coi là hành vi thơng mại

hay không, phụ thuộc vào chủ thể thực hiện hành vi đó có phải là thơng gia hay
không. Theo Luật này, những ngời đợc coi là thơng gia đơng nhiên là những
ngời thực hiện các hoạt động kinh doanh thơng mại (ngời hành nghề thơng
mại) bao gồm các việc: mua bán hàng hoá giấy tờ có giá; (khoản 2, Điều 1).
Luật mẫu về Thơng mại điện tử của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật
thơng mại Quốc tế (UNCITRAL) tiếp cận khái niệm hành vi thơng mại ở góc
độ rộng hơn:

thuật ngữ

thơng mại

cần đợc diễn giải theo nghĩa rộng để bao
quát các vấn đề nảy sinh từ mọi mối quan hệ mang tính chất thơng mại, dù có
hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thơng mại bao gồm, nhng
không phải chỉ bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thơng mại nào
về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá và dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện
hoặc đại lý thơng mại

14
ở Việt Nam, thời kỳ đầu, Luật Thơng mại (1997) coi hành vi thơng mại
là hành vi của thơng nhân trong hoạt động thơng mại, theo quy định tại Điều
45 chỉ bao gồm 14 hành vi là: mua bán hàng hoá, đại diện cho thơng nhân, môi
giới thơng mại, uỷ thác, đại lý mua bán hàng hoá, gia công trong thơng mại,
đấu giá, đấu thầu, dịch vụ giao thầu, giám định hàng hoá, khuyến mại, quảng cáo
thơng mại, trng bầy, giới thiệu hàng hoá, hội chợ, triển lãm thơng mại. Ngoài
việc bị giới hạn bởi nội hàm của khái niệm thơng mại, phạm vi áp dụng của
Luật Thơng mại (1997) còn bị giới hạn bởi nội hàm của khái niệm hàng hoá,
theo đó chứng khoán (bao gồm cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác) không đợc
coi là hàng hoá (Điều 5 khoản 3). Những hạn chế này đã dẫn đến những bất cập

của pháp luật thơng mại Việt Nam so với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế [22, tr.32-39]; [33, tr.112], đặc biệt khi thị trờng chứng khoán
đang trong quá trình phát triển.
Nhằm khắc phục những bất cập trên, Luật Thơng mại (2005) xác định
phạm vi khái niệm thơng mại theo nghĩa rộng hơn. Khoản 1 Điều 3 quy định:
hoạt động thơng mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu t, xúc tiến thơng mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác. Trong hoạt động thơng mại, hình thức pháp lý của hành
vi thơng mại chính là hợp đồng thơng mại [34, tr.24]. Nh vậy, có thể thấy,
hợp đồng thơng mại có các đặc điểm đặc trng cơ bản sau: một là, chủ thể hợp
đồng là thơng nhân (hoặc ít nhất một bên là thơng nhân); hai là, mục đích của
hợp đồng là phục vụ hoạt động thơng mại của thơng nhân, nhằm mục đích xa hơn
là tìm kiếm lợi nhuận. Với những đặc trng này, có thể coi giao dịch chứng khoán là
một dạng của hợp đồng thơng mại theo quy định tại Luật Thơng mại (2005).
Với tính chất là một loại giao dịch đặc thù của nền kinh tế, giao dịch
chứng khoán còn có những đặc điểm đặc thù, chi phối nội dung và phơng thức
các quy phạm pháp luật điều chỉnh loại giao dịch này, đó là: (1) Hàng hoá (đối
tợng của giao dịch) là tài sản đặc biệt; (2) Giao dịch chứng khoán có tính hệ
thống và tính tập trung cao; (3) Chủ thể giao dịch không xác định; (4) Xung đột
lợi ích đan xen phức tạp trong giao dịch; (5) Tính đặc thù trong thể hiện các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng;
(1) Hàng hoá (đối tợng của giao dịch) là tài sản đặc biệt
Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:

Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản

. Chứng khoán, theo quy định tại khoản 1 Điều 6
15
Luật Chứng khoán 2006


là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
ngời sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành

đợc coi là
tài sản. Pháp luật dân sự các nớc cũng thừa nhận chứng khoán là tài sản, ví dụ
Khoản 1 Điều 142 Bộ luật Dân sự Liên bang Nga ngày 21/10/1994 quy định:
"Chứng khoán là chứng chỉ xác nhận quyền tài sản, đợc lập tuân thủ cách trình
bày đã đợc quy định với những nội dung bắt buộc mà khi xuất trình chính chứng
chỉ thì mới thực hiện hoặc chuyển giao đợc các quyền ghi trong chứng chỉ";
Điều 529 Bộ luật Dân sự Pháp quy định:

Đợc coi là động sản theo luật định,
các trái phiếu và cổ phiếu trị giá bằng tiền hay bằng đồ vật, các cổ phần hay lãi
suất trong các công ty tài chính, thơng mại hay công nghiệp, các bất động sản
dùng vào kinh doanh là tài sản của công ty.
Dới góc độ pháp lý, chứng khoán đợc coi là tài sản đặc biệt, thể hiện ở
những điểm sau đây:
Thứ nhất, chứng khoán là tài sản có thể tồn tại ở cả hai dạng: vật chất và
phi vật chất (hữu hình và vô hình).
Chứng khoán có thể tồn tại dới hai dạng: chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ,
hay nói cách khác, dới dạng vật chất hoặc phi vật chất. Khái niệm phi vật chất ở
đây không có nghĩa là không tồn tại dới bất kỳ một dạng vật chất vật lý nào, mà
cần đợc hiểu phi vật chất theo nghĩa pháp lý, nghĩa là chỉ có nhận biết sự tồn tại
của tài sản, mà không có khả năng cầm nắm, chuyển dịch, cất giữ nh các loại tài
sản hữu hình khác. Phi vật chất hoá chứng khoán là điều kiện tiên quyết để lu
giữ tập trung chứng khoán theo hình thức ghi sổ, phục vụ cho việc bù trừ và
thanh toán các giao dịch chứng khoán thông qua hệ thống của Trung tâm đăng
ký, lu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. Khi đó, việc thanh toán giao dịch
sẽ không phải tiến hành bằng chuyển giao vật chất mà chỉ đơn giản chuyển từ tài

khoản của bên bán sang bên mua, đáp ứng đợc nhu cầu xử lý một khối lợng
lớn giao dịch trong thời gian ngắn và đảm bảo chính xác cao. Hiện nay, ở hầu hết
các thị trờng phát triển, phi vật chất hoá chứng khoán đợc tiến hành ngay từ
thời điểm phát hành, nghĩa là chứng khoán đợc phát hành dới dạng bút toán
ghi sổ ngay từ đầu, hoàn toàn không tồn tại chứng chỉ vật chất, ví dụ Pháp, Đan
Mạch, Nauy Kể từ Luật số 81-1160 ngày 30/12/1981 về Phi vật chất hoá chứng
khoán của Pháp, chứng khoán đợc coi là tài sản vô hình. Ngay cả những quyền
gắn liền với chứng khoán (quyền nhận cổ tức, các quyền u đãi ) cũng đợc coi
nh chứng khoán và cũng đợc thể hiện dới dạng bút toán ghi sổ.
16
Vấn đề xác định chứng khoán là tài sản vô hình hay tài sản hữu hình có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt pháp lý, nhất là khi Việt Nam đang nỗ lực tiến
dần đến môi trờng phi vật chất hoá hoàn toàn chứng khoán, bởi vì các quy tắc
thông thờng của Dân luật liên quan tới sở hữu và chuyển nhợng cùng với
những quyền gắn với tài sản vật chất có rất nhiều điểm khác biệt so với tài sản
phi vật chất (ví dụ: đối với tài sản vật chất, quyền chiếm hữu có vị trí đặc biệt
quan trọng so với các quyền năng khác của quyền sở hữu. Tuy nhiên, đối với tài
sản phi vật chất, quyền chiếm hữu không có ý nghĩa nh vậy). Mặt khác, phi vật
chất hoá chứng khoán sẽ kéo theo hai hệ quả bắt buộc liên quan đến quyền năng
chiếm giữ và định đoạt của chủ sở hữu chứng khoán: (1) nghĩa vụ phải gửi toàn
bộ chứng khoán vào một ngời trung gian nắm giữ; (2) cơ chế không thể chuyển
đổi ngợc lại (l

irréversibilité), nghĩa là không cho phép chuyển ngợc từ chứng
khoán dới dạng bút toán ghi sổ thành chứng khoán dới dạng vật chất. Hệ quả
thứ hai này khá phổ biến ở các nớc Châu Âu. Đây là những vấn đề pháp lý có ý
nghĩa quan trọng đặt ra khi tơng lai về một thị trờng phi vật chất hoá hoàn toàn
chứng khoán tại Việt Nam đang đến gần. Đây cũng là vấn đề đã và đang đặt ra
đối với pháp luật về chứng khoán của rất nhiều nớc. Để xử lý vấn đề này, pháp
luật chứng khoán thế giới có hai cách tiếp cận khác nhau:

Một là, pháp luật các nớc quy định trong Bộ Luật Dân sự hoặc Luật
Thơng mại theo hớng điều chỉnh tính đến đặc thù của tài sản phi vật chất. Ví
dụ: năm 1995, Bộ luật Thơng mại Hàn Quốc đợc sửa đổi để thừa nhận và
hớng dẫn sử dụng hệ thống xử lý dữ liệu điện tử trong việc ghi nhận giao dịch
hoặc đăng ký thơng mại.
Hai là, ban hành Luật chuyên ngành điều chỉnh riêng vấn đề phi vật chất
hoá chứng khoán và chuyển nhợng chứng khoán phi vật chất. Đây là cách tiếp
cận phổ biến hơn cả. Ví dụ: Nhật Bản ban hành Luật chuyển nhợng bằng ghi sổ
trái phiếu công ty và các loại trái phiếu khác (Luật số 75 năm 2001), trong đó đề
cập tới thủ tục chuyển nhợng, hiệu lực của việc chuyển nhợng bằng ghi sổ,
điều kiện và cách thức sử dụng trái phiếu ghi sổ làm tài sản thế chấp trong giao
dịchTiếp theo, năm 2004, Nhật Bản tiếp tục ban hành Luật chuyển nhợng
chứng khoán, tạo điều kiện cho việc phi vật chất hoá mọi loại chứng khoán, phù
hợp với các tiêu chuẩn của thị trờng quốc tế và các hệ thống tài chính khác.
Tơng tự nh vậy, Pháp ban hành Luật số 81-1160 ngày 30/12/1981 về phi vật
chất hoá chứng khoán, trong đó nêu rõ một số quy định của Bộ Luật Dân sự Pháp
17
không có giá trị áp dụng đối với chứng khoán ghi sổ, ví dụ: kể từ ngày Luật này
có hiệu lực, Điều 2279 Bộ luật Dân sự Pháp Về động sản, ngời chiếm giữ đợc
coi là chủ sở hữu sẽ không còn áp dụng đối với chứng khoán niêm yết mà chỉ có
giá trị trong trờng hợp chuyển giao trao tay chứng khoán vật chất. Trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng, từ lâu các nhà làm luật của Pháp đã thừa nhận tính vô
hình của các công cụ tài chính tiền tệ, thể hiện ở nhiều bản án với kết luận rằng
việc thay đổi các bút toán ghi sổ từ ngời mua sang ngời bán thực hiện thông
qua tổ chức trung gian (ở đây là ngân hàng) có giá trị tơng đơng nh một
chuyển nhợng tài sản vật chất. Một số bản án cụ thể nh: Toà Phá án trong
quyết định ngày 6/3/1996 của mình đã quyết định việc tặng cho tài sản tài chính
có hiệu lực ở thời điểm chuyển tài sản từ bút toán của ngời cho sang ngời
nhận, và lần thứ hai trong quyết định ngày 10/5/1998 cũng khẳng định điều này
đối với trờng hợp tặng cho cổ phiếu ghi danh phi vật chất hoá [103, tr.47].

Thứ hai, chứng khoán giao dịch trên thị trờng tập trung phải là vật cùng loại.
Chứng khoán đợc niêm yết và giao dịch qua thị trờng giao dịch tập
trung phải là vật cùng loại, có nghĩa là chúng có cùng một chất lợng và có thể
thay thế cho nhau trong quá trình chuyển nhợng. Chứng khoán mang tính đặc
định (việc chuyển nhợng không đợc thực hiện tự do mà phải tính đến nhân
thân của chủ sở hữu chứng khoán) không phải là đối tợng của các giao dịch
thông qua thị trờng này. Mặt khác, chứng khoán đợc mua bán trên thị trờng
tập trung phải là cùng loại mới có thể đáp ứng đợc các tiêu chuẩn về lu ký và
giao dịch. Cổ phiếu và trái phiếu đa vào giao dịch phải đợc chuẩn hoá về mệnh
giá và kỳ hạn (đối với trái phiếu) (Khoản 2 Điều 10 Luật Chứng khoán). Đây là
điều kiện quan trọng để Trung tâm lu ký thực hiện nghiệp vụ lu ký tổng hợp
(trong trờng hợp ngời sở hữu yêu cầu rút chứng khoán vật chất, Trung tâm lu
ký không có nghĩa vụ trả lại chính chứng khoán đã đợc gửi giữ, mà chỉ phải trả
lại chứng khoán có các quyền tơng đơng với chứng khoán đã đợc lu ký).
Nh vậy, tài sản gửi giữ ở đây là các chứng khoán có thể hoán đổi, và khách hàng
chủ sở hữu đích thực của chứng khoán trở thành ngời đồng sở hữu chứng
khoán tổng hợp.
Lý thuyết theo đó nghiệp vụ gửi giữ chứng khoán trên cơ sở có thể hoán
đổi tài sản gửi giữ tơng đơng là một thực tiễn pháp lý đợc thừa nhận ở nhiều
nớc trên thế giới, từ các nớc Châu Âu đến Nhật Bản và Mỹ.
Thứ ba, chứng khoán là tài sản có khả năng chuyển nhợng đặc biệt
Tính có thể chuyển nhợng ở mức độ cao (tính lỏng liquidity) của
18
chứng khoán đợc coi nh một trong những đặc tính quan trọng nhất của chứng
khoán so với những loại tài sản khác. Khái niệm chứng khoán ra đời gắn liền với
sự ra đời của công ty cổ phần - loại hình công ty đối vốn điển hình mà việc thành
lập công ty không quan tâm đến nhân thân ngời góp vốn mà chỉ quan tâm đến
phần vốn góp. Do không quan tâm tới mối quan hệ nhân thân giữa những ngời
cùng góp vốn nên chủ sở hữu các cổ phần đó có thể dễ dàng thay đổi bằng cách
chuyển nhợng cổ phần từ ngời này sang ngời khác, chủ sở hữu cuối cùng của

cổ phần sẽ là cổ đông của công ty. Mặt khác, chính khả năng dễ dàng chuyển
nhợng của cổ phần là yếu tố quan trọng thu hút số đông dân chúng, phần lớn là
những ngời không có khả năng quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của
công ty, cũng có thể dễ dàng trở thành thành viên của công ty, và khi không
muốn, cũng có thể dễ dàng ra khỏi công ty, nhợng t cách chủ sở hữu đó cho
ngời khác.
Khả năng dễ dàng chuyển nhợng của chứng khoán tạo nên một đặc tính
mà thuật ngữ kinh tế gọi là tính thanh khoản (tính dễ chuyển thành tiền mặt)
của chứng khoán. Tính thanh khoản này của các loại chứng khoán là khác nhau
tuỳ theo mức độ quan tâm của chứng khoán đó đối với công chúng đầu t. Cũng
chính khả năng chuyển nhợng đặc biệt của chứng khoán là cơ sở để thiết lập
một cơ chế chuyển nhợng đặc biệt khác với cơ chế chuyển nhợng hàng hoá
thông thờng do dân luật điều chỉnh - đó là chuyển nhợng thông qua thị trờng
chứng khoán, với những phơng thức và quy tắc đặc thù. Cơ chế chuyển nhợng
này đã phát huy ở mức độ cao nhất tác dụng và vai trò của chứng khoán - một
loại hàng hoá đặc biệt - đối với nền kinh tế.
Các luật gia Pháp còn đi một bớc xa hơn khi thừa nhận đặc tính không
có ngoại lệ (inopposabilité des exceptions) của chứng khoán nhằm làm tăng
thêm khả năng chuyển nhợng của chứng khoán trên thị trờng tập trung. Theo
tác giả Hubert de Vauplane và Jean-Pierre Bornet, chứng khoán khi đã đợc đem
giao dịch tại thị trờng tập trung thì đơng nhiên đợc coi là đã đợc chuẩn
hoá, miễn trừ mọi ngoại lệ, hay nói cách khác, ngời mua và ngời bán
không cần phải bận tâm và lo lắng tới việc xác minh các yếu tố liên quan tới
hiệu lực của chứng khoán (ví dụ chứng khoán đó có bị hạn chế chuyển nhợng
hoặc đang là tài sản cầm cố thế chấp hay không, có thuộc sở hữu chính chủ
của ngời bán hay không). Chính đặc tính không thừa nhận ngoại lệ này làm
cho việc chuyển nhợng chứng khoán trở nên đơn giản hơn và phân biệt chứng
khoán với các động sản tơng tự khác. Và cũng chính đặc tính này cho phép
19
và giải thích việc chứng khoán có thể niêm yết và chuyển nhợng trên thị

trờng chứng khoán có tổ chức theo quy định tại các Điều 421-3 trở đi của Bộ
luật về tiền tệ và tài chính. [103, tr.51].
(2) Giao dịch chứng khoán có tính hệ thống và tập trung cao
Giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung đợc thực hiện
qua hệ thống giao dịch, do vậy có tính hệ thống và tập trung cao độ. Đây là một
đặc thù so với giao dịch tại thị trờng tự do hoặc thị trờng phi tập trung, nơi các
giao dịch có thể đợc thực hiện phân tán, riêng lẻ theo các cơ chế thơng lợng
thoả thuận song phơng chứ không qua khớp lệnh tập trung tại Sở giao dịch
chứng khoán.
Chính tính hệ thống và tập trung cao của giao dịch chứng khoán khiến cho
giao dịch chứng khoán bị ảnh hởng bởi các nhân tố rủi ro rất đặc thù so với các
giao dịch dân sự thông thờng: đó là rủi ro hệ thống (rủi ro gây đổ vỡ hệ thống
trên diện rộng do thất bại của một hoặc một số thành viên theo hiệu ứng
đôminô). Đây cũng là vấn đề mà pháp luật phải quan tâm điều chỉnh nhằm kiểm
soát và hạn chế tối đa rủi ro hệ thống trên thị trờng chứng khoán.
(3) Chủ thể trong giao dịch không xác định
Một nét đặc thù nữa của giao dịch chứng khoán là không xác định chủ thể
tham gia giao dịch (trừ các giao dịch thực hiện theo phơng thức thoả thuận,
nghĩa là các bên thực hiện giao dịch bên ngoài hệ thống giao dịch, chỉ đa giá và
kết quả giao dịch vào hệ thống). Các bên đặt lệnh mua bán thông qua trung gian
môi giới, sau đó các trung gian này chuyển lệnh vào hệ thống giao dịch. Hệ
thống sẽ là ngời tìm kiếm và so khớp các lệnh phù hợp với nhau để tìm ra giá cả
tốt nhất cho các bên, hay nói cách khác, hệ thống giao dịch là ngời làm thay
công đoạn tìm kiếm đối tác và thoả thuận các điều khoản của giao dịch. Giao dịch
kết thúc, chứng khoán và tiền đợc chuyển giao, song ngời bán và ngời mua
không thể biết mình đã mua/bán chứng khoán với ai. Do vậy, khác với các giao dịch
dân sự thơng mại thông thờng, việc thực hiện giao dịch chứng khoán nhắm tới
chủ thể đích danh đợc coi là những giao dịch có tính chất đặc thù và phải có cơ chế
kiểm soát đặc biệt để không vi phạm nguyên tắc bình đẳng của thị trờng.
(4) Xung đột lợi ích đan xen phức tạp trong giao dịch

Một đặc điểm quan trọng chi phối các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
giao dịch chứng khoán chính là tính xung đột lợi ích luôn đan xen phức tạp trong
giao dịch. Rất nhiều luật gia trên thế giới nh Kenneth J. Bialkin, GS. Melvin
A.Eisenberg, Norman S.Poser đã thừa nhận tính xung đột lợi ích là một trong
các đặc trng cố hữu của giao dịch chứng khoán [95, tr.545-546] [97, tr.111-123]
20
Thứ nhất là xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia giao dịch với nhau.
Xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia giao dịch thể hiện rõ nét nhất qua mối
quan hệ giữa ngời nội bộ (insider) và ngời không nội bộ (outsider).
Ngời nội bộ là những cổ đông nắm giữ khối lợng lớn cổ phiếu (cổ đông lớn),
hoặc những ngời nắm giữ các vị trí chủ chốt trong công ty, có u thế nắm giữ
trong tay các thông tin nội bộ và quyền lực quản lý kiểm soát công ty. Ngợc lại,
ngời không nội bộ là những cổ đông nắm thiểu số cổ phiếu (cổ đông nhỏ)
hoặc các nhà đầu t thông thờng, do vậy nếu diễn ra giao dịch giữa ngời nội
bộ và ngời không nội bộ, xung đột lợi ích là không thể tránh khỏi vì mối
quan hệ giữa họ không dựa trên sự bình đẳng và tơng xứng về thông tin. Do vậy,
trên thị trờng chứng khoán, có một loại giao dịch rất đặc thù dựa trên sự xung
đột lợi ích này, đó là giao dịch nội gián, trong đó ngời nội bộ và ngời có
liên quan lợi dụng u thế kiểm soát và thông tin cha công bố về công ty của
mình để thu lợi cá nhân thông qua việc mua bán cổ phiếu của công ty.
Thứ hai, xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia giao dịch và các tổ
chức trung gian thị trờng. Xung đột này xuất phát từ việc giao dịch chứng khoán
luôn phải thực hiện qua trung gian (nguyên tắc trung gian). Xung đột này liên
quan tới vấn đề đạo đức nghề nghiệp của những ngời môi giới, nhà t vấn đầu
t, nhân viên quản lý quỹ, quản lý danh mục đầu t và bảo lãnh phát hành chứng
khoán. Chức năng cơ bản của những ngời này là cung cấp thông tin, t vấn cho
nhà đầu t, mua bán chứng khoán thay cho nhà đầu t hoặc thay mặt nhà đầu t
quản lý tài khoản đầu t của họ. Do các đối tợng này luôn tiềm ẩn mối xung đột
giữa việc hành động vì lợi ích của chính mình và lợi ích của khách hàng, do đó
tranh chấp về lợi ích là không thể tránh khỏi, ví dụ: t vấn sai lệch để khách hàng

thực hiện giao dịch lô lớn để hởng thêm hoa hồng môi giới, đánh tráo lệnh mua
bán của khách hàng với lệnh mua bán của chính mình để trục lợi, lợi dụng việc
khách hàng uỷ quyền thực hiện giao dịch để tiến hành những giao dịch vì mục
đích cá nhânXung đột lợi ích này cũng có thể xuất phát từ kỹ năng hành nghề
của các ngời hành nghề nêu trên: trình độ nghiệp vụ kém, gây thiệt hại cho nhà
đầu t.
Thứ ba, xung đột lợi ích giữa các bên tham gia giao dịch và các tổ chức
cung ứng dịch vụ hỗ trợ giao dịch trên thị trờng. Các tổ chức cung ứng dịch vụ
hỗ trợ giao dịch gồm có các Sở giao dịch chứng khoán (cung cấp hệ thống giao
dịch) hoặc Trung tâm lu ký chứng khoán (cung ứng các dịch vụ đăng ký, lu ký
và thanh toán bù trừ giao dịch chứng khoán). Xung đột loại này không xuất phát
trực tiếp từ mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các bên mà thờng xuất phát từ trình
21
độ, kỹ năng, trách nhiệm cẩn trọng trong việc cung ứng dịch vụ cho nhà đầu t,
ví dụ nh sự thiếu chính xác trong khâu lu ký, bù trừ giao dịch, không đảm bảo
yếu tố bí mật cho khách hàng, chức năng giám sát thị trờng hoạt động không
hiệu quả, thậm chí những yếu tố bất khả kháng do khách quan (lỗi hệ thống, lỗi
phần mềm, ) khiến cho nhà đầu t không đợc hởng một môi trờng cạnh
tranh công bằng trong đó giá cả và kết quả giao dịch đợc hình thành một cách
nhanh chóng, chính xác với chi phí thấp. Sự độc quyền trong việc cung cấp dịch
vụ cũng đợc coi là một trong những nguyên nhân của các xung đột lợi ích dạng
này, đặc biệt đối với những thị trờng chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán hoặc
một Trung tâm lu ký chứng khoán. Ngoài ra, các tổ chức cung ứng dịch vụ thị
trờng khác nh tổ chức kiểm toán, tổ chức định mức tín nhiệm cũng tiềm ẩn
những xung đột lợi ích với nhà đầu t. Do lợi ích của các đối tợng này gắn liền với
những tổ chức mà họ cung cấp dịch vụ (tổ chức phát hành, công ty chứng khoán)
mà không gắn liền với lợi ích của nhà đầu t nên họ có thể hi sinh lợi ích của nhà
đầu t để đứng về phía lợi ích của tổ chức phát hành, công ty chứng khoán
Xuất phát từ đặc điểm xung đột lợi ích luôn đan xen phức tạp trong giao
dịch, một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với các nhà làm luật là

phải xử lý hài hoà các xung đột về lợi ích nhằm đảm bảo tối đa tính công bằng,
công khai và minh bạch trong giao dịch. Đó là điều kiện tiên quyết đem lại lòng
tin cho công chúng đầu t, là yếu tố duy trì và phát triển thị trờng.
(5) Tính đặc thù trong việc thể hiện các nguyên tắc của pháp luật về
hợp đồng. Điều này đợc thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, giao dịch chứng khoán thể hiện một sự biến đổi rõ rệt trong các
nguyên tắc truyền thống của pháp luật về hợp đồng. Ví dụ: nguyên tắc tự do hợp
đồng - thờng đợc giải thích là sự tự do tham gia vào các quan hệ hợp đồng và
quyền tự do của các bên trong việc xác định nội dung hợp đồng cho đến hiện nay
hầu nh không thể hiểu theo nghĩa tự do thuần tuý, tự do bất khả xâm phạm. Có
hai xu hớng chính khiến cho phạm vi của nguyên tắc tự do hợp đồng ngày càng
bị thu hẹp. Xu hớng thứ nhất là quá trình can thiệp ngày càng chặt chẽ của quản
lý nhà nớc đối với các quan hệ pháp luật trong nền kinh tế, đặc biệt là những
quan hệ pháp luật có tính nhạy cảm và rủi ro cao, nh: tài chính, tín dụng, bảo
hiểm Xu hớng thứ hai là quá trình tập trung hoá quyền lực vào tay những chủ
thể kinh doanh có lợi thế. Xu hớng này tất yếu làm nảy sinh các hợp đồng mà
trong đó ngời tham gia hợp đồng không thể đa ra bất kỳ một thơng lợng nào,
thậm chí không có bất kỳ một lựa chọn nào khác ngoài việc tham gia hợp đồng
nh các hợp đồng mà chúng ta vẫn ký kết hàng ngày nh hợp đồng điện, nớc,
22
điện thoại
Riêng đối với giao dịch chứng khoán, sự thể hiện của quá trình biến đổi
các nguyên tắc truyền thống trong pháp luật hợp đồng đợc lý giải do nhiều
nguyên nhân. Nguyên nhân quan trọng nhất phải kể đến chính là yếu tố rủi ro và
nhạy cảm đặc biệt của loại giao dịch này. Nói chung, khu vực tài chính là khu
vực có tính nhạy cảm và độ rủi ro cao, do vậy, sự can thiệp của yếu tố quản lý
nhà nớc thờng rõ rệt và khắt khe hơn nhiều so với các lĩnh vực khác trong nền
kinh tế. Đó là lý do tại sao quyền tự do định đoạt của các chủ thể trong hợp đồng
bị hạn chế ở mức độ rất cao, vì tự do của họ ảnh hởng trực tiếp và lập tức tới sự
vận hành bình thờng của thị trờng và quyền lợi của các chủ thể khác. Có thể

dẫn chứng ở đây hàng loạt những biện pháp hành chính nh: nới lỏng hoặc thu
hẹp biên độ dao động giá, cấm đặt lệnh mua và bán trong cùng một phiên cho
một loại cổ phiếu, giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà đầu t nớc ngoài
Nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong quá trình giao kết hợp đồng
cũng không thể hiểu theo nghĩa thông thờng là bình đẳng về vị thế giao kết hợp
đồng (không bên nào đợc sử dụng những u thế hoặc quyền lực riêng để ép
buộc sự tham gia hợp đồng của phía bên kia) hay bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia hợp đồng. Đối với một giao dịch chứng khoán, nguyên tắc
bình đẳng cần đợc hiểu dới một góc độ khác - đó là sự bình đẳng về thông tin
để từ đó ra quyết định đầu t và bình đẳng về điều kiện thực hiện giao dịch. Một
quyết định đầu t không dựa trên những thông tin có đợc một cách bình đẳng sẽ
tạo nên một giao dịch không bình đẳng (giao dịch nội gián) và phải chịu những
chế tài nghiêm khắc của pháp luật, trong đó có cả sự vô hiệu của hợp đồng.
Thứ hai, giao dịch chứng khoán còn là biểu hiện đậm nét của xu thế quốc
tế hoá trong lĩnh vực hợp đồng. Quốc tế hoá là xu thế chung không những trong
lĩnh vực luật pháp mà còn trong rất nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đối với
lĩnh vực luật pháp, quá trình quốc tế hoá thể hiện qua sự tăng cờng ngày càng rõ
nét ảnh hởng của yếu tố bên ngoài đến sự phát triển hệ thống pháp luật quốc
gia, qua xu thế tơng đồng không những trong bản thân nội dung các quy phạm
pháp luật, mà còn cả trong hệ thống các khái niệm pháp lý. Tính quốc tế hoá này
thể hiện đặc biệt rõ nét trong pháp luật điều chỉnh các hoạt động của thị trờng
chứng khoán, thể hiện ở sự kế thừa trong nội dung các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động của thị trờng nói chung và hoạt động giao dịch nói riêng của
pháp luật về chứng khoán nớc ta từ pháp luật về chứng khoán và thị trờng
chứng khoán quốc tế, đặc biệt là những quốc gia trong khu vực.
Xu thế quốc tế hoá trong pháp luật liên quan về giao dịch chứng khoán còn
23
là một đòi hỏi khách quan nhằm phát huy tối đa khả năng của kênh huy động vốn
thông qua thị trờng chứng khoán. Sức hấp dẫn của thị trờng chứng khoán Việt
Nam đối với nhà đầu t nớc ngoài cũng nh khả năng của nhà đầu t Việt Nam

tham gia đầu t ra các thị trờng chứng khoán ngoài nớc chỉ có đợc khi chúng ta
xây dựng một mặt bằng pháp luật thông thoáng, tơng đồng với các chuẩn mực
chung của thế giới và phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế trong tơng lai.
Đó cũng là lý do tại sao gia nhập các tổ chức quốc tế về chứng khoán nh: Hiệp
hội quốc tế các Sở giao dịch chứng khoán (FIBV), Hiệp hội các Sở giao dịch chứng
khoán khu vực Châu á - Thái Bình Dơng (EAOSEF), Tổ chức quốc tế các Uỷ
ban Chứng khoán (IOSCO) đợc coi nh một trong các mục tiêu chiến lợc
trong xây dựng và phát triển thị trờng chứng khoán đến năm 2010.
Việc nghiên cứu đặc điểm của các giao dịch chứng khoán trên thị trờng
giao dịch tập trung có ý nghĩa quan trọng nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc
hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao
dịch tập trung.
1.2. khái quát những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh
giao dịch chứng khoán trên thị trờng giao dịch tập trung
Pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trờng chứng khoán không ra đời
gắn liền với sự xuất hiện của thị trờng chứng khoán trên thế giới. Lịch sử pháp
luật về thị trờng chứng khoán ghi nhận những dấu mốc hình thành và phát triển
đầu tiên sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 ở những nớc Mỹ, Tây Bắc
Âu và Nhật Bản. Trớc đó, phần lớn hoạt động của các thị trờng đợc điều tiết
bởi cơ chế tự quản hoặc quản lý sơ khai. Sau này, nhận thức đợc vai trò quan
trọng của quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động của thị trờng chứng khoán,
một số nớc đã xây dựng Luật về chứng khoán và giao dịch chứng khoán, điển
hình là Luật Chứng khoán và Giao dịch Chứng khoán 1933 và 1934 của Mỹ, sau
này là hình mẫu cho nhiều nớc học tập.
Thị trờng chứng khoán đợc coi là thị trờng cạnh tranh tự do điển hình,
nơi giá cả chứng khoán đợc xác định bởi cạnh tranh giữa cung và cầu nhằm
phân bổ các nguồn tài chính một cách hiệu quả nhất. Để đạt đợc điều này, thị
trờng chứng khoán cần có tính thanh khoản, công bằng và công khai thông tin.
Lịch sử phát triển thị trờng chứng khoán thế giới cho thấy chính những yếu tố
hạn chế tự do cạnh tranh nh sự can thiệp của các biện pháp quản lý hành chính

hoặc quyền lực trực tiếp, sự kém hiệu quả của các cơ chế kiểm soát các hành vi
thao túng giá cả hoặc giao dịch nội gián là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến
thất bại của thị trờng chứng khoán. Vì vậy, pháp luật luôn đợc coi là biện pháp
24
quan trọng nhất để quản lý thị trờng chứng khoán nhằm duy trì hoạt động hiệu
quả và công bằng của thị trờng.
Với t cách là một bộ phận của hệ thống pháp luật về tài chính ngân hàng,
pháp luật chứng khoán có mối quan hệ hữu cơ với các lĩnh vực khác của pháp
luật tài chính nói riêng (pháp luật về bảo hiểm, ngân hàng và các tổ chức tín
dụng, pháp luật thuế) và các lĩnh vực của pháp luật dân sự thơng mại nói
chung (luật công ty, luật thơng mại, luật dân sự).
1.2.1. Nguồn của pháp luật về giao dịch chứng khoán
Hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trờng chứng khoán có nhiều
nét đặc thù so với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, do vậy việc điều chỉnh bằng
pháp luật đối với các giao dịch này cũng có nhiều nét khác biệt: bên cạnh các
quy phạm pháp luật chuyên ngành (i) còn có các quy phạm pháp luật chung (ii)
điều chỉnh các vấn đề liên quan tới hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị
trờng giao dịch tập trung. Ngoài các văn bản quy phạm pháp luật cũng phải kể
đến vai trò bổ trợ rất quan trọng của các quy chế tự quản và các quy phạm quy
tắc và tập quán (iii) đối với việc điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán.
1.2.1.1. Quy phạm pháp luật chuyên ngành
Hầu hết các nớc có thị trờng chứng khoán đều xây dựng hệ thống pháp
luật về chứng khoán. Các nớc phát triển và các nớc công nghiệp mới phát triển
của Châu á là những nớc có hệ thống luật pháp khá hoàn chỉnh về nội dung và
đa dạng về hình thức. Các nớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng cũng đang nỗ
lực xây dựng cho mình một đạo luật cơ bản về chứng khoán và thị trờng chứng
khoán với nội dung bao trùm hầu hết các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngành
chứng khoán, nh: điều kiện đăng ký giao dịch, các yêu cầu đối với các thành
viên tham gia thị trờng, các loại hình kinh doanh chứng khoán, hình thức tổ
chức và vận hành Sở giao dịch chứng khoán, các định chế đầu t, vấn đề tham gia

của nhà đầu t nớc ngoài .
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành về thị
trờng chứng khoán thể hiện rõ quan điểm của quốc gia đối với sự phát triển thị
trờng vốn và xây dựng nền kinh tế thị trờng. Nghiên cứu kinh nghiệm của
nhiều nớc cho thấy quá trình thiết lập hệ thống pháp luật mang tính kế thừa rõ
nét các nguyên tắc của hệ thống pháp luật bản địa và tinh hoa của pháp luật quốc
tế. Ví dụ: hầu hết các quốc gia là thuộc địa cũ của Mỹ hay bị lệ thuộc vào nền
kinh tế Mỹ đều xây dựng đạo luật về chứng khoán của mình mang màu sắc của
Luật Chứng khoán và Giao dịch Chứng khoán Mỹ 1933, 1934 nh: Nhật Bản,
25
Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Đài Loan, Ba Lan Tuy nhiên, các quốc gia
này không sao chép nguyên văn mà các nội dung cơ bản của đạo luật phản ánh
màu sắc riêng của điều kiện cụ thể của nớc sở tại. Mặt khác, các nớc đang phát
triển thờng không bắt đầu từ việc xây dựng các văn bản dới luật rồi pháp điển
hoá thành Luật Chứng khoán, mà bắt tay ngay vào việc xây dựng một đạo luật cơ
bản về chứng khoán (nhờ sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế, rút kinh nghiệm từ
các nớc đi trớc). Kinh nghiệm cho thấy việc quản lý các hoạt động của thị
trờng chứng khoán trên cơ sở các đạo luật có thể đem lại hiệu quả cao hơn đối
với sự phát triển của thị trờng.
Nhiều nớc ban hành Luật Chứng khoán dới hình thức một đạo luật
thống nhất điều chỉnh tất cả các lĩnh vực của ngành chứng khoán, đợc coi là đạo
luật cơ bản và giữ vị trí trung tâm. Căn cứ vào đạo luật chung này, các vấn đề
chuyên biệt đợc quy định cụ thể hơn ở những Luật cụ thể khác. Ví dụ, tại Mỹ,
Luật Chứng khoán và Giao dịch Chứng khoán 1933 và 1934 là hai đạo luật cơ
bản điều chỉnh toàn bộ hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán trên cả hai
thị trờng sơ cấp và thứ cấp. Ngoài ra, còn có các Luật bổ trợ khác nh Luật
Công ty Đầu t (1940), Luật Uỷ ban Giao dịch Hàng hoá Tơng lai (1974), Luật
Bảo vệ Nhà đầu t Chứng khoán (1970)đề cập sâu hơn về hoạt động tín thác
đầu t, giao dịch chứng khoán phái sinh, bảo vệ quyền của nhà đầu t chứng
khoán Hoặc tại Hàn Quốc, ngoài đạo luật cơ bản là Luật Chứng khoán và Giao

dịch chứng khoán (1962), các luật chuyên biệt khác đợc ban hành để cụ thể hoá
chính sách phát triển thị trờng trong từng thời kỳ nh Luật Khuyến khích Phát
triển Thị trờng vốn, Luật Tín thác Đầu t Chứng khoán (1969), Luật Kiểm toán
(1980), Luật Giao dịch Hợp đồng Tơng lai (1995), Luật Công ty Đầu t Chứng
khoán (1998)
Một số nớc ban hành các luật đơn hành điều chỉnh từng lĩnh vực của thị
trờng chứng khoán (phát hành chứng khoán, quỹ đầu t, thanh toán bù trừ
chứng khoán ). Ví dụ, tại Đức, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán
bao gồm: Luật Khuyến khích Thị trờng Tài chính (1994), Luật Kinh doanh
Chứng khoán (sửa đổi năm 1994), Luật Sở Giao dịch Chứng khoán, Luật Thanh
toán bù trừ và Lu ký chứng khoán, Luật Ngân hàng, Luật Công ty
Các nớc đang phát triển nh Trung Quốc, Indonesia đi theo hớng ban
hành một Luật Chứng khoán quy định những vấn đề chung của toàn bộ thị
trờng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính linh hoạt trong áp dụng và xây dựng thị
trờng, những vấn đề cụ thể thờng đợc thể chế hoá trong hệ thống các văn bản

×