HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
VACXIN
1. Khái niệm về vacxin
1.1. Định nghĩa vacxin:
Vacxin là những chế phẩm có tính kháng nguyên dùng để tạo miễn dịch đặc
hiệu chủ động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một tác nhân gây bệnh
cụ thể. Việc dùng vắc-xin để phòng bệnh gọi chung là chủng ngừa hay tiêm
phòng hoặc tiêm chủng, mặc dù vắc-xin không những được cấy (chủng), tiêm mà
còn có thể được đưa vào cơ thể qua đường miệng.
1.2. Lịch sử và hướng phát triển của văc-xin
Edward Jenner được công nhận là người đầu tiên dùng vắc-xin để ngừa bệnh
cho con người ngay từ khi người ta còn chưa biết bản chất của các tác nhân gây
bệnh (năm 1796). Louis Pasteur với các công trình nghiên cứu về vi sinh học và
miễn dịch học đã mở đường cho những kiến thức hiện đại về vắc-xin.
Ở Trung Quốc, vào khoảng thế kỷ thứ 10, các thầy lang Đạo giáo đã bí mật
dùng một kỹ thuật phòng bệnh đậu mùa. Đậu mùa là chứng bệnh hiểm nghèo, nếu
không giết chết bệnh nhân thì nó cũng để lại những vết sẹo rỗ trên mặt. Các thầy
lang đã lấy vẩy sẹo của người bị bệnh (chứa mầm bệnh), cho vào một chiếc hộp
kín rồi giữ ở nhiệt độ nhất định trong một thời gian để giảm độc tính, sau đó
nghiền nhỏ thổi vào mũi của người khỏe chưa từng mắc bệnh đậu mùa để ngừa
bệnh.
Vac-xin đầu tiên gắn với tên tuổi của Edward Jenner, một bác sĩ người Anh.
Năm 1796, châu Âu đang có dịch đậu mùa, Jenner đã thực hiện thành công thử
nghiệm vắc-xin ngừa căn bệnh này. Kinh nghiệm dân gian cho thấy những nông
dân vắt sữa bò có thể bị lây bệnh đậu bò, nhưng sau khi khỏi bệnh, họ trở nên
miễn nhiễm đối với bệnh đậu mùa. Dựa vào đó, Jenner chiết lấy dịch từ các vết
đậu bò trên cánh tay của cô bệnh nhân Sarah Nelmes rồi cấy dịch này vào cánh tay
của cậu bé 8 tuổi khỏe mạnh cùng làng tên là James Phipps. Sau đó Phipps đã có
những triệu chứng của bệnh đậu bò. 48 ngày sau, Phipps khỏi hẳn bệnh đậu bò,
1
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
Jenner liền tiêm chất có chứa mầm bệnh đậu mùa cho Phipps, nhưng Phipps không
hề mắc căn bệnh này.
Sau thí nghiệm thành công của Jenner, phương pháp chủng đậu được triển
khai rộng rãi. Tính đến năm 1801, ở Anh đã có trên 100.000 người được chủng.
Tám mươi năm sau, Louis Pasteur nghiên cứu bệnh tả khi dịch tả đang tàn
sát đàn gà. Ông cấy các vi khuẩn tả trong phòng thí nghiệm rồi đem tiêm cho gà:
những con bị tiêm chết sạch. Mùa hè năm 1878, ông chuẩn bị một bình dung dịch
nuôi cấy vi khuẩn dạng huyền phù, rồi để đó, đi nghỉ mát. Khi trở về, ông lại trích
lấy huyền phù đó đem tiêm cho gà. Lần này thì bầy gà chỉ bị bệnh nhẹ rồi cả đàn
cùng khỏe lại. Pasteur hiểu ra rằng khi ông đi vắng, đám vi khuẩn trong huyền phù
đó đã bị biến tính, suy yếu đi. Ông bèn lấy vi khuẩn tả (bình thường) đem tiêm cho
những con gà vừa trải qua thí nghiệm trên và những con chưa hề bị chích vi
khuẩn. Kết quả là những con nào từng được chích vi khuẩn (biến tính) thì có khả
năng đề kháng lại mầm bệnh, bọn còn lại chết hết. Qua đó, Pasteur đã xác nhận
các giả thuyết của Jenner và mở đường cho khoa miễn dịch học hiện đại.
Từ đó, chủng ngừa đã đẩy lùi nhiều bệnh: triệt tiêu bệnh đậu mùa trên toàn
cầu, thanh toán gần như hoàn toàn bệnh bại liệt, giảm đáng kể các bệnh sởi, bạch
hầu, ho gà, bệnh ban đào, thủy đậu, quai bị, thương hàn và uốn ván v.v. Nguyên
tắc vẫn không có gì thay đổi: gây miễn dịch bằng một vi khuẩn hoặc virus giảm
độc lực, hoặc với một proteinđặc hiệu có tính kháng nguyên để gây ra một đáp
ứng miễn dịch, rồi tạo một trí nhớ miễn dịch đặc hiệu, tạo ra hiệu quả đề kháng
cho cơ thể về sau khi tác nhân gây bệnh xâm nhập với đầy đủ độc tính.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều bệnh vẫn còn đang thách thức con người, chưa có
vắc-xin nào đủ hiệu quả để ngăn ngừa. Trong đó phải kể nhiều bệnh do ký sinh
trùng (thí dụ sốt rét, giun, sán), vi khuẩn (lao), virus (cúm, sốt xuất huyết, AIDS
v.v.). Một số lý do có thể là các tác nhân gây bệnh biến đổi thường xuyên khiến
cho miễn dịch không còn hữu hiệu hoặc thậm chí tấn công ngay vào hệ miễn dịch
như trường hợp của HIV, AIDS, nhất là tại các nước đang phát triển.)
2. Các phương pháp sản xuất vắc-xin
2
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
2.1.Nguyên tắc chung:
- Tạo sinh khối: Đây là giai đoạn đầu tiên để sản xuất vắc-xin. Vi sinh vật
được nuôi cấy trong môi trường thích hợp để đạt được một số lượng lớn sinh khối
hoặc sản phẩm của chúng (toxoid, antigen). Các chủng vi sinh vật trước khi nuôi
cấy cần phải được kiểm tra về độ tinh khiết, không được lẫn vi sinh vật lạ. Quá
trình nuôi cấy được thực hiện trong các nồi nuôi cấy đặc biệt, có các thiết bị kiểm
soát quá trình tăng trưởng của vi sinh vật.
- Làm bất hoạt: Yêu cầu khi sản xuất văc-xin là phải an toàn cho người sử
dụng. Do đó các vi khuẩn sử dụng để chế tạo văc-xin phải không còn khả năng
gây bệnh nhưng vẫn giữ được tính kháng nguyên, nghĩa là có khả năng kích thích
hệ thống miễn dịch của cơ thể.
Đối với văc-xin vi khuẩn chết: có thể dùng các tác nhân diệt khuẩn như các
hóa chất (formalin, alcon, aceton), tia cực tím, siêu âm…
Đối với vacxin từ vi khuẩn sống giảm độc: có thể dùng phương pháp cấy
chuyền vi khuẩn nhiều lần trong môi trường nuôi cấy. Ví dụ vacxin BCG (Bacille
Calmette Guerin) là vacxin được chế tạo từ vi khuẩn lao bò được cấy chuyền trong
thời gian dài trên môi trường nuôi cấy.
- Sản xuất ra chế phẩm:
Sau khi làm bất hoạt, tiếp tục tinh khiết hóa và đông khô để tạo sản phẩm,
cuối cùng đóng gói. Tuỳ theo từng loại chế phẩm có thể đóng gói dưới dạng thuốc
lỏng để uống, dạng thuốc viên, dạng thuốc tiêm.
- Kiểm tra sản phẩm
Cần phải kiểm tra:
+ Độ vô trùng: chế phẩm vacxin không được lẫn các vi sinh vật lạ.
+ Đảm bảo đủ nồng độ.
+ Kiểm tra khả năng gây miễn dịch
2.2. Một số loại vắc-xin mới đang nghiên cứu
Vắc-xin tái tổ hợp: với công nghệ gen hiện đại, người ta cắt đoạn gen tổng
hợp nên protein đặc trưng cho vi sinh vật gây bệnh, ghép gen này vào vi khuẩn
3
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
hay tế bào nuôi cấy để tạo ra protein đặc hiệu cho mầm bệnh, dùng protein này đề
tiêm chủng tạo miễn dịch đặc hiệu. Dạng văc-xin này an toàn, ít tác dụng phụ, khả
năng miễn dịch cao. Một điển hình của vắc-xin dạng này là vắc-xin phòng viêm
gan virus B thế hệ II và III.
Các "toxoid" là các hợp chất độc bị bất hoạt trích từ các vi sinh vật (trong
trường hợp chính các độc chất này là phương tiện gây bệnh của vi sinh vật).
Chúng được tiêm cho vật chủ khác (như ngựa) để tạo kháng thể, rồi chiết lấy
kháng thể này để chữa bệnh. Ví dụ: các huyết thanh ngừa uốn ván và bạch hầu.
Một số vắc-xin này còn được xem là vắc-xin của tương lai, có 6 hướng phát
triển chính hiện nay:
• Sử dụng các phụ gia mới, nhằm gây ra loại đáp ứng miễn dịch mong muốn.
Thí dụ, chất nhôm phosphate và các oligonucleotide chứa CpG demethyl hóa đưa
vào vắc-xin khiến đáp ứng miễn dịch phát triển theo hướng dịch thể (tạo kháng
thể) thay vì tế bào.
• Vắc-xin khảm: sử dụng một sinh thể quen biết để hạn chế hiện tượng "phản
tác dụng", thí dụ dùng virus vaccinia mang một số yếu tố của virus viêm gan B
hay virus dại.
• Vắc-xin polypeptidique: tăng cường tính sinh miễn dịch nhờ liên kết tốt
hơn với các phân tử MHC: peptide nhân tạo 1/2 giống virus, 1/2 kia gắn MHC;
đoạn peptide mô phỏng 1 quyết định kháng nguyên.
• Anti-idiotype: idiotype là cấu trúc không gian của kháng thể tại vị trí gắn
kháng nguyên, đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng. Anti-idiotype là các kháng
thể đặc hiệu đối với idiotype, do đó anti-idiotype xét về mặt đặc hiệu lại tương tự
với kháng nguyên. Vậy, thay vì dùng kháng nguyên X làm vắc-xin, người ta dùng
idiotype anti-anti-X.
• Vắc-xin DNA: DNA của tác nhân gây bệnh sẽ được biểu hiện bởi tế bào
người được chủng ngừa. Lợi thế của DNA là rẻ, bền, dễ sản xuất ra số lượng lớn
nên thích hợp cho những chương trình tiêm chủng rộng rãi. Ngoài ra, vắc-xin
DNA còn giúp định hướng đáp ứng miễn dịch: tác nhân gây bệnh ngoại bào được
4
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
trình diện qua MHC loại II, dẫn đến đáp ứng CD4 (đáp ứng miễn dịch dịch thể).
Khi kháng nguyên của tác nhân đó được chính cơ thể người biểu hiện, nó sẽ được
trình diện qua MHC loại I, lúc này đáp ứng miễn dịch tế bào qua CD8 được kích
thích. Tuy nhiên phương pháp này là con dao hai lưỡi bởi lẽ tế bào mang DNA lạ
có nguy cơ bị nhận diện là "không ta", sinh ra bệnh tự miễn.
• Sử dụng véc-tơ tái tổ hợp – dùng các vi khuẩn thuần tính hoặc các tế bào
trình diện kháng nguyên như tế bào tua được chuyển gen để biểu hiện kháng
nguyên mong muốn.
Một trong những hướng nghiên cứu mới là miễn dịch liệu pháp, bao gồm
miễn dịch liệu pháp thụ động và chủ động (tức vắc-xin liệu pháp). Người ta hy
vọng là phương pháp này sẽ chữa được những bệnh như ung thư, AIDS và bệnh
Alzheimer.
3. Nguyên tắc sử dụng
vacxin
Việc sử dụng vacxin phải đảm bảo các nguyên tắc sau
- Tiêm chủng trên phạm vi rộng, đạt tỷ lệ
cao.
- Tiêm chủng đúng đối
tượng.
- Bắt đầu tiêm chủng đúng lúc; bảo đảm đúng khoảng cách giữa
các
lần tiêm chủng; tiêm chủng nhắc lại đúng thời
gian.
- Tiêm chủng đúng đường và đúng liều
lượng.
- Nắm vững phương pháp phòng và xử trí các phản ứng không
mong
muốn do tiêm
chủng.
- Bảo quản vacxin đúng quy
định.
Phạm vi và tỷ lệ tiêm
ch
ủ
ng
- Phạm vi tiêm
chủng:
Phạm vi tiêm chủng được quy định theo tình hình dịch tễ của
từng
bệnh.
Phạm vi tiêm chủng đương nhiên không giống nhau giữa các
nước.
Ngay
cả các khu vực trong một nước cũng có thể có sự khác nhau.
Những
quy
định này lại có thể thay đổi theo thời gian do sự thay đổi về dịch tễ
dịch
tễ
học của bệnh nhiễm khuẩn. Về lý thuyết, người ta thường nói tiêm
chủng
càng
5
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
rộng càng tốt. Thực tế thì không thể thực hiện được điều đó vì những
lý
do sau
đây: Thứ nhất, sẽ rất tốn kém; thứ hai, tuy các phản ứng
không
mong muốn
do vacxin gây ra rất ít nhưng không phải là không
có.
- Tỷ lệ tiêm
chủng:
Những khu vực có lưu hành bệnh truyền nhiễm, tiêm chủng phải
đạt
trên 80% đối tượng chưa có miễn dịch mới có khả năng ngăn ngừa được
dịch.
Nếu tỷ lệ tiêm chủng chỉ đạt trong khoảng từ 50% đến 80%, nguy cơ xảy
ra
dịch chỉ giảm bớt. Nếu tỷ lệ tiêm chủng dưới 50% dịch vẫn dễ dàng xảy
ra.
Đối tượng tiêm
ch
ủ
ng
Đối tượng cần được tiêm chủng một loại vacxin nào đó là tất cả
những
người có nguy cơ nhiễm vi sinh vật gây bệnh mà chưa có miễn
dịch.
Trẻ em là đối tượng cần được đặc biệt quan tâm. Sau khi hết miễn dịch
thụ
động do mẹ truyền (trong thời gian khoảng 6 tháng) nguy cơ mắc bệnh
của
trẻ rất lớn. Mặt khác miễn dịch thụ động nhờ kháng thể truyền qua rau
thai
hoặc qua sữa chỉ có đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ chủ yếu do
miễn
dịch dịch thể. Đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ là miễn dịch qua
trung
gian tế bào thì trẻ có thể bị bệnh ngay từ những tháng đầu tiên sau khi
sinh.
Những hiểu biết này là cơ sở cho việc quy định thời điểm bắt đầu tiêm
chủng
cho trẻ em. Trừ những đối tượng chống chỉ định, tất cả trẻ em đều phải
được
tiêm
chủng.
Đối với người lớn, đối tượng tiêm chủng thu hẹp hơn. Thường chỉ
tiến
hành tiêm chủng cho những nhóm người có nguy cơ cao. Trong thời kỳ
mở
cửa, số lượng người đi du lịch giữa các nước ngày càng lớn, tiêm chủng
cho
người du lịch đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với cả nước có công dân
đi
du lịch và cả nước đón khách du
lịch.
Trong những năm gần đây, đề phòng bệnh uốn ván sơ sinh, phụ nữ
ở
lứa tuổi sinh đẻ được tiêm phòng uốn
ván.
Diện chống chỉ định tiêm chủng (không được tiêm chủng) có
hướng
6
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
dẫn riêng đối với mỗi vacxin. Nói chung không được tiêm chủng cho các
đối
tượng sau
đây:
- Những người đang bị sốt cao. Những trường hợp đang bị
nhiễm
khuẩn nhẹ không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ thì không cần phải hoãn tiêm
chủng.
- Những người đang ở trong tình trạng dị ứng. Những người có cơ
địa
dị ứng hoặc có lịch sử gia đình bị dị ứng vẫn tiêm chủng được, nhưng
cần
phải theo dõi cẩn thận
hơn.
- Vacxin sống giảm độc lực không được tiêm chủng cho những
người
bị thiếu hụt miễn dịch, những người đang dùng thuốc đàn áp miễn dịch
hoặc
những người mắc bệnh ác
tính.
- Tất cả các loại vacxin virut sống giảm độc lực không được
tiêm
chủng cho phụ nữ đang mang
thai.
Thời gian tiêm
ch
ủ
ng
Việc tiêm chủng được tiến hành thường xuyên hoặc tập trung
tiêm
chủng hàng loạt tùy thuộc vào yêu cầu của mỗi loại vacxin và các điều
kiện
cụ thể
khác.
- Thời điểm tổ chức tiêm chủng: Khi đã xác định được quy luật
xuất
hiện dịch, cần phải tiến hành tiêm chủng đón trước mùa dịch, để cơ thể có
đủ
thời gian hình thành miễn dịch. Đối với vacxin được tiêm chủng lần đầu,
thời
gian tiềm tàng kéo dài từ 24 giờ đến 2 tuần (trung bình khoảng 1 tuần),
tùy
thuộc vào bản chất vacxin và tính phản ứng của cơ thể. Hiệu giá
kháng
thể
đạt được đỉnh cao nhất sau khoảng 4 ngày đến 4 tuần (trung bình 2
tuần).
Đó
là kết quả của đáp ứng miễn dịch tiên phát. Khi tiêm chủng nhắc lại,
thời
gian
tiềm tàng sẽ rút ngắn, hiệu giá kháng thể đạt được đỉnh cao nhất chỉ
sau
một
số ngày nhờ những tế bào lympho có trí nhớ miễn dịch. Đó là kết quả
của
đáp
ứng miễn dịch thứ
phát.
- Khoảng cách giữa các lần tiêm chủng: Đối với những vacxin
phải
tiêm chủng nhiều lần (khi tạo miễn dịch cơ bản), khoảng cách hợp lý giữa
các
lần tiêm chủng là 1 tháng. Nếu khoảng cách này ngắn hơn, mặc dù
tiêm
7
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
chủng lần sau nhưng kết quả đáp ứng của cơ thể vẫn chỉ như tiên phát,
đáp
ứng miễn dịch thứ phát sẽ không có hoặc bị hạn chế. Ngược lại, vì một lý
do
nào đó phải tiêm chủng lần tiếp theo sau hơn 1 tháng, hiệu quả miễn dịch
vẫn
được đảm bảo, vì vậy lần tiêm chủng trước vẫn được tính. Tuy nhiên,
không
nên kéo dài việc tiêm chủng nếu không có những lý do bắt buộc, vì trẻ có
thể
bị mắc bệnh trước khi được tiêm chủng đầy
đủ.
- Thời gian tiêm chủng nhắc lại: Tùy thuộc vào thời gian duy trì
được
tình trạng miễn dịch có đủ hiệu lực bảo vệ của mỗi loại vacxin. Thời gian
này
khác nhau đối với các loại vacxin khác nhau. Khi tiêm chủng nhắc lại
thường
chỉ cần 1 lần. Với lần tăng cường này, cơ thể sẽ đáp ứng miễn dịch nhanh
và
mạnh hơn, cho dù kháng thể của lần tiêm chủng trước chỉ còn lại rất
ít.
Liều lượng và đường đưa vacxin vào cơ
thể
a.Liều lượng
Liều lượng vacxin tùy thuộc vào loại vacxin và đường đưa vào cơ
thể.
Liều lượng quá thấp sẽ không đủ khả năng kích thích cơ thể đáp ứng
miễn
dịch. Ngược lại, liều lượng quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng dung nạp đặc
hiệu
đối với lần tiêm chủng tiếp
theo.
b- Đường tiêm
c
hủng
- Chủng (rạch da): đây là đường cổ điển nhất, được thực hiện ngay
từ
lúc Jenner sáng chế ra vacxin phòng bệnh đậu mùa. Đối với vacxin
này,
đường chủng vẫn được dùng cho tới khi bệnh đậu mùa bị tiêu diệt hoàn
toàn
trên hành tinh của chúng ta (1979), không cần phải chủng đậu nữa. Ngày
nay
đường chủng vẫn còn được sử dụng cho một số ít
vacxin.
- Đường tiêm: Có thể tiêm trong da, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp,
không
bao giờ tiêm vacxin vào đường tĩnh mạch. Tiêm trong da có thể được
thực
hiện bằng bơm kim tiêm hoặc bằng bơm nén áp lực không
kim.
- Đường uống: Đường uống là đường đưa vacxin vào cơ thể dễ
thực
hiện nhất. Tuy nhiên chỉ thực hiện được đối với vacxin không bị dịch
đường
8
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
tiêu hóa phá hủy. Cùng với tiến bộ trong sự hiểu biết về vai trò của miễn
dịch
tại chỗ do IgA tiết, những vacxin phòng bệnh đường tiêu hóa (hoặc bệnh
ở
nơi khác nhưng vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể theo đường tiêu hóa)
đã
được sử dụng hoặc đang được nghiên cứu đưa vào cơ thể bằng cách
uống.
Đường uống kích thích miễn dịch tiết tại chỗ mạnh hơn nhiều so với
đường
tiêm.
Ngoài 3 đường nói trên, vacxin còn được vào cơ thể theo một số
đường
khác như khí dung, đặt dưới lưỡi, thụt vào đại tràng, những đường này
ít
được sử
dụng.
Các phản ứng phụ do tiêm
ch
ủ
ng
Về nguyên tắc, vacxin phải đảm bảo đủ độ an toàn. Song trên thực
tế
không thể đạt được mức độ an toàn tuyệt đối. Tất cả các vacxin đều có
thể
gây ra phản ứng phụ ở một số
người.
- Phản ứng tại chỗ: Những phản ứng nhẹ thường gặp sau tiêm chủng
là
nơi tiêm có thể hơi đau, mẩn đỏ, hơi sưng hoặc nổi cục nhỏ. Những phản
ứng
này sẽ mất đi nhanh chóng sau một vài ngày, không cần phải can thiệp
gì.
Nếu tiêm chủng không đảm bảo vô khuẩn, nơi tiêm có thể bị viêm
nhiễm,
mưng
mủ.
- Phản ứng toàn thân: Trong các phản ứng toàn thân, sốt hay gặp
hơn
cả (10% đến 20%). Sốt thường hết nhanh sau một vài ngày. Co giật có
thể
gặp nhưng với tỷ lệ rất thấp (1/10.000), hầu hết khỏi không để lại di chứng
gì.
Một số vacxin có thể gây ra phản ứng nguy hiểm hơn, trong đó có sốc
phản
vệ
.
Khi bàn về những phản ứng do vacxin, rất cần phải nhấn mạnh
rằng
mức độ nguy hiểm do vacxin nhỏ hơn rất nhiều so với mức độ nguy hiểm
do
bệnh nhiễm khuẩn tương ứng gây ra. Thí dụ, tỷ lệ biến chứng nguy hiểm
do
bệnh ho gà gấp hàng trăm đến hàng nghìn lần phản ứng nguy hiểm do
vacxin
bạch hầu – ho gà – uốn ván (vacxin DPT) gây
ra.
Bảo quản
vacxin
9
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
Vacxin rất dễ bị hỏng nếu không được bảo quản đúng. Chất
lượng
vacxin ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực tạo miễn dịch, vì vậy các vacxin
cần
phải được bảo quản tốt ngay từ lúc nó được sản xuất cho tới khi được
tiêm
chủng vào cơ thể. Thường quy trình bảo quản các vacxin không giống
nhau,
nhưng nói chung các vacxin đều cần được bảo quản trong điều kiện khô,
tối
và
lạnh.
Nhiệt và ánh sáng phá hủy tất cả các loại vacxin, nhất là những
vacxin
sống như vacxin sởi, bại liệt và vacxin BCG sống. Ngược lại, đông lạnh
phá
hủy nhanh các vacxin giải độc tố (như vacxin phòng uốn ván và bạch
hầu).
Trong quá trình sử dụng ở cộng đồng, các vacxin cần được bảo quản ở
nhiệt
độ trong khoảng từ 2
o
C đến
8
o
C.
Một trong những công việc quan trọng nhất trong việc tổ chức
tiêm
chủng là tạo lập được dây chuyền lạnh. Dây chuyền lạnh không đơn thuần
là
có các nhà lạnh, tủ lạnh, các phích đá hoặc các hộp cách nhiệt mà còn
phải
lưu ý cả những khâu trung gian trong quá trình vận chuyển vacxin và
tiến
hành tiêm chủng. Vacxin nếu đã bị phá hủy dù có được bảo quản lai ở
điều
kiện thích hợp cũng không thể có hiệu lực trở lại, cũng không có tác
dụng
nữa, phải loại
bỏ.
Một điểm cũng cần được lưu ý là các hóa chất tẩy uế, sát trùng đều
có
thể
phá hủy vacxin. Nếu các dụng cụ tiêm chủng được khử trùng bằng
hóa
chất thì
chỉ cần một lượng rất ít dính lại cũng có thể làm hỏng vacxin. Vì
vậy
các dụng cụ
tiêm chủng trước khi dùng phải được rửa sạch sau đó khử
trùng
ở nhiệt độ cao
bằng cách luộc hoặc
hấp.
4. Một số loại vacxin đang được sử dụng ở Việt Nam
Trong chương trình tiêm chủng mở rộng ở nước ta có 6 loai văc-xin được
trình bày bằng bảng dưới đây:
10
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
Lịch tiêm chủng các vacxin trong chương trình tiêm chủng mở rộng:
Vacxin
Liều
lượng
Đường tiêm
chủng
Tuổi tiêm chủng
BCG
(phòng lao)
0,1ml
Trong da
(thường ở
cánh tay trái)
Sơ sinh hoặc bất kỳ thời
gian nào sau đó
SABIN
(phòng bại
liệt)
2 giọt Uống Sơ sinh và lúc 2, 3, 4 tháng
tuổi. Trẻ < 5 tuổi hàng năm
uống 2 liều tăng cường cách
nhau 1 tháng.
DPT (phòng
bạch hầu, ho
gà, uốn ván).
0,5ml
Tiêm bắp
(thường ở đùi)
Lúc 2, 3, 4 tháng tuổi. Tiêm
1 mũi tăng cường sau khi
tiêm mũi thứ ba 1 năm.
Sởi
0,5ml Dưới da
(thường ở
cánh tay trái)
Lúc 9 tháng tuổi
Hoặc sớm nhất sau đó.
Ngoài 6 loại vacxin trong chương trình tiêm chủng mở rộng kể trên, ở nước
ta hiện nay còn có một số loại vacxin khác đang được sử dụng như : vacxin phòng
bệnh uốn ván, vacxin phòng bệnh tả, vacxin phòng bệnh thương hàn, vacxin
phòng bệnh nhiễm khuẩn do H. influenzae typ b, vacxin phòng bệnh viêm màng
não do cầu khuẩn màng não nhóm A và C, vacxin phòng bệnh dại, vacxin phòng
bệnh viêm gan virus B, vacxin phòng bệnh viêm não Nhật Bản.
5. Hướng phát triển các vacxin mới
Một số vacxin mới để phòng chống các nhiễm trùng do vi khuẩn, virus và
ký sinh trùng đã và đang được thử nghiệm như vacxin phòng bệnh hủi, bệnh lỵ
trực khuẩn, các nhiễm trùng do S. pneumoniae, virus Rota, ký sinh trùng sốt rét
Người ta cũng hy vọng trong thời gian không xa sẽ có vacxin phòng giang mai,
lậu và HIV/AIDS.
Các vacxin chống ung thư gan nguyên phát, chống ung thư cổ tử cung,
11
HỌ TÊN: NGUYẾN THU HẰNG. Lớp CH17 - Mã HV:1211021 - Nhóm 1.
Tiểu luận Hóa trị liệu
chống ung thư bạch cầu Burkih là những bước tiến quan trọng đầu tiên
của
con người trong việc tìm kiếm biện pháp miễn dịch chống hiểm hoạ ung
thư.
Nhờ ghép được ADN của vi khuẩn Hansen vào vi khuẩn E.coli mà người
ta
hy vọng làm ra được vacxin chống phong thế hệ hai ngừa một bệnh nan
y
đang làm khổ sở 15 triệu người trên thế giới.
Các dạng trình bày mới của vac-xin cũng không ngừng tiến bộ, đó là các
loại: ADN tái tổ hợp di truyền, vacxin ăn qua miệng,
vacxin
tinh thể Trehaloz,
vacxin dán trên da.Một gen kháng nguyên được ghép
vào
hệ gen của một
vi khuẩn hay virut (vecto) dưới sự điều hoà của
một
promoter, rồi gây
nhiễm cho cơ thể, kích thích tạo miễn dịch. Vacxin tái
tổ
hợp có vecto dẫn
truyền này, cũng như loại hình vacxin sống giảm độc,
còn
nhiều hạn chế.
Trước hết nó khá cồng kềnh do phải duy trì nguồn virut hay
vi
khuẩn sống. Do
vậy, người ta phải tìm kiếm một phương thức khác, đưa
gen
kháng nguyên vào
một vecto đơn giản là plasmid. Thực nghiệm cho thấy,
khi
đưa ADN của một
loại plasmid tái tổ hợp mang gen kháng nguyên ngoại
lai
vào cơ thể thì cơ thể
lại tạo miễn dịch chống lại. Việc nghiên cứu
thử
nghiệm này đã và còn tiếp tục
trong những năm tới
đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Hiệp, Nguyễn Lân Dũng, Sản xuất và sử dụng Vac-xin
2. Lê Văn Hiệp, Nguyễn Lân Dũng, Công nghệ sản xuất Vac-xin cho
người
3. Bộ Y tế, Thông tư số 26/2011/TT-BYT về Danh mục bệnh truyền
nhiễm, phạm vi đối tượng phải sử dụng vac-xin, sinh phẩm y tế bắt buộc
12