Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Nghiên cứu phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại vùng ven biển tỉnh nam đinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.22 KB, 120 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu.
Du lịch Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong những
năm gần đây trong đó không thể không kể đến sự đóng góp của hoạt động du
lịch cộng đồng. Với mục tiêu chính là tạo ra thu nhập bổ sung cho người dân,
bảo tồn và duy trì các nguồn tài nguyên văn hóa của địa phương, phát triển và
tăng cường cơ sở hạ tầng và cơ sở kinh doanh du lịch, xây dựng năng lực và tăng
thêm quyền cho cộng đồng, tạo sự hiểu biết giữa dân cư địa phương với cơ sở
kinh doanh và khách du lịch, du lịch dựa vào cộng đồng ngày càng khẳng định
được vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát
triển hoạt động du lịch của địa phương nói riêng. Thông qua hoạt động du lịch
dựa vào cộng đồng, người dân có thêm thu nhập từ việc đón khách, cho thuê đất
cắm trại, chỗ nghỉ đêm (home stay), dịch vụ ăn uống và hướng dẫn khách tham
quan
Tham gia các chương trình tour du lịch dựa vào cộng đồng, du khách có
cơ hội khám phá nơi sinh sống, tham quan, tìm hiểu các tập tục sinh hoạt, tập
quán canh tác của người dân bản địa. Tại các vùng nông thôn và vùng ven biển,
nơi chưa có sự tác động lớn của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là vùng có nhiều
người dân nghèo sinh sống với các nếp sinh hoạt mang đậm đà bản sắc riêng rất
phù hợp để phát triển loại hình du lịch dựa vào cộng đồng
Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng là loại hình du lịch còn mới ở Việt
Nam. Một số mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng đã được hình thành
bước đầu ở một số địa phương như tại SaPa (Lào Cai), Thừa Thiên - Huế do
Tổ chức phát triển Hà Lan giúp đỡ; tại Hòn Mun - Khánh Hòa, Giao Thủy - Nam
1
Định do Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng tài trợ Một
số địa phương cũng đã hình thành ở mức độ khác nhau sự liên kết của cộng đồng
trong kinh doanh du lịch Nhìn chung, phát triển du lịch dựa vào cộng đồng nêu
trên đã có tác dụng tích cực, đem lại lợi ích cho người dân, góp phần xoá đói
giảm nghèo và nâng cao ý thức về bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường. Song
các kết quả này còn ở phạm vi hẹp, tự phát, hoạt động du lịch cộng đồng còn


nhiều khó khăn, bất cập, chưa khai thác mạnh được những đặc điểm, lợi thế của
du lịch dựa vào cộng đồng.
Vùng ven biển Nam Định bao gồm các huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu Nghĩa
Hưng tiếp giáp với biển Đông ở phía Đông Nam, diện tích khoảng 700km
2
. Bờ
biển kéo dài 72km từ cửa Ba Lạt đến cửa Đáy.
Vùng ven biển Nam Định là khu vực rất phong phú về các kiểu sinh cảnh,
trong đó quan trọng nhất là các bãi cát ngập triều, trảng sậy và rừng ngập mặn.
Ngoài ra, các bãi bồi ngập triều cũng là một sinh cảnh quan trọng, là nơi kiếm ăn
của các loài chim ven bờ, trong số đó có một số loài được đưa vào sách đỏ bị đe
doạ toàn cầu như: Mòng bể mỏ ngắn, Cò mỏ thìa Đây còn là nơi trú ngụ của
một số loài chim khác với số lượng lớn. Rừng ngập mặn ở vùng ven biển Nam
Định có thực vật ưu thế thuộc loài Trang, Bần Chua, Vẹt Dù và Sú.
Khu vực có giá trị về sinh cảnh và đa dạng sinh học phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lịch. Vùng ven biển Nam Định cũng là nơi có
nhiều địa danh lịch sử và giàu truyền thống văn hoá như là ngọn hải đăng cồn
Vành, thăm tượng đài Trường Chinh, thăm làng quê Hành Thiện, nhà thờ Bùi
2
Chu, nhà thờ Phú Nhai, đình, chùa của các xã, làng ven biển hoặc đi thuyền xa
xa chút du khách đến thăm các nông trường cói, chiếu (Thái Bình)…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tài nguyên và môi
trường tự nhiên ở vùng ven biển Nam Định đã và đang bị suy thoái, ô nhiễm do
tình trạng khai thác tài nguyên quá mức, tạo ra các sức ép đối với tài nguyên môi
trường của vùng ven biển. Do vậy, đề tài đã chọn vùng ven biển Nam Định là
điểm nghiên cứu
Các giá trị tài nguyên môi trường hiện đang bị tác động bởi sức ép mưu
sinh, sinh kế của người dân. Để bảo tồn và phát huy các giá trị trên, góp phần
phát triển bền vững cần có sự chuyển đổi phương thức sinh kế truyền thống và
du lịch cộng đồng là một phương pháp tiếp cận có hiệu quả.

Có thể dễ dàng nhận thấy, cộng đồng dân cư ở vùng ven biển Nam Định
sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, và khai thác các nguồn lợi sẵn có về thuỷ sản
và các giá trị sinh thái ven biển. Việc khai thác quá mức tự nhiên này đã dẫn đến
huỷ hoại sự đa dạng của các hệ sinh thái ven biển, đặc biệt là hệ thống rừng ngập
mặn ở VQG Xuân Thủy. Biến diện tích đất canh tác nông nghiệp thành các ao
nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt cũng là một cách tàn phá tài nguyên đất đai, làm mặn
hoá các cánh đồng đã được thau chua rửa mặn.
Trong bối cảnh trên việc lựa chọn một phương thức tiếp cận mới về sinh
kế của người dân sao cho vừa khai thác được những tiềm năng đa dạng và phong
phú về tự nhiên và văn hóa bản địa, vừa hạn chế được những tác động, góp phần
bảo tồn tự nhiên và văn hóa là hết sức cần thiết.
3
Phát triển du lịch nói chung, đặc biệt là du lịch dựa vào cộng đồng chính
là phương thức tiếp cận phù hợp với mục tiêu trên. Đây chính là lý do chọn đề
tài nghiên cứu.
Đề tài: “Nghiên cứu phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại vùng ven
biển tỉnh Nam Đinh” sẽ góp phần khơi dậy tiềm năng phát triển loại hình du lịch
dựa vào cộng đồng của vùng ven biển, đồng thời hướng tới mục tiêu bảo tồn bền
vững đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái thuỷ sinh
vùng ven biển.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu ngắn hạn: Cộng đồng dân cư ven biển có được phương thức
làm kinh tế với nghề mới, có được một mô hình quản lý khai thác tài nguyên bền
vững dưới góc độ tiếp cận mới.
- Mục tiêu lâu dài: Góp phần phát triển bền vững, bảo tồn và phát huy các
giá trị cảnh quan, sinh thái và văn hoá bản địa vùng ven biển Nam Định.
Thiết lập mối quan hệ lâu dài giữa các bên liên quan nhà quản lý - công ty
lữ hành - cộng đồng dân cư ven biển nhằm phát triển hiệu quả việc kinh doanh
du lịch vùng ven biển và nâng cao được đời sống của cộng đồng vùng ven biển

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan một số cơ sở lý luận về cộng đồng, du lịch cộng đồng, du lịch
dựa vào cộng đồng. Đánh giá tiềm năng các điều kiện có liên quan và hiện trạng
4
phát triển du lịch dựa vào cộng đồng, xác định những vấn đề đặt ra đối với phát
triển du lịch dựa vào cộng đồng và nguyên nhân.
- Xác định định hướng và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch dựa
vào cộng đồng tại vùng ven biển Nam Định.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi lãnh thổ nghiên cứu gồm có 3 huyện vùng ven biển là Giao Thủy,
Hải Hậu, Nghĩa Hưng.
3.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế -
xã hội, các vấn đề về tài nguyên du lịch, môi trường trong hoạt động kinh
doanh du lịch và các lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch dựa vào cộng
đồng của vùng trên quan điểm tổng hợp và từ đó đưa ra các khuyến nghị về
không gian sử dụng hợp lý cho phát triển du lịch cộng đồng, đặc biệt là phát
triển du lịch dựa vào cộng đồng cho vùng ven biển nói chung và vùng đệm
VQG Xuân Thủy, từ đó đề xuất mô hình quản lý, tổ chức du lịch dựa vào
cộng đồng cho vùng ven biển Nam Định.
3.2. Cơ sở dữ liệu sẽ được sử dụng trong nghiên cứu
- Các tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đã công bố (số liệu
khí hậu, thuỷ văn; số liệu về kinh tế, xã hội; hiện trạng sử dụng đất ).
- Bản đồ địa hình khu vực nghiên cứu.
- Các tài liệu nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài.
- Các tài liệu, số liệu về hiện trạng du lịch cộng đồng xã Giao Xuân do
Trung tâm Bảo tồn Sinh vật Biển và Phát triển Cộng đồng (MCD), số liệu về
5
hiện trạng phát triển du lịch vùng ven biển của Sở Văn hóa Thể thao Du lịch
Nam Định cung cấp.

- Tài liệu nghiên cứu khảo sát thực địa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu
sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Đây là một phương pháp truyền thống
trong nghiên cứu khoa học. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong
quá trình giải quyết các nội dung nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Nhằm thu thập những số liệu, thông tin thực tế
về nhận thức, suy nghĩ của những nhà hoạch định chính sách. Số liệu, thông tin
thu thập được sẽ giúp hình thành bức tranh thực tế của vấn đề nghiên cứu mang
tính thực tế, có khả năng thực thi.
- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá
trình nghiên cứu về định lượng trong mối quan hệ chặt chẽ về mặt định tính của
các hiện tượng và quá trình, đối chiếu với quá trình phát triển du lịch. Phương
pháp toán thống kê được vận dụng nghiên cứu trong luận văn này để xác định
hiện trạng hoạt động du lịch thông qua các chỉ tiêu phát triển ngành cơ bản. Về
mặt nghiên cứu các vấn đề cộng đồng, phương pháp này hỗ trợ xử lý các thông
tin để xây dựng mô hình phù hợp cho nhiệm vụ đã đặt ra.
- Phương pháp sơ đồ, bản đồ: Đây là phương pháp cần thiết trong quá
trình nghiên cứu có liên quan đến tổ chức lãnh thổ. Bản đồ được sử dụng chủ
yếu theo hướng chuyên ngành để phân tích đánh giá tiềm năng phát triển du lịch
và điều kiện có liên quan. Ngoài mục đích minh họa về vị trí địa lý, phương pháp
6
này còn giúp cho các nhận định, đánh giá trong quá trình nghiên cứu được thể
hiện một cách tổng quát.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa: Công tác thực địa có mục đích
cơ bản là kiểm tra chỉnh lý và bổ sung những tư liệu, đối chiếu và lên danh mục
cụ thể từng đối tượng nghiên cứu, sơ bộ đánh giá các yếu tố cần thiết cho việc
xây dựng các yếu tố hợp phần của mô hình tổ chức quản lý du lịch dựa vào cộng
đồng vùng ven biển Nam Định

5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung của
khoá luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng.
Chương 2: Tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch dựa vào cộng
đồng ở vùng ven biển Nam Định.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch dựa vào
cộng đồng tại vùng ven biển tỉnh Nam Định
7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH
DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
1.1. Cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng
1.1.1 Cơ sở lý luận về cộng đồng
1.1.1.1 Khái niệm về cộng đồng
Khái niệm về cộng đồng là một trong những khái niệm cơ bản của khoa
học xã hội và nhân văn với nhiều định nghĩa khác nhau.
Cộng đồng thường được hiểu là những nhóm dân cư sinh sống trên cùng
một lãnh thổ qua nhiều thế hệ, có những đặc điểm chung về sinh hoạt và văn hoá
truyền thống, sử dụng chung các nguồn tài nguyên, môi trường.
Cộng đồng là nền tảng phát triển của mọi xã hội. Khái niệm cộng đồng có
thể được hiểu ở những mức độ quy mô khác nhau từ làng, bản đến bộ tộc, dân
tộc, quốc gia. Tuy nhiên trong thực tế, cộng đồng thường được hiểu theo nghĩa
hẹp, hạn chế đối với những nhóm cư dân sinh sống ở những vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội còn kém phát triển, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào việc
khai thác trực tiếp các nguồn tài nguyên thiên nhiên [15, tr37].
Cộng đồng thường xem các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất
đai, nguồn nước…là “ngân hàng” của họ, nơi mà họ có thể dựa vào để sinh sống.
Cộng đồng sử dụng các nguồn tài nguyên nơi mình sinh sống cùng với việc phát
triển các tập quán quản lý riêng. Họ khai thác tài nguyên theo nhiều phương thức
và chia sẻ lợi ích từ việc khai thác cho những thành viên khác trong cộng đồng

của mình. Việc chia sẻ nguồn lợi luôn đi liền với chia sẻ trách nhiệm bảo tồn
được xem là triết lý sống của cộng đồng được truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác [15, tr38].
8
Khái niệm cộng đồng bao gồm các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ cho đến các tổ chức ít có cấu trúc chặt chẽ, là một nhóm xã hội có lúc khá
phân tán, được liên kết bằng lợi ích chung trong một không gian tạm thời, dài
hay ngắn như phong trào quần chúng, công chúng khán giả, đám đông… Đây là
một định nghĩa rất hay được sử dụng trong khoa học xã hội, gắn với các thực thể
xã hội nhất định.
Có một định nghĩa khác nhìn nhận cộng đồng như một đặc thù chỉ có ở
nền văn minh con người, ở đó, con người hợp tác với nhau vì những lợi ích
chung, thường được gọi là tính cộng đồng.
Nhìn chung có hai cách hiểu về cộng đồng: một là cộng đồng tính và hai là
cộng đồng thể. Hai cách hiểu về cộng đồng này khác nhau nhưng không đối lập
nhau. Cộng đồng tính là thuộc tính hay là quan hệ xã hội có những đặc trưng mà
các nhà xã hội học đã cố gắng xác định và cụ thể hoá, chẳng hạn như tình cảm
cộng đồng, tinh thần cộng đồng, ý thức cộng đồng… Cộng đồng thể tức là những
nhóm người, những nhóm xã hội có tính cộng đồng với rất nhiều thể có quy mô
khác nhau, đó là các thể nhỏ, thể vừa, thể lớn và thể cực lớn, kể từ gia đình, quốc
gia đến nhân loại [15, tr40].
1.1.1.2. Bản chất cộng đồng
Theo một số nhà khoa học, khái niệm cộng đồng bao gồm bốn yếu tố:
1. Tương quan cá nhân mật thiết với những người khác, tương quan này
đôi khi được gọi là tương quan đệ nhất đẳng, tương quan mặt đối mặt,
tương quan thân mật.
2. Có sự liên hệ về tình cảm và cảm xúc nơi cá nhân trong những nhiệm
vụ và công tác xã hội của tập thể.
9
3. Có sự hiến dâng tinh thần hoặc dấn thân đối với những giá trị được

tập thể coi là cao cả và có ý nghĩa.
4. Một ý thức đoàn kết với những người trong tập thể.
Các cộng đồng hội đủ bốn yếu tố trên khá phổ biến trước khi có sự xuất
hiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và nền kinh tế tư bản. Trong thế giới
ngày nay, vẫn có các cộng đồng có được các đặc tính trên và là những cộng đồng
hoàn chỉnh ở các khu vực mà một số các nhà nhân chủng học, dân tộc học gọi là
"tiền hiện đại" như các làng chẳng hạn [15, tr42].
1.1.1.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành một cộng đồng
Các kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã cho thấy có nhiều cách
để tập hợp những yếu tố hình thành cộng đồng và đặc biệt là xác định xem yếu tố
nào đóng vai trò quan trọng nhất. Theo Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang, có
ba yếu tố quan trọng để tạo lập nên cộng đồng là yếu tố địa vực, yếu tố kinh tế
(nghề nghiệp) và yếu tố văn hoá.
+ Địa vực: nói đến cộng đồng là nói đến một tập thể người định cư trên
một vùng đất đai. Điều này giải thích tại sao yếu tố đất đai đã và vẫn có những
giá trị tinh thần tạo nên sự cấu kết tập thể mà câu nói cả miệng của bất cứ người
dân nào trên thế giới này thường hay nói đó là "đất mẹ của tôi".
+ Kinh tế (nghề nghiệp): các hoạt động kinh tế không chỉ tạo cho cộng
đồng một sự đảm bảo về mặt vật chất để họ cùng nhau tồn tại mà chúng còn có
những đóng góp quan trọng khác. Nghề nghiệp chỉ là một phần của các yếu tố
kinh tế nhưng trong việc tạo nên sự cấu kết cộng đồng, tạo ra một sức mạnh, một
sự thống nhất chung thì nghề nghiệp có một vai trò hết sức quan trọng. Các cộng
đồng nông thôn với một hoặc vài nghề chính thì việc có cùng một hoặc vài nghề
10
trong một cộng đồng là một yếu tố tương đồng về địa vị kinh tế, sở hữu, cách
thức làm ăn.
+ Văn hoá: yếu tố văn hoá là một biểu thị có tính tổng hợp khi nhận biết
các cộng đồng, trong đó các khía cạnh đặc biệt cần chú ý trong phân tích là tộc
người, tôn giáo - tín ngưỡng và hệ giá trị và chuẩn mực.
Cùng chung một niềm tin tín ngưỡng - tôn giáo là sự chia sẻ những ước

nguyện về mặt tinh thần, tạo nên sự thống nhất tinh thần, củng cố nền đạo lý
chung tại cộng đồng. Trong thực tế, các tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo có
sự lồng ghép với nhau trên một số nguyên lý, từ đó thống nhất về mặt lịch sử các
niềm tin của người dân, tránh những xung đột, tạo ra những sức mạnh cấu kết
cộng đồng mới có tính hiệu quả mạnh mẽ [15, tr43-47].
1.1.2. Các vấn đề liên quan giữa cộng đồng, phát triển du lịch
1.1.2.1. Khả năng tham gia của cộng đồng với hoạt động phát triển du lịch.
Trong tất cả các nỗ lực nhằm đạt được mục tiêu bền vững trong phát triển
nói chung, phát triển du lịch nói riêng, thì sự tham gia của cộng đồng địa phương
đã đặc biệt được quan tâm và khuyến khích. Có rất nhiều nguyên nhân khi đề
cập đến sự tham gia của cộng đồng trong phát triển du lịch.
Trước tiên về mặt đạo đức và công bằng xã hội, cộng đồng là những chủ
nhân thực sự của các tài nguyên du lịch, cả tự nhiên lẫn nhân văn, mà ngành du
lịch dựa vào để thu hút khách, cho nên họ có quyền tham gia và hưởng lợi từ các
hoạt động du lịch trong khu vực. Qua đó, họ sẽ tự giác và đóng vai trò chính
trong việc gìn giữ tài nguyên du lịch phục vụ phát triển du lịch nói riêng và sự
phát triển bền vững nói chung.
Các cộng đồng địa phương không chỉ là những yếu tố thu hút khách trong
rất nhiều trường hợp mà còn là nguồn nội lực to lớn cho các hoạt động phát triển
11
du lịch, điều này đặc biệt quan trọng ở các nước đang phát triển. Họ chính là
nguồn nhân công với chi phí thấp nhất trong các dự án đầu tư phát triển du lịch,
điều mà các nhà đầu tư rất quan tâm nhằm tạo ra hiệu quả chi phí trong đầu tư.
Hơn nữa, với nguồn kiến thức bản địa phong phú của mình, nếu được đào tạo
hướng dẫn thì chính họ là những người phục vụ du khách tốt hơn ai hết trong các
hoạt động nghiệp vụ du lịch như: đón tiếp, phục vụ ăn nghỉ, dẫn đường và hướng
dẫn khách thăm quan…
Về mặt vĩ mô, sự tham gia và hưởng lợi từ các hoạt động du lịch của cộng
đồng còn đóng góp vào việc bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xã hội vùng
sâu, vùng xa, xoá đói giảm nghèo, giảm chênh lệch giữa các vùng trong phát

triển, định canh định cư, ổn định an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội,
chính trị, văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng…
Có 7 mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển
1. Thụ động: Cộng đồng không có quyền và trách nhiệm xem xét, dự báo
về tương lai của hoạt động phát triển. Những thông tin này chỉ chia sẻ giữa các tổ
chức bên ngoài cộng đồng.
2. Đưa tin: Cộng đồng chỉ có trách nhiệm trả lời câu hỏi mà không có vai
trò, ảnh hưởng tới nội dung cần xử lý cho hoạt động phát triển. Kết quả xử lý
thông tin không được chia sẻ với cộng đồng.
3. Tư vấn: Cộng đồng được tham khảo ý kiến và quan điểm của cộng đồng
có được lưu ý. Tuy nhiên cộng đồng không được tham gia vào quá trình ra quyết
định.
4. Khuyến khích: Sự tham gia vào các hoạt động phát triển của cộng đồng
sẽ được khuyến khích bằng vật chất hay tinh thần, do vậy cộng đồng thường sẽ
không tiếp tục tham gia khi những khuyến khích này không còn.
12
5. Chức năng: Cộng đồng tham gia vào hoạt động phát triển theo nhóm
với các mục tiêu chức năng đã được xác định trước, do vậy sự tham gia chưa
được đầy đủ vì đã có những quyết định mang tính áp đặt.
6. Tương tác: Cộng đồng được tham gia vào quá trình ra quyết định sau đó
thông tin được phân tích để đưa ra kế hoạch hành động và thực hiện.
7. Tự vận động: Sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển
được thực hiện độc lập với mọi can thiệp từ bên ngoài. Cộng đồng sẽ tự đưa ra
các sáng kiến và có thể làm thay đổi cả hệ thống [15.tr41].
Như vậy, đối với việc người dân tham gia vào hoạt động phát triển du lịch,
các phương thức tham gia này của cộng đồng sẽ là một quá trình để xác định và
củng cố vai trò của cộng đồng trong công tác quy hoạch, trong quá trình thực
hiện, giám sát và đánh giá các hoạt động có ảnh hưởng đến đời sống của cộng
đồng. Sự tham gia của cộng đồng còn có thể được nhìn dưới một góc độ khác
như sau:

- Tham gia vào việc xác định những cơ hội và điểm mạnh cho phát triển -
cộng đồng địa phương hiểu về nhu cầu của họ rõ hơn bất kỳ người bên ngoài nào
khác và có những ý tưởng tốt nhất để lập ra các chiến lược phù hợp với các hoạt
động du lịch cộng đồng của họ.
- Tham gia vào quá trình quy hoạch - cộng đồng địa phương nắm được
những hạn chế và tiềm năng tài nguyên của họ có thể sử dụng cho việc xây dựng
để đạt được các mục đích hay mục tiêu đã xác định của họ.
- Tham gia vào quá trình thực hiện - mặc dù bị hạn chế về tài chính, nhưng
cộng đồng địa phương cũng có thể đóng góp bằng việc đưa ra những gợi ý, chia
sẻ kinh nghiệm và các hình thức giúp đỡ khác và trở thành một phần của chương
trình.
13
- Tham gia vào việc chia sẻ lợi ích - những lợi ích đạt được từ các hoạt
động du lịch cộng đồng cần được phân phối tới mọi nhóm người có liên quan
trong cộng đồng nếu không sẽ không khuyến khích được sự tham gia của họ.
- Tham gia vào quá trình giám sát và đánh giá - cộng đồng địa phương là
những người bảo vệ các tài nguyên quanh mình và họ có thể theo dõi những thay
đổi và sửa đổi các sản phẩm du lịch theo nhu cầu và những gì mà họ cho là tốt
nhất theo kiến thức bản địa của họ. Họ có thể đánh giá những can thiệp bên
ngoài hay nhu cầu sửa đổi [25].
1.1.2.2. Cộng đồng vùng ven biển.
Cuộc sống cộng đồng người dân vùng ven biển dựa chủ yếu vào các
nguồn lợi có nguồn gốc từ biển và chính cuộc sống của họ lại là sức ép và nguồn
gây ô nhiễm đáng kể tác động làm suy giảm các nguồn tài nguyên, môi trường
vốn rất nhạy cảm ở khu vực này. Những tác động chủ yếu của cộng đồng vùng
ven biển bao gồm:
- Chất thải sinh hoạt từ các khu dân cư trên đất liền ở vùng ven biển và từ
các "làng" thuyền chài trên các vũng, vịnh ven bờ trực tiếp đổ ra biển làm ô
nhiễm chất lượng nước biển ven bờ và lâu dài làm suy thoái môi trường và các
hệ sinh thái vùng ven bờ và hải đảo.

- Việc khai thác rừng ngập mặn để phục vụ sinh hoạt và gần đây để phát
triển nuôi tôm, làm tổn hại đến nơi cư trú (habitat) của các loài thuỷ sinh vốn rất
phong phú ở hệ sinh thái này. Kết quả tác động này của cộng đồng không chỉ
làm suy giảm đa dạng sinh học hệ sinh thái đất ngập nước ven biển mà còn làm
tăng nguy cơ xói mòn môi trường đất vùng bờ biển, hải đảo vốn rất mong manh.
Ở những khu vực ven biển có hệ sinh thái rừng phát triển thì ngoài những
tác động trên, việc khai thác rừng cũng có những tác động đáng kể không chỉ
14
làm suy thoái bản thân hệ sinh thái rừng mà sẽ còn làm gia tăng quá trình bồi lấp
các cửa sông, tăng độ đục vùng nước biển khu vực cửa sông do quá trình rửa
trôi. Kết quả của quá trình này cũng sẽ ảnh hưởng, làm suy thoái hệ sinh thái san
hô, cỏ biển ở những khu vực này.
- Hoạt động đánh bắt thuỷ sản vùng nước ven bờ (vốn rất phổ biến ở
những nước đang phát triển như Việt Nam do hạn chế về năng lực đánh bắt xa
bờ của cộng đồng) làm suy giảm đáng kể đa dạng sinh học vùng nước ven bờ.
Tác động này càng trở nên nghiêm trọng khi cộng đồng sử dụng những công cụ
đánh bắt có tính huỷ diệt như lưới vét, mìn, xung điện, v.v. Đây là vấn đề ảnh
hưởng đáng kể của cộng đồng dân cư đến môi trường vùng ven biển, hải đảo.
- Hoạt động neo đậu tàu thuyền của cộng đồng thiếu quy hoạch cũng có
những ảnh hưởng đáng kể đến sự tồn tại, phát triển của các rạn san hô ven bờ.
Kết quả của tác động này cũng ảnh hưởng đến đa dạng sinh học hệ sinh thái san
hô - hệ sinh thái đặc thù rất có giá trị du lịch ở các nước nhiệt đới.
Cùng với những tác động của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội,
sinh hoạt đời sống cộng đồng cũng có những tác động đáng kể đến tài nguyên và
môi trường vùng ven biển, hải đảo. Như vậy hoạt động du lịch với sự tham gia
của cộng đồng, nhất là ở vùng ven biển, trước hết cần được tổ chức sao cho bản
thân cộng đồng hạn chế được những tác động tiêu cực của chính mình đối với
môi trường vốn rất nhạy cảm ở khu vực này. Vấn đề này cần được cân nhắc và
quan tâm trong quá trình nghiên cứu đề xuất mô hình hoạt động du lịch với sự
tham gia của cộng đồng.

1.1.3. Du lịch cộng đồng
1.1.3.1 Khái niệm
15
Khái niệm du lịch cộng đồng xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20, tuy
nhiên đến nay vẫn chưa có một quan điểm thống nhất cho khái niệm này.
Do có những quan điểm nghiên cứu, góc nhìn khác nhau về vị trí của du
lịch cộng đồng mà cho đến nay còn tồn tại khá nhiều ý kiến, khái niệm về vấn đề
này, những khái niệm này được sử dụng khá linh hoạt và được thay đổi tùy thuộc
vào tác giả, địa điểm và các dự án cụ thể, song các vấn đề về bền vững và cộng
đồng địa phương (điển hình ở khu vực nông thôn, những người nghèo, và ở vùng
sâu vùng xa) là những nội dung chính được đề cập, xem xét.
Theo Nicole Hausle và Wolffang Strasdas: “Du lịch cộng đồng là một
hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và
quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương”.
Theo Hsien Hue Lee, Đại học cộng đồng Hsin-Hsing, Đài Loan: “Du lịch
cộng đồng là nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch đón khách vì
sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. Đồng thời khuyến khích và tạo ra các cơ
hội tham gia của người dân địa phương trong du lịch”
Tại hội thảo “Chia sẻ Bài học Kinh nghiệm Phát triển Du lịch Cộng đồng”
được Tổng cục Du lịch tổ chức tại Hà Nội năm 2003 đã xác định: “Phát triển du
lịch có sự tham gia của cộng đồng nhằm đảm bảo văn hóa, thiên nhiên bền vững,
nâng cao nhận thức và tăng quyền lực cho cộng đồng. Cộng đồng được chia sẻ
lợi ích từ hoạt động du lịch, nhận được sự hợp tác, hỗ trợ của chính phủ và các tổ
chức quốc tế”
Ngoài ra còn nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau, tuy nhiên có thể
thống nhất và hiểu du lịch cộng đồng là loại hình du lịch bền vững dựa vào cộng
đồng địa phương. Du lịch cộng đồng là một cách tiếp cận nhằm tạo ra lợi nhuận
cao nhất cho người dân địa phương, những người sử dụng du lịch như một công
16
cụ tạo nguồn lợi kinh tế. Du khách phải trả tiền khi họ đến tham quan khu vực và

khoản tiền này được sử dụng để bảo vệ các di sản văn hóa và thiên nhiên và giúp
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đó.
Căn cứ vào những nội hàm được đa số thống nhất, có thể đưa ra khái niệm
chung về du lịch cộng đồng như sau:
“Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mang lại cho du khách những trải
nghiệm về bản sắc cộng đồng địa phương, trong đó cộng đồng địa phương tham
gia trực tiếp vào hoạt động du lịch, được hưởng lợi ích kinh tế - xã hội từ hoạt
động du lịch và có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên, môi trường, bản sắc văn hóa
của cộng đồng”[8. tr6].
1.1.3.2. Mức độ tham gia của cộng đồng vào phát triển du lịch
Mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch khác nhau tùy
thuộc vào vai trò của cộng đồng:
- Mức độ thụ động: theo đó cộng đồng chỉ được xem là đối tượng du lịch
(tài nguyên) và hầu như không có vai trò gì đối với hoạt động phát triển du lịch.
Trong trường hợp này các công ty du lịch sẽ đưa điểm quần cư cộng đồng với
những yếu tố chính là con người, lối sống cộng đồng, văn hóa, tín ngưỡng, kiến
trúc quần cư,v.v.) vào chương trình du lịch và coi đó là một điểm đến để đưa
khách đến tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm về con người, văn hóa, lối sống của
cộng đồng. Cộng đồng không có vai trò gì (tham gia thụ động) đối với kế hoạch
phát triểnp;’du lịch và hầu như không được hưởng lợi ích từ hoạt động du lịch.
Hoạt động du lịch trong trường hợp cộng đồng tham gia một cách thụ động
thường được gọi là “Du lịch tham quan cộng đồng”
- Mức độ có tham gia: theo đó cộng đồng tham gia cung cấp một số dịch
vụ (bán hàng lưu niệm, dịch vụ ăn uống, v.v.) tại điểm du lịch nơi cộng đồng
17
sinh sống và qua đó được hưởng một số lợi ích về vật chất. Trong trường hợp
này, ngoài vai trò là “tài nguyên” như trên, cộng đồng đã có vai trò nhất định
trong hoạt động du lịch và được hưởng một phần lợi ích trong chuỗi giá trị du
lịch. Hoạt động du lịch trong trường hợp này thường được gọi là “Du lịch có sự
tham gia của cộng đồng”

- Mức độ chủ động: theo đó cộng đồng là chủ thể tổ chức và cung cấp dịch
vụ và qua đó sẽ đem đến cho du khách những trải nghiệm tốt về cộng đồng, về
những giá trị tự nhiên và văn hóa nơi cộng đồng sinh sống. Trong trường hợp
này các công ty du lịch sẽ chỉ đóng vai trò là đối tác của cộng đồng. Cộng đồng
vừa có vai trò là “tài nguyên” vừa đóng vai trò là người tổ chức khai thác chính
các giá trị “tài nguyên” đó. Trong trường hợp này hoạt động du lịch thường được
gọi là “Du lịch dựa vào cộng đồng” hay “Du lịch cộng đồng”. Du lịch cộng đồng
chính là hình thức nơi đảm bảo mức độ tham gia cao nhất của cộng đồng vào
hoạt động du lịch [8, tr7-10]
1.1.4. Cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng
1.1.4.1. Khái niệm về du lịch dựa vào cộng đồng
Du lịch dựa vào cộng đồng nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại điểm du
lịch đón khách vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. Du lịch dựa vào cộng
đồng khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương trong du lịch và cần
có cơ chế tạo ra các cơ hội cho cộng đồng.
Du lịch dựa vào cộng đồng là sự tương tác giữa khách và chủ mà có sự
tham gia có ý nghĩa của cả hai phía và tạo các lợi ích kinh tế, bảo tồn cho cộng
đồng địa phương và môi trường. (Học viện nghiên cứu núi, Malaixia 2002).
18
Theo Nicole Hausle và Wolfgang Strasdas – 2002 có định nghĩa: Du lịch
dựa vào cộng đồng là loại hình du lịch mà một số lớn người dân địa phương có
quyền kiểm soát nó và và có sự tham gia trong việc quản lý và phát triển du lịch
cộng đồng. Phần lớn thu nhập được giữ lại cho kinh tế của địa phương
Du lịch dựa vào cộng đồng đó được thống nhất tại cuộc họp Bộ trưởng du
lịch lần đầu tiên năm 2000 tại Hàn Quốc và được trình bày tại Hiến chương về
du lịch của APEC. Hiến chương thừa nhận vai trò quan trọng của du lịch trong
việc phát triển kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa của các nền kinh tế thành
viên trong tổ chức APEC. Hiến chương nhấn mạnh tầm quan trọng của du lịch
dựa vào cộng đồng thông qua các nhận định sau [2]:
- Du lịch dựa vào cộng đồng là động lực quan trọng tăng cường cơ hội kinh

doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Là một phương tiện hữu ích để cân bằng lợi ích kinh tế giữa các vùng
miền trong nền kinh tế, đặc biệt là vùng nông thôn.
- Là cầu nối giữa lĩnh vực nhà nước và tư nhân.
Du lịch dựa vào cộng đồng đó và đang được áp dụng không chỉ ở các nền
kinh tế phát triển như Canada, Australia mà cũng được áp dụng ở các nền kinh tế
đang phát triển như Việt Nam, Lào Có rất nhiều dự án phát triển du lịch dựa
vào cộng đồng trong khu vực APEC nhưng các dự án này chủ yếu là dự án thực
hiện một lần do các tổ chức phi chính phủ (NGOs) đề xuất và quản lý thực hiện.
Năm 1999, Chính APEC đó quản lý các dự án CBT ở một số nền kinh tế thành
viên với mục đích phân tích các nhân tố có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế khi
thực hiện CBT. Cho đến nay, vẫn chưa có những đánh giá về ảnh hưởng của
CBT tới tương lai lâu dài của nền kinh tế. Nhưng phát triển du lịch được xem
như là công cụ để tái cơ cấu nền kinh tế và thực sự rất cần thiết phải thực hiện
19
đúng mọi nguyên tắc và cơ chế của CBT. Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng
như là một phần của tiến trỉên phát triển cân đối nền kinh tế . Điều đó cũng
chứng tỏ, CBT không phải là mô hình phát triển kinh tế mới lạ mà nó chỉ là một
công cụ phát triển của nền kinh tế.
Cộng đồng dựa vào du lịch như là một công cụ xóa đói, giảm nghèo, cân
bằng lợi ích kinh tế ở vùng nông thôn do Bộ du lịch Malaysia phối hợp với nhóm
nghiên cứu kế hoạch Du lịch tại trường đại học kỹ thuật Malaysia thực hiện từ
tháng 11/2008 đến tháng 4/2009. Nghiên cứu thực hiện nhằm mục đích nâng cao
hiểu biết của các nước thành viên về khái niệm CBT, cách thực hiện tốt mô hình
CBT và tương lai phát triển lâu dài của CBT thông qua kinh nghiệm thực hiện
thành công mô hình CBT ở khu vực APEC.
Du lịch dựa vào cộng đồng (CBT) là một công cụ phát triển cộng đồng, ở
đó tăng cường khả năng của cộng đồng địa phương trong việc quản lý nguồn du
lịch và đảm bảo sự tham gia của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch
[2]. CBT có thể giúp nhân dân địa phương tăng thêm thu nhập, đa dạng hóa nền

kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo vệ môi trường và có cơ hội nhận thêm các
chương trình đào tạo, giáo dục. Vì CBT có thể tạo thêm thu nhập cho người dân
địa phương nên nó được xem như là một công cụ xóa đói, giảm nghèo. CBT yêu
cầu phải thực hiện trong thời gian dài và mục đích chính là tối ưu hóa lợi nhuận
cho cộng đồng địa phương và hạn chế các ảnh hưởng xấu của du lịch tới cộng
đồng và nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Du lịch dựa vào cộng đồng cần được tiếp cận theo một cách có hệ thống,
từ việc nghiên cứu tính ổn định của cộng đồng tham gia vào hoạt động du lịch
đến việc đảm bảo tất cả thành viên trong cộng đồng được tham gia vào thực hiện
dự án đồng thời tham gia vào việc kiểm soát và hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực
20
tới cuộc sống của họ. Một số đặc điểm của CBT được UNEP và UNWTO chỉ ra
như sau [2]:
- Cộng đồng tham gia vào giám sát và đánh giá từ những khâu đầu tiên của
việc kinh doanh du lịch, không chỉ tài nguyên thiên nhiên mà còn đánh giá văn
hóa địa phương ở những nơi họ đi thăm.
- Cộng đồng cung cấp các dịch vụ ăn ngủ nghỉ đến giải thích thuyết minh
trong tour du lịch.
- Hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường tự nhiên và đời sống văn
hóa xã hội của người dân.
- Hỗ trợ bảo vệ tự nhiên và văn hóa thông qua việc tạo ra lợi ích kinh tế từ
các nguồn lợi đó.
- Tạo nguồn thu nhập khác và tạo công ăn việc làm cho người dân.
- Tăng cường hiểu biết của người dân và khách du lịch về sự bảo tồn tự
nhiên và bản sắc văn hóa dân tộc.
- Sự khác biệt giữa “Du lịch dựa vào cộng đồng” và “Du lịch cộng đồng” ở
chỗ khi đề cập đến “Du lịch dựa vào cộng đồng” là muốn nhấn mạnh đến hình
thái tổ chức hoạt động du lịch còn khi đề cập đến “Du lịch cộng đồng” là đề cập
cả đến hình thái tổ chức và đối tượng du lịch là công cộng [13].
1.1.4.2. Vai trò của du lịch dựa vào cộng đồng

Với bản chất của du lịch dựa vào cộng đồng, việc phát triển du lịch dựa
vào cộng đồng sẽ có những tác động tích cực bao gồm [11]:
- Góp phần tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương, đặc biệt ở vùng
nông thôn nơi tỷ lệ đói nghèo còn cao. Đây sẽ là yếu tố tích cực góp phần làm
giảm tác động của cộng đồng đến các giá trị cảnh quan, tự nhiên và qua đó sẽ
21
góp phần bảo tồn tài nguyên, môi trường đảm bảo cho phát triển du lịch bền
vững;
- Góp phần để cộng đồng, đặc biệt là những người dân chưa có điều kiện
trực tiếp tham gia vào các dịch vụ du lịch, được hưởng lợi từ việc phát triển hạ
tầng du lịch (giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, v.v.). Đây cũng sẽ là
yếu tố tích vực để đảm bảo sự công bằng trong phát triển du lịch, một trong
những nội dung quan trọng của phát triển du lịch bền vững;
- Góp phần tạo cơ hội việc làm cho cộng đồng và qua đó sẽ góp phần
làm thay đổi cơ cấu, nâng cao trình độ lao động khu vực này. Đây sẽ là yếu tố
quan trọng góp phần hạn chế được dòng di cư của cộng đồng từ khu vực nông
thôn ra ku vực thành thị, ổn định xã hội đảm bảo cho phát triển bền vững chung;
- Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng sẽ góp phần tích cực trong việc
phục hồi và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, nghề truyền thống, vì vậy
có đóng góp cho phát triển du lịch bền vững từ góc độ tài nguyên, môi trường du
lịch;
- Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh giao
lưu văn hóa và kế đến là giao lưu kinh tế giữa các vùng miền, giữa Việt Nam với
các dân tộc trên thế giới. Đây cũng là yếu tố quan trọng trong bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam đồng thời tạo cơ hội để phát triển
kinh tế ở những vùng còn khó khăn, đảm bảo sự phát triển bền vững nói chung,
du lịch nói riêng.
Với những tác động tích cực trên, việc đẩy mạnh phát triển du lịch nói
chung, du lịch dựa vào cộng đồng nói riêng sẽ có vai trò rất quan trọng trong
phát triển bền vững ở Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ người dân sống ở

22
vùng nông thôn ở Viêt Nam còn cao, chiếm tới hơn 70% dân số cả nước, tỷ lệ hộ
đói nghèo cũng còn khá cao [8].
1.1.4.3. Các nguyên tắc của phát triển du lịch dựa vào cộng đồng.
Một số nguyên tắc chủ yếu đối với phát triển du lịch dựa vào cộng đồng
được xác định dựa trên bản chất của du lịch cộng đồng bao gồm:
- Công bằng về mặt xã hội: các thành viên của cộng đồng sẽ tham gia vào
việc lên kế hoạch, triển khai, kiểm soát các hoạt động du lịch tại cộng đồng, ở
đây cần nhấn mạnh sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương vào quá trình
tổ chức và thực hiện các hoạt động du lịch. Từ đó lợi ích kinh tế sẽ được chia sẻ
công bằng và rộng khắp, không chỉ riêng cho các công ty du lịch mà còn dành
cho các thành viên của cộng đồng.
- Tôn trọng các giá trị văn hóa của cộng đồng: thực tế cho thấy chương
trình du lịch nào cũng ảnh hưởng ít nhiều đến cộng đồng địa phương. Điều quan
trọng là các giá trị văn hóa của cộng đồng phải được bảo vệ và giữ gìn với sự
đóng góp tích cực của tất cả các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch, đặc
biệt là cư dân địa phương bởi không đối tượng nào có khả năng bảo vệ và duy trì
các giá trị văn hóa tốt hơn chính họ. Cộng đồng địa phương phải nhận thức được
vai trò và vị trí của mình cũng như những lợi, hại mà phát triển du lịch mang
đến.
- Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng: Theo nguyên tắc này cộng đồng
cùng được hưởng lợi như các thành phần khác tham gia vào các hoạt động kinh
doanh cung cấp các sản phẩm cho khách du lịch. Nguồn thu từ hoạt động du lịch
được phân chia công bằng cho mọi thành viên tham gia hoạt động, đồng thời lợi
ích đó cũng được trích một phần thông qua “Quỹ cộng đồng” để sử dụng cho lợi
23
ích chung của cộng đồng: tái đầu tư cho cộng đồng xây dựng đường sá, cầu
cống, điện và chăm sóc sức khỏe giáo dục v.v
- Xác lập quyền sở hữu và tham gia của cộng đồng đối với việc bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và văn hóa hướng tới sự phát triển bền vững [8].

1.1.5. Tổng quan các kết quả nghiên cứu có liên quan
* Có sự sở hữu của cộng đồng
- Cộng đồng là những người quản lý tài nguyên, di sản dân tộc, có phong
cách và lối sống riêng cần được tôn trọng
- Cộng đồng có quyền sở hữu các tài nguyên và do vậy họ có quyền tham
gia vào các hoạt động du lịch
* Tăng quyền lực cho cộng đồng
- Du lịch dựa vào cộng đồng do cộng đồng tự tổ chức quản lý
- Du lịch dựa vào cộng đồng thúc đẩy, tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia
nhiệt tình vào phát triển du lịch. Cộng đồng tự làm chủ điểm du lịch, và có thể
lập kế hoạch phát triển.
- Người dân địa phương được trao quyền làm chủ và quản lý phát triển du
lịch, thực hiện các dịch vụ du lịch.
* Nhận thức của cộng đồng
- Nâng cao nhận thức về du lịch cho cộng đồng và sự tham gia của cộng
đồng vào phát triển du lịch.
- Cần làm cho cộng đồng dân cư ý thức được về thu nhập, tạo cơ hội cho
cộng đồng tham gia đóng góp.
- Quan tâm đến ý thức của khách du lịch và các cấp quản lý đối với du lịch
cộng đồng
24
- Du lịch dựa vào cộng đồng tạo cho cộng đồng niềm tự hào bản thân và
tinh thần tốt.
* Sử dụng thu nhập
- Lợi nhuận du lịch được chia sẻ công bằng cho cộng đồng để duy trì hoạt
động du lịch cộng đồng trong khu vực được bền vững.
- Cộng đồng thu lợi nhuận và lợi ích kinh tế trực tiếp để tái đầu tư cho địa
phương ngoài sự hỗ trợ của chính phủ
- Lợi nhuận thu được từ các dịch vụ du lịch thuộc về người dân, cộng
đồng được hưởng lợi nhiều nhất.

- Khái niệm du lịch dựa vào cộng đồng cần phải thể hiện sự hài hòa về
quyền lợi kinh tế giữ cộng đồng dân cư ở điểm tham quan, các công ty du lịch và
khách du lịch.
* Đảm bảo sự hợp tác chiến lược
- Thiết lập quan hệ hợp tác chiến lược. Muốn vậy phải có sự hỗ trợ của
chính phủ, trực tiếp thực hiện là chính quyền sở tại và có sự hướng dẫn của cơ
quan chuyên môn từ Tổng cục du lịch.
- Cần có sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và tổ chức phi Chính phủ.
- Chính quyền địa phương phải thực sự tác động hỗ trợ các nhà quản lý
phát triển du lịch, giúp đỡ về chuyên môn, tuyền truyền quảng bá.
- Du lịch dựa vào cộng đồng cần có sự tác động của Nhà nước về chính
sách và tài chính.
- Có chính sách đào tạo du lịch cộng đồng
- Du lịch cộng đồng cần có phương pháp luận chính sách quản lý
- Cần có chiến lược của quốc gia
- Có cơ chế quản lý của cộng đồng
25

×