Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

luận văn thạc sĩ vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn gdcd phần “công dân với đạo đức” ở trường thpt hồng quang tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.06 KB, 123 trang )

1

L
ời cảm ơn

Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc
tới ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô giáo, khoa Giáo dục chính trị
trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tận tình truyền thụ những tri
thức quý báu, dạy dỗ, giúp dỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ của khoá
học cũng như việc hoàn thành luận văn.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Văn Chín đã
hết lòng ủng hộ và hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu,
đồng thời đã truyền thụ cho tôi những phương pháp làm việc
nghiêm túc, khoa học để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái, trường THPT Hồng Quang tỉnh
Yên Bái, phòng Quản lỳ Khoa học trường Đại học sư phạm Hà
Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khoá học và hoàn
thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình,
người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi để tôi hoàn thành nhiệm vụ khoá
học và cuốn luận văn tốt nghiệp này.
Hà Nội, Ngày tháng 10 năm 2009
Tác giả

Nguyễn Thị Sen
2

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT


STT Cụm từ viết tắt Diễn giải
1 ĐC Đối chứng
2 GDCD Giáo dục công dân
3 PPDH Phương pháp dạy học
4 PPTLN Phương pháp thảo luận nhóm
5 THPT Trung học phổ thông
5 TN Thực nghiệm
3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiên cứu 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của đề tài 11
6. Phương pháp nghiên cứu 12
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” Ở TRƯỜNG THPT HỒNG
QUANG TỈNH YÊN BÁI 13
1.1. Cơ sở lý luận của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học 13
1.1.1. Thảo luận nhóm - một trong những phương pháp dạy học tích cực 13
1.1.1.1. Quan niệm về dạy học tích cực 13
1.1.1.2. Một số phương pháp dạy học tích cực cần được phát triển 18
1.1.2. Quan niệm về nhóm và phương phương pháp thảo luận nhóm 20
1.1.2.1. Quan niệm về nhóm 20
1.1.2.2. Quan niệm về phương pháp thảo luận nhóm 23
1.1.3. Hình thức thảo luận nhóm và điều kiện thảo luận nhóm trong dạy

học môn Giáo dục công dân 25
1.2. Thực trạng và sự cần thiết vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Giáo dục công dân nói chung, phần "Công dân với đạo
đức" nói riêng 28
1.2.1. Thực trạng và sự cần thiết vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Giáo dục công dân nói chung, phần "Công dân với đạo
đức" nói riêng ở trường THPT Hồng Quang tỉnh Yên Bái 28
4

1.2.1.1. Đặc điểm môn Giáo dục công dân phần “Công dân với đạo đức” ở
trường THPT 28
1.2.1.2. Thực trạng vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
GDCD ở trường THPT Hồng Quang tỉnh Yên Bái 33
1.2.1.3. Kết quả của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn GDCD phần "Công dân với đạo đức" ở trường THPT Hồng Quang
tỉnh Yên Bái 34
1.2.2. Sự cần thiết đổi mới phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn GDCD phần “Công dân với đạo đức” ở trường THPT Hồng Quang
tỉnh Yên Bái 46
Chương 2: THỰC NGHIỆM PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN PHẦN “CÔNG
DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HỒNG QUANG TỈNH YÊN BÁI 49
2.1. Kế hoạch thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn GDCD phần “Công dân với đạo đức” ở trường THPT Hồng
Quang tỉnh Yên Bái 49
2.1.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm 49
2.1.2. Đối tượng, phạm vi và địa bàn thực nghiệm 49
2.1.3. Nội dung thực nghiệm 50
2.2. Các bước tiến hành thực nghiệm 50

2.2.1. Khảo sát đầu vào lớp thực nghiệm và lớp đối chứng 50
2.2.2. Soạn giáo án thực nghiệm 52
2.2.3. Tiến hành dạy thực nghiệm 71
2.2.4. Kiểm tra, đáng giá sau thực nghiệm 71
2.3. Kết quả thực nghiệm 72
2.3.1. Phân tích kết quả thực nghiệm 72
2.3.2. Đánh giá chung về kết quả thực nghiệm 80
5

Chương 3: QUY TRÌNH VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HỒNG QUANG TỈNH YÊN BÁI 83
3.1. Quy trình thực hiện phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn GDCD 83
3.1.1. Quy trình thảo luận nhóm 83
3.1.2. Quy trình thực hiện phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn Giáo dục công dân 84
3.1.3. Nguyên tắc thực hiện quy trình thảo luận nhóm 96
3.1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh 96
3.1.3.2. Nguyên tắc đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa các hình thức dạy học 97
3.1.3.3. Nguyên tắc đảm bảo được tính hệ thống 97
3.1.3.4. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tế 98
3.1.3.5. Nguyên tắc đảm bảo được tính toàn diện 98
3.2. Điều kiện và một số yêu cầu thực hiện phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn GDCD 99
3.2.1. Điều kiện đối với đội ngũ giáo viên 99
3.2.2. Điêu kiện đối với học sinh 101
3.2.3. Điều kiện đối với các cấp quản lý 102
3.2.4. Điều kiện về cơ sở vật chất 102

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
PHỤ LỤC 113



6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp lạc
hậu về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc
tế. Nhân tố quyết định đến sự thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn nhân lực Việt Nam được phát
triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ “Cần phải phát huy
trí tuệ, và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; là quốc sách hàng đầu, phát huy tinh thần độc lập
suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn
thiện học vấn và tay nghề…” [25,1].
Quán triệt nhiệm vụ đó, đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy
tính tích cực học tập của học sinh trong quá trình dạy học trở thành xu thế
chung trong toàn ngành giáo dục hiện nay. Ngành giáo dục và đào tạo đã liên
tục đưa ra những tư tưởng chỉ đạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã xác định một trong những tư
tưởng cần được quan tâm ở đây đó là: Đổi mới và hiện đại hóa phương pháp
giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang

hướng dẫn học, chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho
người học phương pháp tự học, tăng cường tính chủ động, tự chủ của học
sinh, sinh viên trong quá trình học tập .
Thảo luận nhóm là một trong nhiều phương pháp dạy học có thể phát
huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong học tập.
Phương pháp này chẳng những giúp cho người học tích cực, tự giác, chủ động
7

tiếp thu kiến thức mà còn tạo nên môi trường thuận lợi để người học tham gia
thực hành xã hội và phát triển nhân cách đầy đủ hơn. Hơn nữa, nếu được tổ
chức tốt thì phương pháp thảo luận nhóm còn góp phần phát triển mạnh mẽ
những ưu điểm của phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề, phương
pháp tình huống và các phương pháp dạy học tích cực khác.
Giáo dục công dân là môn khoa học xã hội, điều này nói lên vị trí quan
trọng của môn học trong nhà trường THPT. Cùng với các môn khoa học khác,
nó góp phần đào tạo những người lao động mới vừa có tri thức khoa học, vừa
có đạo đức, vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị
tư tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm cộng đồng, vừa có trách nhiệm đối với
gia đình và đối với chính bản thân mình.
Thực tế trong quá trình dạy học ở trường THPT Hồng Quang tỉnh Yên
Bái cho thấy: Đổi mới phương pháp dạy học là một đòi hỏi cấp thiết, song
hiệu quả của nó phụ thuộc phần lớn vào việc chủ động đổi mới phương pháp
dạy học của thầy và chủ động đổi mới phương pháp học của trò. Ở trường
THPT Hồng Quang tỉnh Yên Bái đa số học sinh ít hứng thú khi học môn
GDCD, học tập môn GDCD còn mang tính thụ động, thiếu tích cực…
Giáo viên thực sự chưa tìm ra được phương pháp, biện pháp hữu hiệu
nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Hơn nữa giáo viên được
đào tạo chuyên sâu về môn học này còn thiếu, tình trạng giáo viên văn, sử,
thậm chí cả giáo viên sinh, kỹ, ngoại ngữ…kiêm nhiệm sang dạy GDCD còn
phổ biến. Điều này hạn chế rất nhiều đến chất lượng dạy và học của môn học.

Hơn nữa, tỉnh Yên Bái là một tỉnh miền núi, huyện Lục Yên lại là một
huyện xa trung tâm thành phố. Học sinh của trường đa số là con em dân tộc
thiểu số (Tày, Nùng, Dao…) chiếm tới 75%, trường THPT Hồng Quang có
nhiệm vụ giáo dục những tri thức phổ thông cơ bản, giáo dục và rèn luyện đạo
đức, định hướng nghề nghiệp trong tương lai cho học sinh.
8

Vì vậy, vận dụng biện pháp phát huy tính tích cực học tập môn GDCD
ở trường THPT Hồng Quang nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của môn
học, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của ngành giáo dục nói
chung và của nhà trường nói riêng là điều hết sức cần thiết.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả quyết định lựa
chọn đề tài:Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
GDCD phần “Công dân với đạo đức” ở trường THPT Hồng Quang tỉnh
Yên Bái làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh là vấn đề trung tâm của
lý luận dạy học. Trong lịch sử nhân loại, ý tưởng về một phương pháp dạy
học phát huy cao độ tính tích cực của người học đã được các nhà tư tưởng
lớn, các nhà giáo dục của thời đại quan tâm và đề cập.
Nói đến học tập nhóm phải nói tới Casinet – Roger, vào năm 1949 đã
đề xướng phương pháp làm việc tự do theo nhóm: “Làm việc theo nhóm có
nghĩa là sinh viên phải tìm tòi, phải thực hiện cuộc khảo cứu hay quan sát,
phải cố gắng phân tích, tìm hiểu, diễn đạt, phải thành lập theo phiếu và sắp
xếp những phiếu này, phải đóng góp sự tìm tòi của mình cho công việc của
nhóm.” [32,134].
Tiếp đến là A. Jakiel, ông là nhà giáo dục Ba Lan lỗi lạc với cuốn sách
“Học tập theo nhóm ở trường học”, đã giới thiệu một hình thức học đem lại
hiệu quả cao trong hoạt động dạy học đó là: “Học tập theo nhóm ở trường
học” [31,52].

Năm 1995, Robert Vlavin trong tác phẩm “Dạy học theo nhóm nhỏ: Lý
thuyết nghiên cứu và thực hành” cũng đã đề cập đến mô hình dạy học theo
nhóm nhỏ. Rất nhiều môn học có áp dụng hình thức dạy học theo nhóm nhỏ,
tất cả đều có chung ý tưởng là các học viên cùng nhau làm việc trong các
nhóm nhỏ để hoàn thành mục tiêu học tập chung” [36,23].
9

Ở Việt Nam, học tập theo nhóm đã có từ lâu. Ông cha ta đã có câu
“Học thầy không tày học bạn”. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chúng ta đã
từng có phong trào học tập dân chủ, học tập tổ, nhóm. Phong trào đó đã góp
phần tích cực vào thành công của phong trào diệt giặc dốt do Chủ tịch Hồ Chí
Minh phát động. Phong trào “Đôi bạn chuyên cần” cũng được duy trì khá dài
trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước ác liệt.
Ngày nay, trước xu hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hóa hoạt động của người học. Nhiều nhà giáo dục đã nghiên cứu vấn
đề học tập nhóm. Bài viết: “Lấy học sinh làm trung tâm” của tác giả Trần Bá
Hoành đã đề cập tới phương pháp hợp tác hay phương pháp học tập nhóm với
ý nghĩa là một trong những phương pháp lấy học sinh làm trung tâm.
Trong bài viết: “Về quan điểm giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm”
PGS - TS Phạm Viết Vượng viết: Phương pháp thảo luận nhóm còn gọi là học
hợp tác, sắp xếp học sinh theo nhóm ngồi quanh một bàn, thảo luận, góp ý
kiến để xây dựng các ý kiến trả lời từng tiểu mục trong modul. Đại diện từng
nhóm hoặc cá nhân phát biểu trước lớp về những điều đã thu được.
Nguyễn Hữu Châu trong cuốn: “Những vấn đề cơ bản về quá trình dạy
học” cũng đã đưa quan điểm về dạy học hợp tác theo nhóm. Theo tác giả thì:
“Dạy học hợp tác là việc sử dụng các nhóm nhỏ để học sinh làm việc cùng
nhau nhằm tối đa hóa kết quả học tập của bản thân mình cũng như của người
khác” [6,225].
Tác giả Phan Trọng Ngọ trong cuốn “Dạy học và phương pháp dạy học
trong nhà trường” cũng đã giới thiệu rất nhiều về vấn đề phương pháp dạy và

học trong nhà trường hiện nay, trong đó có phương pháp thảo luận nhóm. Tác
giả cho rằng “Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó
nhóm lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên
trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý
kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó” [23,223].
10
Lê Đức Ngọc trong cuốn: “Giáo dục đại học phương pháp dạy và học”
cho rằng: “Thảo luận nhóm là sự trao đổi ý tưởng, quan điểm nhận thức giữa
các học viên và giáo viên, để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết các nội dung phù
hợp với hoạt động đào tạo”. [24,43].
Có thể nói rằng, học tập theo nhóm đã được các nhà giáo dục trong và
ngoài nước quan tâm trên nhiều góc độ khác nhau. Và cho dù ở góc độ nào đi
nữa thì học tập theo nhóm vẫn được hiểu là môi trường học tập nhằm phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của người học. Trong môi trường ấy tùy thuộc
vào nội dung môn học, điều kiện học tập, đối tượng học sinh, tính chất bài
học và năng lực sư phạm của mình, người thầy có thể sử dụng phối hợp các
phương pháp dạy học tích cực nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Nghiên cứu việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, trong đó
có phương pháp thảo luận nhóm vào trong quá trình dạy học nói chung có
nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Nghiên cứu việc vận dụng phương pháp
thảo luận nhóm vào trong dạy học môn GDCD phần “Công dân với các vấn
đề chính trị - xã hội” ở trường THPT cũng đã có tác giả Phạm Thị Minh Phúc
nghiên cứu. Song nghiên cứu việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn GDCD phần “Công dân với đạo đức” thì chưa có tác giả
nào đề cập đến một cách cụ thể. Bởi vậy, nghiên cứu việc vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD phần “Công dân với đạo
đức” là một vấn đề mới mẻ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm xây dựng quy trình thực hiện Phương pháp thảo luận nhóm

trong dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD ở Trường THPT Hồng Quang
tỉnh Yên Bái.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
11
Để đạt được mục đích đề ra, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu
của đề tài là:
+ Làm rõ cơ sở lý luận của Phương pháp thảo luận nhóm và thực trạng
sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD ở trường
THPT Hồng Quang tỉnh Yên Bái.
+ Tiến hành thực nghiệm phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn GDCD ở trường THPT Hồng Quang tỉnh Yên Bái.
+ Xây dựng quy trình thực hiện phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn GDCD và đưa ra các điều kiện để phương pháp thảo luận nhóm
có hiệu quả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu quy trình thực hiện phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn GDCD phần "Công dân với đạo đức" ở trường THPT
Hồng Quang - Tỉnh Yên Bái.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tiến hành thực nghiệm phương pháp thảo luận nhóm trên giáo án
cụ thể có đối chứng ở môn GDCD phần “Công dân với đạo đức”.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của đề tài
5.1. Những luận điểm cơ bản
Thứ nhất: Đề tài chỉ rõ sự cần thiết phải đổi mới phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Hồng Quang và
chỉ rõ phương hướng đổi mới.
Thứ hai: Khảo sát thực trạng việc dạy học môn Giáo dục công dân ở
trường THPT Hồng Quang. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để chỉ rõ tính

đúng đắn, khả thi của việc đổi mới phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Hồng Quang.
12
Thứ ba: Đưa ra quy trình và điều kiện đổi mới phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Hồng Quang.
5.2. Đóng góp mới của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần vào việc đổi mới phương
pháp dạy học nói chung và phương pháp thảo luận nhóm nói riêng trong dạy
học môn GDCD nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD ở trường
THPT Hồng Quang tỉnh Yên Bái hiện nay.
- Đề tài còn có thể hỗ trợ cho các giáo viên dạy học và học sinh học
tập môn GDCD ở trường THPT và là tài liệu tham khảo để có thêm phương
pháp dạy học môn học có hiệu quả hơn.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tác giả có sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, so sánh,
lịch sử - lôgíc …
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra, phương
pháp phỏng vấn, phương pháp quan sát, phương pháp thống kê toán học,
phương pháp sử dụng các phương pháp hỗ trợ…
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP THẢO
LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” Ở TRƯỜNG THPT
HỒNG QUANG TỈNH YÊN BÁI

1.1. Cơ sở lý luận của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học

1.1.1. Thảo luận nhóm - một trong những phương pháp dạy học tích cực
1.1.1.1. Quan niệm về dạy học tích cực
* Quan niệm về tính tích cực
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Tính tích cực của con người được biểu hiện thông qua các hoạt động cụ
thể như trong sản xuất, trong cải biến môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Hình thành tính tích cực xã hội là một trong những nhiệm vụ chủ yếu
của giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp
phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực như một điều kiện, đồng
thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong giáo dục.
Tính tích cực học tập được biểu hiện trong hoạt động nhận thức. Kết
quả của việc học chỉ thực sự có được khi người học tích cực và chủ động
tham gia vào quá trình học tập. Chỉ trong quá trình học tập tích cực, người
học mới rèn luyện được kỹ năng kiến thức, sự say mê học tập và hoàn thiện
năng lực nhận thức của mình.
Như vậy, việc học cần dựa trên nền tảng của hoạt động nhận thức tích
cực của người học và đòi hỏi người học phải có thái độ và tinh thần tích cực.
Tính “tích cực nhận thức” của người học theo I.F.Kharlamop có thể được
định nghĩa như sau: “Tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể, nghĩa
là của người hành động. Vậy tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động
14
của người học, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực
cao trong quá trình nắm vững kiến thức”[35,43].
Những dấu hiệu biểu hiện của tính tích cực học tập
Thứ nhất, học sinh khao khát, tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi
của giáo viên, bổ sung thêm các câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý
kiến về vấn đề nêu ra
Thứ hai, học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những
vấn đề các em thấy giáo viên trình bày chưa đủ, chưa rõ.
Thứ ba, học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kĩ năng

đã học để nhận thức vấn đề mới
Thứ tư, học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những
thông tin mới lấy từ những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài phạm vi bài
học, môn học.
Ngoài những biểu hiện nói trên mà giáo viên dễ nhận thấy còn có
những biểu hiện về mặt xúc cảm khó nhận thấy hơn như: thờ ơ hay hào hứng,
phớt lờ hay ngạc nhiên, hoan hỉ hay buồn chán trước một nội dung nào đó của
bài học hoặc khi tìm ra lời giải thích hay cho một bài tập khó…
Có thể phân biệt 3 cấp độ biểu hiện tính tích cực học tập từ thấp đến
cao như sau:
* Bắt chước: học sinh bắt chước hành động, thao tác của giáo viên, của
bạn bè. Trong hành động bắt chước cũng phải có sự cố gắng của thần kinh và
cơ bắp
* Tìm tòi: học sinh tìm cách độc lập, tự lực giải quyết bài tập nêu
ra, mò mẫm những cách giải thích khác nhau để tìm cho ra được lời giải
hợp lý nhất.
* Sáng tạo: học sinh nghĩ ra cách giải mới, độc đáo, đề xuất những giải
pháp có hiệu quả, có sáng kiến lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh bài
học. Dĩ nhiên, mức độ sáng tạo của học sinh có hạn nhưng đó là mầm mống
15
để phát triển trí sáng tạo sau này.
* Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp: là cách thức, con đường, là phương tiện để đạt tới mục
đích [4,5].
Phương pháp dạy học được hiểu là tổng hợp các cách thức hoạt động
của người dạy và người học trong quá trình dạy học, nhằm thực hiện được nội
dung dạy học [23,147].
“Phương pháp dạy học tích cực” là một thuật ngữ rút gọn, được dùng
để chỉ những phương pháp giáo dục dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học [14,8].

“Tích cực” trong phương pháp dạy học tích cực được dùng với ý nghĩa
hoạt động chủ động, trái với nghĩa không hoạt động, thụ động chứ không
dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
Như vậy, phương pháp dạy học tích cực là cách dạy hướng tới việc học
tập chủ động, chống lại thói quen học thụ động. Nói cách khác phương pháp dạy
học tích cực hướng tới việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học chứ
không phải tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, mặc dù để dạy
học theo phương pháp này thì giáo viên phải nỗ lực, cố gắng hơn nhiều.
Trong đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của người học, phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp
giữa hoạt động dạy và hoạt động học mới thành công. Do đó, thuật ngữ rút
gọn “Phương pháp dạy học tích cực” có ý nghĩa là cả “phương pháp dạy và
phương pháp học”.
* Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
- Dạy và học thông qua việc tổ chức các hoạt động của người học
Phương pháp tích cực dựa trên cơ sở tâm lý học cho rằng nhân cách
được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động chủ động, các hành
động có ý thức. Trí tuệ của trẻ phát triển nhờ sự “đối thoại” giữa chủ thể với
16
đối tượng và môi trường. Mối quan hệ giữa học và làm đã được nhiều tác giả
lớn đề cập: “Cách tốt nhất để hiểu là làm” (Kant); “Học để hành: học và hành
phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích; Hành mà không học thì hành
không trôi chảy” (Hồ Chí Minh)
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt
động “dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” - được cuốn hút vào các
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám
phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức
đã được giáo viên sắp đặt.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho

người học không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu của dạy học. Từ lâu, các nhà sư phạm đã nhận thức được ý nghĩa của
việc dạy cho người học phương pháp học “Người thầy giáo tồi truyền đạt
chân lý, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lý” (Desterwerg).
Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói
quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có
trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội, sẽ “học một,
biết mười” như cha ông ta thường nói. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh
mặt hoạt động tự học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ
học tập thụ động sang tự học chủ động.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Từ xưa, bên cạnh câu “không thầy đố mày làm nên”, cha ông ta còn có
câu “Học thầy không tày học bạn” là đã nhấn mạnh việc tăng cường học tập
cá thể, phối hợp với học tập hợp tác trong nhóm, lớp học sinh.
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp
thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
17
đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập
thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học
nâng lên một trình độ mới.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp
nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Nhưng được sử dụng phổ biến trong dạy học là
hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng
hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn sẽ xuất
hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong
hoạt động theo nhóm sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại, năng lực của mỗi
thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần
tương trợ.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò

Trong dạy học, việc đánh giá người học không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động của trò mà còn tạo điều kiện nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên.
Theo các phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên thường giữ độc
quyền đánh giá người học. Trong phương pháp dạy học tích cực, giáo viên
phải hướng dẫn người học phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách
học. Liên quan tới điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để người
học được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt
động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống sau này.
Từ dạy học thụ động sang dạy học tích cực, giáo viên không còn đóng
vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết
kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm để người học
tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ
năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là
chính, giáo viên chỉ đóng vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn,
trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh.
18
1.1.1.2. Một số phương pháp dạy học tích cực cần được phát triển
Có rất nhiều phương pháp dạy học có thể phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Sau đây chúng tôi chỉ nêu ra một số phương pháp
cơ bản hiện nay đang được quan tâm:
- Phương pháp vấn đáp
Phương pháp vấn đáp là quá trình tương tác giữa người dạy với người
học được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về
một chủ đề nhất định được người dạy và người học đặt ra. Kết quả là dưới sự
dẫn dắt của người dạy, người học thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng của mình,
khám phá và lĩnh hội được đối tượng học sinh. Nói cách khác, dạy học theo
phương pháp vấn đáp là người dạy sử dụng hệ thống câu hỏi để dẫn dắt người
học giải quyết nhiệm vụ học tập. Yếu tố quyết định thành công của phương
pháp này là hệ thống câu hỏi, cách hỏi và thời điểm hỏi của giáo viên. Nếu

xây dựng và sử dụng hợp lí các câu hỏi, người giáo viên sẽ nhanh chóng định
hướng người học vào nội dung bài học, tạo ra sự chú ý của học sinh và không
khí học tập của lớp học, kích thích tư duy, kiểm tra được mức độ tri thức và kĩ
năng của người học, dẫn dắt người học tìm kiếm kết quả học tập. Nói tóm lại,
đặt câu hỏi và giúp người học trả lời tốt các câu hỏi là trọng tâm của phương
pháp vấn đáp.
Phương pháp vấn đáp có 3 mức độ:
+ Vấn đáp tái hiện
+ Vấn đáp giải thích minh hoạ
+ Vấn đáp tìm tòi
- Phương pháp động não
Động não là một phương pháp kỹ thuật dạy học, trong đó nội dung dạy
học không được cấu trúc thành bài dạy chặt chẽ, cho trước, tất cả học sinh đều
được đưa ra ý kiến, ỷ tưởng của mình về một vấn đề nào đó. Kết quả là người
học thu nhận được các ý tưởng, các giải pháp chung sau khi đã sàng lọc các ý
19
tưởng được đưa ra.
Động não - như tên gọi của nó, đặc biệt thích hợp với các hoạt động
dạy học hướng đến mục đích phát triển ở người học những phẩm chất của
người hoạt động độc lập, đặc biệt là khả năng sáng tạo và óc phê phán. Mặt
khác, kết quả của các cuộc động não là những ý tưởng, các giải pháp có tính
chất “mới mẻ” của người học. Vì vậy, giáo viên cũng có thể thu nhận được
nhiều điều bổ ích từ các kết quả đó.
Những nguyên tắc khi tiến hành phương pháp động não:
+ Tất cả các ý kiến, các ý tưởng đưa ra đều được hoan nghênh như nhau.
+ Mọi ý tưởng khi đã được đặt ra đều là tài sản chung của cả nhóm
+ Không ai được phán xét hay phê phán các ý tưởng nêu ra. Mọi ý kiến,
ý tưởng đều được bình đẳng.
- Phương pháp dạy học giải quyết tình huống có vấn đề
Dạy học giải quyết tình huống có vấn đề là phương pháp dạy học, trong

đó giáo viên tạo ra tình huống có vấn đề, điều khiển người học phát hiện vấn
đề, tự giác, tích cực hoạt động giải quyết tình huống, thông qua đó lĩnh hội tri
thức, phát triển kĩ năng và đạt được các mục đích dạy học khác. Nhưng để tạo
ra tình huống có vấn đề, người giáo viên cần thực hiện các bước sau.
Bước 1: Tạo ra tình huống
Bước 2: Xây dựng giả thuyết có tính vấn đề của tình huống đối với học sinh.
Bước 3: Tạo ra quan hệ giữa tình huống với học sinh
Bước 4: Khẳng định hoặc bác bỏ giả thuyết có tính vấn đề của tình huống
Phương pháp dạy học giải quyết tình huống có vấn đề có các mức độ
sau đây:
+ Dạy học gợi mở vấn đề
+ Dạy học dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề
+ Dạy học tạo ta tình huống có vấn đề
Để giải quyết tình huống có vấn đề cần thực hiện các kỹ thuật sau đây:
20
+ Tạo ra tình huống có vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức.
+ Giải quyết vấn đề.
+ Kết luận.
- Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm cũng là một trong những phương pháp có
thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Phương
pháp này đang được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong quá trình dạy học hiện
nay. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nó chưa thực sự mang lại kết quả như mong
muốn. Hay nói cách khác, người sử dụng (giáo viên) chưa thực sự khai thác
hết những ưu điểm nổi trội của phương pháp dạy học này. Sau đây chúng tôi
sẽ đi tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của phương pháp thảo luận nhóm
trong quá trình dạy học.
1.1.2. Quan niệm về nhóm và phương pháp thảo luận nhóm
1.1.2.1. Quan niệm về nhóm
Theo Mác: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu

của các cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người
là tổng hòa các quan hệ xã hội” [33,11].
Con người sống trong xã hội không ai có thể tồn tại biệt lập tách rời,
sống một mình cô độc, vì thế, một trong những nhu cầu quan trọng của con
người là phải được giao tiếp, hòa nhập cộng đồng xã hội. Chính trong quá
trình giao lưu, hoạt động tương tác đó tính tích cực của con người được bộc
lộ và phát triển, nhân cách con người được hoàn thiện.
* Khái niệm nhóm
Nhóm (group) là tập hợp những cá thể lại với nhau theo những nguyên
tắc nhất định.
Nhóm là một hiện tượng xã hội, một sự tập hợp của hai hay trên hai
người có sự tác động lẫn nhau.
Nhóm là một tập thể nhỏ được hình thành để thực hiện một nhiệm vụ
21
nhất định trong một thời gian xác định.
Như vậy, khái niệm nhóm được hiểu dưới nhiều cách khác nhau, song
về cơ bản, nhóm là sự hợp tác giữa các cá nhân với nhau trong công việc,
giữa họ có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình thực hiện
hoạt động chung của nhóm.
Đặc trưng của nhóm được xác định bởi:
+ Số người trong nhóm
+ Nhiệm vụ của mỗi nhóm
+ Sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm
* Các hình thức chia nhóm
Hoạt động của con người thường là hoạt động của số đông, từ đó hình
thành các “nhóm”. Trong hoạt động dạy học căn cứ vào mục tiêu, nội dung,
mức độ khó dễ của các nhiệm vụ học tập, trình độ của đối tượng học sinh có
các hình thức chia nhóm khác nhau, đa phần sử dụng một số hình thức chia
nhóm sau:
+ Hình thức chia nhóm ngẫu nhiên

Đây là cách chia được tiến hành khi giữa các đối tượng học sinh không
cần có sự phân biệt. Mọi học sinh đều phải hoạt động để giải quyết vấn đề,
cùng chiếm lĩnh tri thức. Nhiệm vụ được giao không khác nhau nhiều về nội
dung, ít có sự chênh lệch về độ khó và có cùng chung một yêu cầu.
Ở hình thức chia nhóm ngẫu nhiên này, giáo viên có thể chia theo bàn,
theo tổ hoặc bằng cách điểm vòng tròn.
+ Chia nhóm cùng một trình độ
Việc chia nhóm cùng một trình độ được áp dụng khi cần có sự phân
hóa về trình độ bởi mức độ khó dễ của nội dung bài học cho từng đối tượng
học sinh. Người ta thường dựa vào các trình độ: giỏi, khá, trung bình và yếu
để chia thành những nhóm tương ứng.
Với cách chia nhóm này, giáo viên có thể có những yêu cầu cụ thể khác
22
nhau đối với từng nhóm trong việc giải quyết cùng một nhiệm vụ học tập.
Giáo viên có thể gợi ý cho nhóm yếu và có thể đưa ra yêu cầu cao hơn đối với
nhóm khá, giỏi và như thế sẽ tác động từng đối tượng học sinh trong lớp, gây
nên hứng thú học tập cho cả lớp, lớp học sẽ trở nên sinh động, sẽ hoạt động
một cách tích cực, tự giác theo sự hướng dẫn điều khiển của giáo viên.
Song, khi áp dụng hình thức chia nhóm này giáo viên cũng cần phải
thận trọng. Bởi vì, muốn chia đúng trình độ của học sinh, giáo viên phải nắm
chắc trình độ của họ, vì nếu không nắm chắc được trình độ của học sinh mà
chia sai nhóm thì sẽ dẫn đến sự phản tác dụng. Chẳng hạn cho học sinh khá
vào nhóm yếu sẽ làm cho học sinh khá không cần cố gắng và ngược lại học
sinh yếu sẽ ỷ lại mà không tự giác làm việc. Từ đó nảy sinh tâm lý tự ty trong
nhóm học yếu, tự kiêu trong nhóm học giỏi, khi chưa thực sự tự tin vào sự
đánh giá của mình, giáo viên chỉ nên sử dụng hình thức chia này vào việc giao
bài cho học sinh tự học.
+ Chia nhóm gồm đủ trình độ:
Cách chia này thường được sử dụng khi nội dung hoạt động dạy học
cần có sự hỗ trợ lẫn nhau. Chẳng hạn, khi tổ chức cho học sinh thực hành

ngoài lớp học, ôn tập, vận dụng kiến thức vào thực tế. Trong cách chia này
cần phải xác định vai trò của nhóm trưởng (người có năng lực hơn cả) là rất
quan trọng trong việc phân công nhiệm vụ cho các thành viên của nhóm.
+ Chia nhóm theo sở trường:
Trong các buổi học tập ngoại khóa thì cách chia này thường được tiến
hành. Mỗi nhóm sẽ gồm các học sinh có cùng chung sở trường hứng thú.
Tóm lại, có nhiều hình thức chia nhóm khác nhau, mỗi một hình thức
chia nhóm có đặc điểm và ưu thế riêng. Vì vậy trước khi quyết định việc chia
nhóm người giáo viên cần phải cân nhắc dựa vào mục tiêu bài học, loại bài
học, không gian, vị trí, trình độ, sở trường của học sinh.
Trong quá trình dạy học môn GDCD bằng phương pháp thảo luận
23
nhóm, theo chúng tôi hình thức chia phổ biến nhất vẫn là cách chia ngẫu
nhiên. Song, để cho nhóm chia ngẫu nhiên hạn chế những nhược điểm của nó
thì người giáo viên cần phải chú ý đến hai vấn đề:
+ Một là, nhiệm vụ được giao cho mỗi nhóm phải có cả các yêu cầu
khó, rễ khác nhau.
+ Hai là, phải điều hành sao cho mọi thành viên của nhóm đều phải
tích cực hoạt động.
1.1.2.2. Quan niệm về phương pháp thảo luận nhóm
* Khái niệm về thảo luận và phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận là: “Trao đổi phân tích bằng lý lẽ để làm sáng rõ một số vấn
đề” [17,10] .
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ: “Thảo luận nhóm là phương pháp trong
đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành
viên trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra
ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó.” [23,223]
Theo tác giả Lê Đức Ngọc: “Thảo luận nhóm là một sự trao đổi ý
tưởng, quan điểm, nhận thức giữa các học viên, để làm rõ và làm giàu sự hiểu
biết các nội dung phù hợp với hoạt động đào tạo” [24,18].

Có thể khái quát là: “Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học,
trong đó lớp học được chia thành các nhóm nhỏ để học sinh trong nhóm tích
cực, chủ động nghiên cứu, thảo luận các nhiệm vụ học tập để đạt được mục
tiêu học tập dưới sự hướng dẫn điều khiển của giáo viên”.
- Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm
+ Ưu điểm:
Qua nghiên cứu của các nhà giáo dục thì dạy học bằng phương pháp
thảo luận nhóm có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất: Học theo nhóm bao giờ cũng sôi nổi, nó tạo ra cơ hội tối đa
cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ sự hiểu biết và quan điểm của
24
mình về nội dung và phương pháp học tập; giúp họ phát triển khả năng diễn
đạt, trao đổi suy nghĩ và quan điểm một cách rõ ràng, tăng cường khả năng
chịu đựng và sự quan tâm của người học. Điều này đặc biệt có ích đối với
những học sinh nhút nhát, ngại ngùng, ít phát biểu trong lớp.
Thứ hai: Tạo cơ hội thuận lợi để các thành viên trong nhóm học hỏi lẫn
nhau. học sinh tập lắng nghe ý kiến của người khác một cách kiên nhẫn và
lịch sự, thể hiện quan điểm của mình, cũng như nhận xét đánh giá ý kiến của
bạn, điều chỉnh tư duy của mình.
Thứ ba: Tạo cơ hội để các thành viên trong lớp học làm quen, trao đổi và
hợp tác với nhau, hình thành thói quen tương tác trong học tập. Góp phần làm
tăng bầu không khí hiểu biết, tin cậy thân thiện và đoàn kết giữa các học sinh.
Thứ tư: Tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm,
đặc biệt là trong việc học tập các chủ đề có tính sáng tạo cao. Rèn luyện, phát
triển các kĩ năng tư duy phân tích, tổng hợp …
Thứ năm: Tạo cơ hội cho giáo viên có thông tin phản hồi về người học.
Đây là một trong những ưu điểm nổi trội của phương pháp thảo luận nhóm so
với các phương pháp dạy học khác. Mặt khác, giáo viên còn có thể thu được
tri thức và kinh nghiệm từ phía người học, qua các phát biểu có suy nghĩ và
sáng tạo của học sinh.

Như vậy, nếu phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức tốt sẽ tăng
cường tính tích cực, chủ động của học sinh, giúp học sinh tập trung vào bài
học, phát triển được các kỹ năng tư duy và óc phê phán, các kỹ năng giao tiếp
và xã hội quan trọng khác.
+ Hạn chế:
Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng phương pháp thảo luận nhóm cũng có
những khó khăn, hạn chế nhất định đó là:
Thứ nhất: Để phương pháp thảo luận nhóm có hiệu quả, đòi hỏi người
giáo viên phải có khả năng xây dựng, thiết kế những tri thức trong bài học
25
thành tình huống có vấn đề. Song, đó là việc không hề đơn giản với mọi giáo
viên và mọi bài học.
Thứ hai: Để tổ chức một buổi học bằng phương pháp thảo luận nhóm
có hiệu quả thì cả giáo viên và học sinh đều phải chuẩn bị, đầu tư nhiều về
thời gian và công sức. Đặc biệt là ở những lớp học quá đông thì đây thực sự là
một trở ngại. Vì thế học bằng phương pháp thảo luận nhóm sẽ làm mất nhiều
thời gian của cả giáo viên và học sinh.
Thứ ba: Hiệu quả học tập của nhóm phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần
tham gia của các thành viên trong nhóm, thảo luận chỉ có một vài người tham gia
tích cực thì dẫn đến tình trạng có một vài người là chủ nhân còn các thành viên
khác là khách ngồi nghe, để mặc cho người khác dẫn dắt và quyết định. Khi đó
thảo luận nhóm trở thành sự độc diễn cá nhân, hệt như phương pháp thuyết trình
của giáo viên. Còn các thành viên khác trở thành “người ngoài cuộc”– một hiện
tượng khá phổ biến trong thảo luận hiện nay.
Thứ tư: Sự tác động từ bên ngoài như sự giám sát thường xuyên của giáo
viên, yếu tố thi đua giữa các nhóm cũng ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình thảo luận.
Có thể thấy rằng thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy
học phát huy được tính tích cực, tự giác của người học. Nó đã tạo ra được một
môi trường học tập thuận lợi mà ở đó trí tuệ tập thể đã được phát huy cũng
như vai trò hoạt động xã hội của cá nhân được trải nghiệm. Nếu giáo viên là

người có tâm huyết, có quy trình và có biện pháp tổ chức thảo luận hữu hiệu
thì những khó khăn, hạn chế trên hoàn toàn có khả năng khắc phục được.
1.1.3. Hình thức thảo luận nhóm và điều kiện thảo luận nhóm trong dạy
học môn Giáo dục công dân
- Các hình thức thảo luận nhóm
Dạy học là một quá trình bao gồm nhiều hình thức tổ chức dạy học
khác nhau. Thảo luận nhóm là một trong những hình thức nhằm bồi dưỡng tư
duy khoa học, phát huy khả năng tư duy độc lập của học sinh, giúp học sinh

×