Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Phát triển kinh tế du lịch của tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.01 KB, 118 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước trên thế
giới. Kinh doanh du lịch cũng có lịch sử hơn 150 năm qua. Nếu được tổ
chức kinh doanh và phát triển tốt thì đây là một trong những ngành kinh
tế năng động nhất và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho mỗi quốc gia.
Việt Nam trong tiến trình hội nhập cùng phát triển đã được cộng đồng
quốc tế đánh giá là điểm đến an toàn, được ưa chuộng nhất Châu Á. Du
lịch được khẳng định là một trong những ngành kinh tế quan trọng, góp
phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế liên quan, thúc đẩy giao
lưu, tăng cường hiểu biết giữa các quốc gia, giữa các dân tộc. Để tạo điệu
kiện phát triển nhanh và bền vững ngành du lịch. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX xác định : “Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác
lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử đáp
ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm
đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực”[23, tr.48 ].
Thanh Hóa là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, là một trong những cái
nôi của dân tộc Việt Nam. Thanh Hóa nằm ở phía nam vùng trọng điểm
kinh tế Bắc Bộ, có nhiều tiềm năng phát triển với chính sách đầu tư hấp
dẫn, vị trí mang tính chiến lược lâu dài, rất thuận lợi để phát triển ngành
du lịch tỉnh như : du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch lịch sử - nhân văn,
… đặc biệt với các ưu thế nổi trội cho phát triển các loại hình du lịch biển,
văn hóa và sinh thái. Vị thế của Thanh Hóa đã được đặc biệt chú trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và du
lịch nói riêng. Để phát triển du lịch thì việc khai thác tiềm năng du lịch có
hiệu quả là rất cần thiết. Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có các nghị quyết và
1
chương trình phát triển du lịch Thanh Hóa với mục tiêu chung là: “Phát
triển du lịch thành một ngành kinh tế có thế mạnh, là một trong năm
chương trình trọng tâm phát triển kinh tế của Đảng bộ nhiệm kỳ 2006-


2010…”[ 35, tr.26], “Phấn đấu đến năm 2010 đưa Thanh Hóa trở thành
địa bàn du lịch trọng điểm quốc gia, điểm đến du lịch quan trọng và hấp
dẫn của trung tâm Bắc bộ, quốc gia và khu vực”[ 35, tr.27].
Trong những năm qua, du lịch Thanh Hóa có sự phát triển mọi mặt, cả về số
lượng và chất lượng, góp phần vào sự phát triển của các ngành khác cũng như
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, làm cho bộ mặt của tỉnh có sự thay đổi rõ
rệt. Tuy nhiên, ngành du lịch Thanh Hóa mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển,
còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác, chưa thực sự trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của Tỉnh. Điều đó đặt ra cho du lịch Thanh Hóa phải
đánh giá đúng thực trạng của ngành và phải có những giải pháp đúng
hướng để khai thác triệt để tiềm năng sẵn có và xây dựng chiến lược phù
hợp, nhằm góp phần thúc đẩy ngành du lịch Thanh Hóa phát triển bền
vững, hòa nhập với trào lưu phát triển du lịch của khu vực và trên thế giới,
thực hiện đúng vai trò của ngành du lịch trong xây dựng và phát triển của
Tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế du lịch của
tỉnh Thanh Hóa ” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển kinh tế du lịch là một trong những vấn đề quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy vấn đề này thu
hút được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Điển hình như một số đề tài :
- “Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha – Kể Bàng”, Luận án tiến sỹ
của Trần Tiến Dũng, 2006.
2
- “Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc bộ và tác động của nó
đối với quốc phòng an ninh”, Luận văn kinh tế của Nguyễn Đình Sản,
2007
- “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế du lịch và dịch vụ du lịch chất
lượng cao, trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế”, đề tài nghiên cứu khoa học

của Lê Thị Lan Hương, 2003.
- TS Trần Thị Kim Thu: “Nghiên cứu thống kê hiệu quả hoạt động kinh
doanh du lịch”, 2005
- Bùi Thu Hằng: “Phát triển du lịch ở An Giang”, Luận văn thạc sỹ
kinh tế, 1999
- GS TS Nguyễn Văn Đính, TS Trần Thị Minh Hòa: Kinh tế du lịch,
NXBLĐ – XH, 2004
- Trần Đức Thanh, Nhập môn khoa học du lịch, NXB ĐH Quốc gia Hà
Nội, 2003
Các công trình nói trên và còn nhiều công trình khác đã nghiên cứu và
đề cập đến vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch
trong bình diện cả nước nói chung và ở một số vùng, miền, tỉnh nói riêng.
Đây là những nguồn tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa đối với tác giả trong
việc thực hiện đề tài luận văn của mình. Nhưng đến nay chưa có công trình
nào đi sâu vào nghiên cứu về lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch
ở tỉnh Thanh Hóa.
Việc nghiên cứu thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm đưa ngành
du lịch Thanh Hóa đi lên góp phần tích cực giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập cho dân cư và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Do đó,
đề tài được nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ bé giải quyết
việc khai thác tiềm năng du lịch một cách hợp lý và có hiệu quả nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy đề tài “Phát triển
3
kinh tế du lịch của tỉnh Thanh Hóa” là một vấn đề cần được nghiên cứu,
phân tích và có tính ứng dụng thực tiễn cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
a. Mục đích
- Trên cơ sở tiếp thu lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch hiện nay,
từ đó mô tả và phân tích thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hóa
trong những năm vừa qua.

- Tổng kết đánh giá những thành tựu đã đạt được và chỉ ra những tồn
tại của vấn đề này. Từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp để
tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch của tỉnh đạt kết quả cao hơn
trong những năm sắp tới.
b. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống ngắn gọn lý luận về kinh tế du lịch
- Đánh giá tiềm năng du lịch của tỉnh Thanh Hóa
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế du lịch trong giai đoạn từ năm
2000 đến nay.
- Đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế du lịch nhằm góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của Thanh Hóa trong những năm sắp tới .
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ việc phát triển kinh tế du lịch của
tỉnh Thanh Hóa, không đi sâu nghiên cứu tất cả các nội dung phát triển kinh tế
du lịch của cả nước. Luận văn đi sâu phân tích phát triển kinh tế du lịch trong
giai đoạn từ năm 2000 đến nay và đề ra những phương hướng, giải pháp
phát triển kinh tế du lịch của tỉnh đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
4
Để thực hiện luận văn tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó phương pháp chủ đạo là phương pháp biện duy vật biện chứng,
trừu tượng hóa khoa học, logic - lịch sử.
Ngoài ra tác giả còn kết hợp cả phương pháp phân tích, tổng kết thực tiễn,
thống kê, so sánh, mô hình hóa, … nhằm thực hiện tốt mục tiêu đề ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Khi đề tài hoàn chỉnh sẽ góp thêm cơ sở khoa học, góp phần làm rõ hơn
vấn đề phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hoá.
- Từ lý luận này có thể vận dụng để giải quyết những vấn đề do thực tiễn
của tỉnh đặt ra như quy hoạch và ban hành các quyết sách để phát triển kinh tế

du lịch của tỉnh, nhằm đạt hiệu quả cao và bền vững.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập
những phần, môn có liên quan đến kinh tế địa phương trong các trường cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch
- Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Thanh Hóa
- Chương 3 : Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế
du lịch của tỉnh Thanh Hóa
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
1.1. Khái niệm, vai trò và các nhân tố tác động đến phát triển kinh tế
du lịch
1.1.1. Khái niệm du lịch và kinh tế du lịch
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, du lịch được ghi nhận
như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Quá
trình phát triển của du lịch góp phần phản ánh tính chất và trình độ phát
triển của LLSX, mối quan hệ giữa LLSX và QHSX ở các hình thái kinh tế -
xã hội khác nhau mà con người đã trải qua.
Thời kỳ đầu xã hội nguyên thuỷ, con người cũng có sự di chuyển từ
nơi này tới nơi khác nhưng hoạt động di chuyển đó do những nguyên nhân
như: phòng tránh thiên tai, những xung đột xảy ra trong xã hội hoặc tìm
một nơi khác phù hợp hơn để sinh sống… Trên phạm vi toàn thế giới, hoạt
động đi ra ngoài với mục đích là du lịch bắt đầu từ giai đoạn cuối xã hội
nguyên thuỷ và được phát triển nhanh chóng ở thời kỳ xã hội nô lệ … Khi
ngành thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi ngành trồng trọt và chăn nuôi,

ngành thương nghiệp xuất hiện, quan hệ hàng hoá - tiền tệ hình thành và
phát triển thì du lịch lại càng phát triển hơn.
Du lịch được phát triển thêm một bước mới kể từ khi LLSX có
những yếu tố biến đổi về chất. Biểu hiện, vào cuối thế kỷ XVII, bắt đầu
diễn ra cuộc cách mạng giao thông trên thế giới. Đầu máy hơi nước được
sử dụng rộng rãi trong các ngành đường sắt, đường bộ, đường thuỷ trong
đó ngành công nghiệp sản xuất ô tô được chú trọng hơn bao giờ hết. Chỉ
6
trong một thời gian ngắn, trên khắp Châu Âu, Châu Mĩ mạng lưới đường
sắt được hình thành. Trên biển, nhiều tàu thuỷ lớn, nhỏ đủ chủng loại, hiện
đại, đẹp về kiểu dáng đi lại khắp các vịnh trên thế giới. Giao thông trở
thành yếu tố quan trọng thúc đẩy giao lưu mạnh mẽ của con người ở các
vùng đất khác nhau làm cho du lịch trở thành hiện tượng đại chúng và
cũng từ đó xuất hiện hàng loạt các loại hình du lịch của mọi tầng lớp khác
nhau trong xã hội.
Mặc dù hoạt động du lịch đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử và có tốc
độ phát triển ngày càng nhanh, song cho đến nay vẫn còn những nhận thức
rất khác nhau về du lịch và kinh tế du lịch.
Năm 1811 lần đầu tiên tại Anh có khái niệm du lịch: “Du lịch là sự
phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình
với mục đích là giải trí”[9, tr.15 ]. Ông Kuns, một người Thụy Sỹ cho rằng:
“Du lịch là hiện tượng những người ở chỗ khác ngoài nơi ở thường xuyên,
đi đến nơi khác bằng phương tiện giao thông và sử dụng các xí nghiệp du
lịch”[9, tr.16 ].
Các nhà nghiên cứu của Trường tổng hợp kinh tế thành phố Varna,
Bulgarie nêu quan niệm: “Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội được
lặp đi lặp lại đều đặn - chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ, hàng hoá của
các đơn vị kinh tế riêng biệt, độc lập - đó là các tổ chức, các xí nghiệp với
cơ sở vật chất -kỹ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn
uống, nghỉ ngơi với mục đích thoả mãn các nhu cầu cá thể về vật chất và

tinh thần của những người lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của họ để
nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các nhu cầu về văn hoá, chính trị, kinh
tế …) mà không có mục đích lao động kiếm lời”[29, tr.9 ].
Tháng 6 năm 1991, Hội nghị quốc tế và thống kê du lịch ở Otawa,
Canada đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới
7
một nơi ngoài môi trường thường xuyên, trong một khoảng thời gian ít hơn
khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của
chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm
vi vùng tới thăm”[9, tr.19 ].
Trên cơ sở tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động du lịch
trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây, Khoa du lịch và
khách sạn trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội đưa ra khái niệm: “Du
lịch là ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du
lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm
đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, thăm quan, giải trí, tìm
hiểu và các nhu cầu khác của khác du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại
lợi ích kinh tế, chính trị - xã hội cần thiết cho nước làm du lịch và cho bản
thân doanh nghiệp”[9, tr.19 - 20 ].
Trong Luật du lịch Việt Nam, tại điểm 1, điều 4, chương I “Du lịch”
được nêu như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi
của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu
cầu thăm quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian
nhất định”[3, tr.9 ].
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, bao gồm nhiều
thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động
du lịch không chỉ có đặc điểm của một ngành kinh tế mà còn có đặc điểm
văn hoá - xã hội. Thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới đã chứng minh rằng
hoạt động du lịch không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn cả lợi ích chính
trị, văn hoá, xã hội.

1.1.1.2 Khái niệm kinh tế du lịch
Cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch là hoạt động kinh
doanh du lịch. Kinh tế du lịch từng bước trở thành một bộ phận hợp thành
8
của hoạt động kinh tế xã hội, lấy sự phát triển các loại hình kinh doanh du
lịch, biến các tài nguyên du lịch của một quốc gia, một vùng lãnh thổ thành
những hàng hoá và dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu cho du khách. Trên
thế giới du lịch dần dần được xã hội hoá, số lượng người đi du lịch ngày
một đông, xuất hiện những nhu cầu cần phải được giải quyết như: đảm
bảo chỗ ăn, chỗ ngủ cho những người tạm thời sống ngoài nơi cư trú
thường xuyên của họ. Để đáp ứng nhu cầu đó, đã xuất hiện những nghề
mới trong dân chúng ở các vùng có tài nguyên du lịch như: kinh doanh du
lịch, nhà hàng, môi giới, hướng dẫn du lịch … Hàng loạt các cơ sở chuyên
phục vụ du lịch như: khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải khát, dịch vụ
cho thuê, giặt là, mát xa …cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ phục vụ du
khách lần lượt ra đời. Từng bước hình thành một ngành nghề mới là
ngành kinh doanh du lịch và theo đó xuất hiện một thị trường mới là thị
trường du lịch. Giải thích quá trình vận động phát triển của kinh tế du
lịch, có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Trong luận văn về “hoạt động tập thể cho du lịch” (Bordeaux 1933)
Menginet viết: “Du lịch đóng vai trò thúc đẩy. Đó là công nghiệp mẹ, một
công nghiệp then chốt. Sự phát triển du lịch không phải là một nhân tố
riêng lẻ về sự thịnh vượng của một đất nước, nó tác động đến tất cả các
ngành, hoạt động quốc gia mà nó góp phần làm gia tăng hiệu xuất”[21, tr.5
]. Quan điểm này nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế du lịch đã bắt
đầu tiếp cận du lịch dưới góc độ là một ngành kinh doanh, kinh doanh các
danh lam thắng cảnh của đất nước mình, mà người nước ngoài đến thăm.
Việc kinh doanh này trước hết cốt là để cho chuyến viếng thăm được tốt
hơn, đáp ứng ngay nhu cầu thực tại của khách đến thăm.
Ở Việt Nam, trong cuốn Kinh tế du lịch, Tiến sỹ Nguyễn Hồng Giáp

cho rằng: “Toàn bộ kinh tế du lịch là một hệ thống gồm những phần nhỏ
9
hay là tiểu hệ thống, nguyên nó có thể chia nhỏ ra thêm nữa và những biến
số độc lập với nhau cho phép biến đầu vào (nguyên liệu, nguồn nhân lực, tư
bản, khoa học kỹ thuật) thành đầu ra (sản phẩm và dịch vụ)”[11, tr.44 ].
Đây là cách tiếp cận kinh tế du lịch dưới góc độ lý thuyết kinh tế học hiện
đại theo hướng quan tâm đến toàn bộ nền kinh tế quốc gia ở tầm vĩ mô
như sản lượng quốc gia, thu nhập quốc dân, tiêu dùng các hộ gia đình, chi
tiêu quốc gia, tiết kiệm, đầu tư, thất nghiệp, việc làm, tổng cung, tổng cầu
của nền kinh tế …
Trong từ điển bách khoa Việt Nam cho rằng: “Kinh tế du lịch là một
loại hình kinh tế có tính đặc thù mang tính du lịch và thường được xem
như ngành công nghiệp không khói, gồm có du lịch quốc tế và du lịch trong
nước, có chức năng, nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và
cảnh quan của đất nước (tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn
hoá, lịch sử …) nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức
buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hoá và dịch vụ cho khách du
lịch”[25, tr.586 ]. Định nghĩa này coi kinh tế du lịch là loại hình kinh tế có
tính đặc thù, tổng hợp, đa dạng, bao hàm cả vật thể lẫn phi vật thể. Mọi
hoạt động kinh doanh du lịch đều gắn bó với môi trường xã hội, văn hoá,
lịch sử, kinh tế, chính trị, tự nhiên …Các loại dịch vụ, hàng hoá cung cấp
cho du khách được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các tài nguyên
du lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn với việc sử dụng các
nguồn lực: vốn, khoa học - công nghệ và nguồn lực lao động tại một cơ sở,
một vùng hay một quốc gia nào đó.
Như vậy, kinh tế du lịch là tổng hoà các mối quan hệ giữa các hiện tượng
kinh tế với kinh tế, kinh tế với xã hội của hoạt động du lịch, hình thành trên cơ
sở phát triển sản xuất, trao đổi hàng hoá và nhu cầu về đời sống vật chất, tinh
thần của con người trong xã hội ngày càng không ngừng được nâng cao. Về mặt
10

lịch sử, hoạt động kinh tế du lịch đã từng bước hàng hoá hoá cùng với sự phát
triển sản xuất và phát triển hàng hoá. Trong quá trình hàng hoá hoá hoạt động
đó, mức độ xã hội hoá của du lịch, hoạt động kinh doanh cũng không ngừng
được nâng cao.
Ngày nay, hoạt động kinh tế du lịch mang tính đại chúng, tính toàn
cầu và tính liên tục, mối liên hệ kinh tế, xã hội trong quá trình đó không
ngừng tăng cường, phạm vi quan hệ kinh tế không ngừng mở rộng, mối
quan hệ của nó với toàn bộ nền kinh tế xã hội ngày càng phát huy tác dụng
và không ngừng được nâng cao. Nhận thức được hiệu quả và lợi nhuận do
kinh tế du lịch mang lại mà hiện nay trên thế giới các nước tư bản có nền
kinh tế phát triển cao, có tiềm lực tài chính mạnh như: Đức, Pháp, Anh,
Mỹ… , đã không ngừng đầu tư để cạnh tranh phát triển lĩnh vực du lịch.
Điều đó vừa góp phần thúc đẩy mạnh mẽ LLSX phát triển, xong cũng tạo
ra sự phân cách giầu nghèo trong xã hội ngày càng tăng và cũng chính quá
trình đó làm cho tài nguyên cạn kiệt, môi trường huỷ hoại, cạnh tranh diễn
ra gay gắt.
Tóm lại, kinh tế du lịch là ngành kinh tế dịch vụ, ngành kinh doanh
hoạt động lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, thoả mãn nhu cầu vật chất
và tinh thần của du khách, nhằm đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội
thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp du lịch. Kinh tế
du lịch là ngành công nghiệp không khói, ngành sản xuất phi vật chất
nhưng mang lại những giá trị vật chất và tinh thần rất cao.
1.1.1.3 Các loại hình du lịch
Để có thể đưa ra các đinh hướng và chính sách phát triển đúng đắn
về du lịch, các nhà quản lý vĩ mô về du lịch cũng như các nhà quản trị
doanh nghiệp du lịch cần phân du lịch thành các loại hình du lịch khác
nhau.
11
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành
các loại hình khác nhau:

- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch. Theo tiêu thức này, du
lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
+ Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến
của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Ở hình thức du lịch này
khách phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.
+ Du lịch nội địa: là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến
của khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.
- Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch. Theo tiêu thức này,
du lịch được phân thành các loại sau:
+ Du lịch chữa bệnh: ở loại này khách đi du lịch do nhu cầu điều trị các
bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ.
+ Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: nhu cầu chính làm nảy sinh hình thức du
lịch này là sự cần thiết phải nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần cho
con người. Đây là loại hình du lịch có tác dụng giải trí, làm cuộc sống thêm
đa dạng và giải thoát con người ra khỏi công việc hàng ngày.
+ Du lịch thể thao: gồm du lịch thể thao chủ động và du lịch thể thao
thụ động.
+ Du lịch văn hoá: mục đích chính là nhằm nâng cao hiểu biết cho cá nhân
về mọi lĩnh vực như: lịch sử, kiến trúc, kinh tế, hội hoạ, chế độ xã hội, cuộc
sống của người dân cùng các phong tục tập quán của đất nước du lịch.
+ Du lịch công vụ: mục đích chính của loại hình du lịch này là nhằm thực
hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Với múc đích này, khách đi
tham dự các cuộc hội nghị, hội thảo, kỉ niệm các ngày lễ lớn, các cuộc gặp gỡ,
cuộc triển lãm hàng hoá, hội chợ …
12
+ Du lịch thương gia: mục đích chính của loại hình du lịch này là đi tìm hiểu
thị trường, nghiên cứu dự án đầu tư, kí kết hợp đồng …
+ Du lịch tôn giáo: loại hình du lịch này nhằm thoả mãn nhu cầu tín
ngưỡng đặc biệt của những người theo những đạo giáo khác nhau.
+ Du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương: loại hình du lịch này phần lớn nẩy

sinh do nhu cầu của những người xa quê hương đi thăm hỏi ba con họ hàng, bạn
bè thân quen, đi dự lễ cưới, lễ tang …
+ Du lịch quá cảnh: nảy sinh do nhu cầu đi qua lãnh thổ của một nước
nào đó trong thời gian ngắn để đến nước khác.
- Căn cứ vào đối tượng khách du lịch. Theo tiêu thức này du lịch được phân
thành:
+ Du lịch thanh, thiếu niên
+ Du lịch dành cho những người cao tuổi
+ Du lịch phụ nữ, du lịch gia đình
- Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi. Theo tiêu thức này, du lịch được
phân thành:
+ Du lịch theo đoàn: ở loại hình này, các thành viên tham dự đi theo
đoàn và thường có chuẩn bị chương trình từ trước, trong đó sẽ định ra
những nơi sẽ đến thăm, nơi lưu trú và ăn uống.
+ Du lịch cá nhân: ở loại hình du lịch này khách du lịch có thể thông
qua tổ chức du lịch hoặc đi tự do.
- Căn vứ vào phương tiện giao thông được sử dụng. Theo tiêu chí này,
du lịch được phân thành:
+ Du lịch bằng xe đạp
+ Du lịch bằng xe máy
+ Du lịch bằng ô tô
+ Du lịch bằng tàu hoả
13
+ Du lịch bằng tàu thuỷ
+ Du lịch bằng máy bay
- Căn cứ vào phương tiện lưu trú được sử dụng. Theo tiêu thức này, du lịch
được phân thành.
+ Du lịch ở khách sạn
+ Du lịch ở khách sạn ven đường
+ Du lịch ở lều trại

+ Du lịch ở làng du lịch
- Căn cứ vào thời gian đi du lịch. Theo tiêu chí này, du lịch được phân thành:
+ Du lịch dài ngày
+ Du lịch ngắn ngày
- Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch. Theo tiêu chí này du lịch được
phân thành:
+ Du lịch nghỉ núi
+ Du lịch nghỉ biển, sông, hồ
+ Du lịch thành phố
+ Du lịch đồng quê.
Ngày nay, trên thế giới có rất nhiều cách phân loại du lịch dựa trên
những tiêu chí khác nhau, đặc biệt ở các nước phát triển do nhu cầu của
khách du lịch rất đa dạng nên các loại hình du lịch cũng rất phong phú và
ở mỗi nước, mỗi khu vực lại có những đặc trưng riêng với những sản phẩm
du lịch đặc trưng. Chẳng hạn, ở Thái Lan phát triển loại hình du lịch sex
thì ở Việt Nam chú trọng phát triển loại hình du lịch sinh thái….
1.1.2. Vai trò của kinh tế du lịch
1.1.2.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Phát triển du lịch nội địa: Trong phạm vi một quốc gia, sự phát triển
của ngành kinh tế du lịch sẽ tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu
14
nhập quốc dân. Chẳng hạn, việc sản xuất ra đồ lưu niệm, chế biến thực
phẩm, xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật … góp phần làm tăng thêm
tổng thu nhập quốc nội (GDP).
Hoạt động kinh tế du lịch sẽ tham gia tích cực vào quá trình phân
phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng. Hay nói cách khác, kinh tế du
lịch tác động vào việc làm cân đối cấu trúc của thu nhập và chỉ tiêu của
nhân dân theo các vùng (thường thì các vùng phát triển mạnh du lịch lại là
những vùng kém sản xuất ra của cải vật chất dẫn đến thu nhập của người
dân tại những vùng đó tự sản xuất là thấp).

Du lịch nội địa là ngành kinh tế huy động tốt nhất kết cấu vật chất kinh tế
- xã hội, các nguồn lực khác nhau của các thành phần kinh tế cho phát triển kinh
tế quốc dân nói chung và mỗi vùng, mỗi địa phương nói riêng.
Ngoài ra, việc phát triển tốt du lịch nội địa sẽ góp phần củng cố sức
khoẻ cho nhân dân lao động và do vậy góp phần làm tăng năng suất lao
động xã hội. Đồng thời, du lịch nội địa giúp cho việc sử dụng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của du lịch quốc tế được hợp lý hơn. Vào trước và sau thời vụ du
lịch, khi khách quốc tế vắng có thể sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật ấy vào
phục vụ khách du lịch nội địa. Theo cách đó vừa có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của du lịch nội địa, vừa tận dụng được cơ sở vật chất - kỹ thuật.
- Phát triển du lịch quốc tế: Trong phạm vi quốc tế, sự phát triển của
du lịch tác động tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân thông qua
thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh
toán quốc tế.
Thực tế cho thấy, cùng với hàng không dân dụng, cung ứng tàu biển, kiều
hối, bưu điện quốc tế, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ khác,
du lịch quốc tế hàng năm đem lại cho các quốc gia nhiều ngoại tệ. Đây là tác
15
động trực tiếp nhất của du lịch đối với nền kinh tế, nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới đã thu hàng tỷ USD mỗi năm thông qua việc phát triển du lịch.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu
quả rất cao. Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước hết
ở chỗ, du lịch là một ngành “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hoá công
nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản …
theo giá bán lẻ cao hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn).
Được trao đổi thông qua con đường du lịch, các hàng hoá được xuất khẩu
mà không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế.
Du lịch không chỉ là ngành “xuất khẩu tại chỗ” mà còn là ngành
“xuất khẩu vô hình” hàng hoá du lịch. Đó là các cảnh quan thiên nhiên khí
hậu và ánh sáng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị của những di tích

lịch sử - văn hoá, tính độc đáo trong truyền thống, phong tục tập quán …
Với hai hình thức xuất khẩu trên cho thấy hàng hoá và dịch vụ bán thông
qua du lịch đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn, do tiết kiệm được đáng kể các chi
phí đóng gói, bao bì, bảo quản, vận chuyển và thuế xuất khẩu, có khả năng thu
hồi vốn nhanh và lãi xuất cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng
thanh toán.
Kinh tế du lịch phát triển sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa
phương, nó góp phần tạo nguồn thu ngân sách cho các địa phương từ các khoản
trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch thuộc sự quản lý trực tiếp của dân địa
phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh
trên địa bàn.
- Đối với lĩnh vực đầu tư cho quá trình phát triển. Du lịch có vai trò
khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Theo quy luật có tính phổ
biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay, giá trị
ngành du lịch ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội. Do
16
vậy, các nhà kinh doanh khi đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là
một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch
đem lại tỷ xuất lợi nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với
ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn lại
nhanh, kỹ thuật không phức tạp, mức độ rủi ro thấp. Đặc biệt, trong lĩnh
vực kinh doanh dịch vụ bổ sung thì nhu cầu về vốn đầu tư không lớn như
lĩnh vực kinh doanh dịch vụ cơ bản, mà thu hồi vốn nhanh, doanh thu cao,
thu hút được nhiều lao động góp phần giải quyết nhu cầu về việc làm, giảm
sức ép cho toàn xã hội.
1.1.2.2. Củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế
Kinh tế du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh
tế thông qua các mặt sau:
Một là, để đạt được mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch, các tổ
chức quốc tế mang tính chất chính phủ và phi chính phủ về du lịch đã tác

động tích cực với nhau nhờ đó mà hình thành những mối quan hệ kinh tế.
Hai là, kinh tế du lịch quốc tế phát triển, nhiều du khách có xu
hướng khám phá những miền đất lạ, đi đến nhiều điểm du lịch trong một
chuyến hành trình của mình… Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đi lại thuận tiện
cho quá trình du lịch của du khách mà ngành giao thông quốc tế đã không
ngừng quan tâm đầu tư phát triển.
Ba là, du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất - nhập khẩu” ngoại tệ, góp
phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế…
Tại Việt Nam, kinh tế du lịch là cầu nối giao lưu quốc tế có quan hệ
chặt chẽ với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Trong kinh doanh
du lịch quốc tế, khách du lịch quốc tế có thể là thương nhân. Mở rộng du
lịch quốc tế gắn liền với tăng lượng khách phục vụ, trong đó sự đi lại, tìm
hiểu thị trường của khách thương nhân được chú trọng. Từ đó, du lịch
17
thúc đẩy đầu tư, buôn bán quốc tế … Tuy nhiên, điều kiện hiện nay nước
ta còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu vốn đầu tư … nên cần phải hiện đại hoá
nền kinh tế Việt Nam thì điều đó càng có ý nghĩa to lớn. Bản thân hoạt
động kinh doanh du lịch cũng phát triển theo hướng quốc tế hoá, vì khách
du lịch thường đến nhiều nước trong một chuyến đi du lịch dài ngày. Hình
thức liên doanh, liên kết ở phạm vi quốc tế trong kinh doanh du lịch là
phương tiện kinh doanh đem lại lợi nhuận kinh tế cao, đến lượt nó kích
thích đầu tư nước ngoài vào du lịch và tăng cường chính sách mở cửa.
Thực tiễn phát triển kinh tế ở Thái lan, Singapore, Malaysia… đã chọn du
lịch là một hướng mở cửa của nền kinh tế.
1.1.2.3. Góp phần phát triển các ngành kinh tế khác
Phát triển du lịch có thể kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế
khác, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế khu vực.
Trước hết, hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên
ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành là cơ sở cho các ngành khác (như
giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, bưu điện, hải quan,

điện lực …) phát triển, đối với nền sản xuất xã hội, du lịch mở ra một thị
trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, sự phát triển du lịch tạo các điều kiện
để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh
doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất - kỹ thuật ở các ngành kinh
tế khác.
Phát triển du lịch sẽ mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế như
mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện
thông tin đại chúng … Đặc biệt là ở những vùng phát triển du lịch, do xuất
hiện nhu cầu đi lại, vận chuyển thông tin liên lạc … của khách du lịch,
cũng như những điều kiện cần thiết cho cơ sở kinh doanh du lịch hoạt động
nên các ngành này phát triển. Ngoài ra, du khách không chỉ dừng lại ở
18
điểm du lịch mà trước đó và sau đó du khách có nhu cầu đi lại giữa các
điểm du lịch, trên cơ sở đó ngành giao thông vận tải phát triển.
Đối với những vùng lạc hậu, xa xôi hẻo lánh, kinh tế khó khăn không
thích hợp phát triển công nghiệp thì phát triển du lịch sẽ có ý nghĩa quan
trọng đến việc xoá đói, giảm nghèo, dần đi đến làm giầu. Đồng thời, sự
phát triển của ngành kinh tế du lịch sẽ trực tiếp tăng thu nhập tài chính
của nước nơi đón tiếp. Ngoài ra, du lịch phát triển còn “đánh thức” một số
ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống của các dân tộc bởi các lý
do sau:
Khách du lịch rất thích mua các đồ lưu niệm mang tính dân tộc, đó là các
sản phẩm của các nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền. Nhờ vậy, nghề thủ công
mỹ nghệ cổ truyền như: nghề khảm, sơn mài, tạc tượng, làm tranh lụa, gốm
sứ… có điều kiện phục hồi và phát triển.
Mặt khác, khách du lịch văn hoá ngày một đông, họ thường đi thăm
quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hoá dân tộc. Vì vậy, việc
tôn tạo và bảo dưỡng các di tích đó ngày càng được quan tâm nhiều hơn.
1.1.2.4. Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, có nhu cầu về lao động cao cả về

lao động trực tiếp cũng như lao động gián tiếp. Chính điều này có tác dụng lớn
trong việc giảm áp lực trong việc giải quyết công ăn việc làm cho chính phủ,
giảm tình trạng thất nghiệp, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội.
Theo như thống kê năm 2000 của thế giới, du lịch là ngành tạo việc làm
quan trọng. Tổng số lao động trong các hoạt động liên quan đến du lịch chiếm
10,7% tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 giây du lịch tạo ra được một việc làm
mới, đến năm 2005 cứ 8 lao động thì có một người làm trong ngành kinh tế du
lịch.
19
Một buồng khách sạn từ một sao đến 3 sao trên thế giới hiện nay thu
hút khoảng 1,3 lao động trong các dịch vụ chính và khoảng 5 lao động
trong các dịch vụ bổ sung. Số lao động cần thiết trong dịch vụ bổ sung có
thể tăng lên nhiều lần, nếu các dịch vụ này được nâng cao về chất lượng và
phong phú về chủng loại. Theo dự báo của UNWTO, năm 2020 ngành kinh
tế du lịch sẽ tăng thêm khoảng 250 triệu việc làm, chủ yếu tập trung ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương.
1.1.2.5. Quảng bá hình ảnh của đất nước
Về mặt kinh tế: Du lịch là phương tiện tuyên truyền, quảng bá hữu
hiệu cho hàng hoá nội địa ra nước ngoài thông qua khách du lịch. Khi
thăm quan du lịch du khách được tiếp cận với các mặt hàng công nghiệp,
thủ công nghiệp, nông nghiệp … ở các nước làm du lịch. Với sự hài lòng cả
về hình thức lẫn chất lượng của những hàng hoá đã được làm quen, qua
kênh thông tin, lan truyền từ người này sang người khác, du khách thường
giới thiệu cho những người thân và bạn bè của họ về những hàng hoá này.
Từ đó, nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm mặt hàng đó, nhờ vậy, mà các
nước làm du lịch xuất khẩu hàng hoá ngày càng nhiều hơn. Đặc biệt, trong
thời đại công nghệ thông tin hiện đại kênh thông tin của du khách đối với
những người thân, bạn bè của họ ngày càng thuận tiện hơn thì việc phát
triển du lịch lại càng là phương tiện tốt hơn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu

hàng hoá ở các quốc gia thu hút khách du lịch.
Về mặt văn hoá - xã hội: Việc phát triển kinh tế du lịch là phương
tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu cho các thành tựu về kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán, con người … của các quốc gia thu
hút khách du lịch. Ngoài ra, phát triển kinh tế du lịch sẽ làm tăng thêm
tầm hiểu biết chung về văn hoá, xã hội cho người dân thông qua du khách
trong nước và quốc tế (về phong tục tập quán, phong cách sống, ngoại ngữ,
20
thẩm mỹ …) tạo ra sự “giao thoa” về văn hoá giữa các vùng, các miền, các
dân tộc khác nhau trên thế giới; làm tăng thêm tình đoàn kết, hữu nghị,
mối quan hệ thân ái của nhân dân giữa các vùng với nhau và nhân dân
giữa các quốc gia với nhau.
1.1.3. Những nhân tố tác động đến kinh tế du lịch
1.1.3.1. Nhóm nhân tố tác động đến cầu du lịch
Cầu du lịch luôn biến động do tác động của nhiều nhóm yếu tố. Tác
động của các nhóm yếu tố này theo những cơ chế rất khác nhau và phức
tạp, nhiều khi trái ngược, khống chế lẫn nhau. Các nhóm yếu tố chủ yếu là:
yếu tố tự nhiên, văn hoá - xã hội, kinh tế, khoa học - kỹ thuật và công
nghiệp, quá trình đô thị hoá, chính trị, giao thông và các yếu tố khác.
- Yếu tố tự nhiên
Yếu tố tự nhiên như khí hậu, địa hình, địa mạo, động thực vật, tài
nguyên nước… tác động chủ yếu đến việc hình thành cầu du lịch và lượng
cầu du lịch. Các yếu tố tự nhiên ở cả 2 địa điểm, một là ở nơi thường trú
của khách và hai là tại các điểm thăm quan du lịch, đều tác động đến cầu
du lịch, nhưng cơ chế tác động khác nhau, thường là trái ngược nhau.
Đặc điểm các yếu tố tự nhiên nơi ở thường xuyên của khách du lịch
càng khắc nghiệt bao nhiêu càng thôi thúc con người đi du lịch bấy nhiêu.
Những nơi có các điều kiện tự nhiên bất lợi như khí hậu quá lạnh hoặc quá
nóng, độ ẩm cao, ít nắng, địa hình đơn điệu, động thực vật không đa dạng,
phong phú … sẽ làm nẩy sinh nhu cầu du lịch của người dân đang sống ở

đó. Các yếu tố này tác động lên điều kiện sống của cư dân một cách liên tục
làm cho nhu cầu đi du lịch đến nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi trở nên
cần thiết và ngày càng phát triển. Khi có khả năng thanh toán thì nhu cầu
này sẽ chuyển hoá thành cầu du lịch.
21
Đặc điểm các yếu tố tự nhiên của điểm thăm quan du lịch: những nơi
có vị trí địa lý, khí hậu, địa hình, động thực vật, chế độ thuỷ văn thuận lợi,
nhất là nơi có danh lam thắng cảnh… thường là những nơi có sự hấp dẫn
du lịch. Điều kiện tự nhiên tại điểm du lịch càng thuận lợi càng khơi dậy và
hình thành nhanh cầu du lịch và quyết định đến lượng cầu. Nhóm yếu tố tự
nhiên thường được coi là những hấp dẫn ban đầu của các điểm thăm quan
du lịch. Những nơi ít hoặc không có điều kiện tự nhiên thuận lợi hoặc khác
biệt, rất khó hình thành những điểm thăm quan du lịch. Nếu muốn xây
dựng thành điểm thăm quan du lịch thường đòi hỏi phải đầu tư rất tốn
kém.
- Yếu tố văn hoá - xã hội
Yếu tố văn hoá - xã hội tác động cả đến việc hình thành cầu du lịch lẫn
khối lượng và cơ cấu của nó. Nhóm yếu tố này bao gồm những thành tố cơ
bản như: tâm trạng, tâm sinh lý con người, độ tuổi và giới tính của khách,
thời gian nhàn rỗi, dân cư, trình độ văn hoá, thị hiếu và các kỳ vọng của
mỗi cá nhân và từng nhóm người trong xã hội.
Tâm trạng, tâm sinh lý con người: Đây là yếu tố đặc thù tác động lên cầu
du lịch. Tâm lý thư giãn, sảng khoái, sức khoẻ tốt thường nẩy sinh nhu cầu
du lịch và tạo ra các điều kiện để thúc đẩy nhu cầu du lịch chuyển hoá
thành cầu du lịch cũng như việc thực hiện cầu du lịch. Tuy nhiên, trong du
lịch đôi lúc do buồn chán, do tình hình sức khoẻ không đảm bảo, người ta
cũng chấp nhận một chuyến đi để đổi gió hoặc để chữa bệnh.
Độ tuổi và giới tính của khách: Yếu tố này tác động đến cầu du lịch rất
nhiều. Tuổi trẻ thường hay đi du lịch và ưa mạo hiểm nhưng khả năng tài
chính bị giới hạn. Tuổi già có điều kiện về tài chính và thời gian nhưng sức

khoẻ nhiều khi không cho phép để thực hiện các chuyến đi theo dự định.
Nam giới thường đi du lịch nhiều hơn nữ giới nhưng phụ nữ thường là
22
người nắm tài chính trong gia đình, thường đưa ra những đề nghị và quyết
định cho việc đi du lịch.
Thời gian rỗi: Không có thời gian rỗi người ta không thể đi du lịch.
Trong lịch sử của ngành du lịch, thời gian rỗi đã thực sự trở thành một
trong những yếu tố quyết định sự phát triển của nó. Thời gian rỗi (còn
được gọi là thời gian tự do) là phần thời gian ngoài giờ làm việc, học tập,
con người thường sử dụng để hồi phục và phát triển sức lực, trí tuệ và tinh
thần.
Dân cư: Dân cư là lực lượng tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội.
Tuỳ theo độ tuổi mà dân cư tham gia vào các giai đoạn của quá trình tái
sản xuất. Trong giai đoạn tiêu dùng, toàn bộ dân cư của một vùng, một
quốc gia đều tham gia. Ngoài các nhu cầu thiết yếu hàng ngày, dân cư còn
có nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch. Sự tập trung dân cư vào các đô thị, sự gia
tăng dân số, tăng mật độ dân số, tuổi thọ, nghề nghiệp… liên quan trực
tiếp đến nhu cầu du lịch và cầu du lịch. Các yếu tố dân cư như: số dân,
thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, cơ cấu, sự phân bố và mật độ
dân cư tác động trực tiếp đến việc hình thành cầu du lịch, tần suất hình
thành cầu và khối lượng cầu du lịch.
Bản sắc văn hoá và tài nguyên nhân văn khác: Sự khác biệt giữa các nền
văn hoá của các địa phương, các vùng của một quốc gia, giữa các quốc gia
do tập tục mỗi vùng, do bản sắc văn hoá dân tộc quyết định. Chính bản sắc
văn hoá dân tộc tạo ra sức kích thích hình thành cầu du lịch. Trong xu thế
toàn cầu hóa, khu vực hoá hiện nay, quốc gia nào giữ được bản sắc văn hoá
dân tộc, bảo vệ được những đặc thù truyền thống sẽ có sức hấp dẫn du lịch
lâu dài, thu hút được nhiều khách du lịch. Bản sắc văn hoá và tài nguyên
nhân văn khác đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bổ sung cho
cầu du lịch ở ngoài mùa du lịch. Bởi vì hầu hết các bộ phận của yếu tố này

23
không mang tính thời vụ, giúp cho các cơ sở hoạt động du lịch giảm nhẹ
tính thời vụ.
Trình độ văn hoá: Trình độ văn hoá tác động đến việc hình thành cầu cả
phía người tiêu dùng du lịch và người sản xuất du lịch. Khi trình độ văn
hoá được nâng cao thì động cơ đi du lịch tăng lên, thói quen đi du lịch hình
thành ngày một rõ. Những người có văn hoá thấp thường ít có nhu cầu du
lịch, mặc dù họ có thời gian rỗi và các điều kiện vật chất khác. Trình độ
văn hoá của những người làm du lịch tác động trực tiếp đến chất lượng sản
phẩm du lịch và thông qua nó tác động đến việc hình thành cầu, đến khối
lượng và cơ cấu của cầu du lịch đối với khách du lịch lần một và các lần
tiếp theo.
Nghề nghiệp: Nghề nghiệp là những hoạt động phục vụ cho mục đích
kiếm sống, dưới nhiều hình thức, được lập đi lập lại trong một khoảng thời
gian dài hoặc cả cuộc đời của con người. Tuỳ theo đặc thù của mỗi nghề,
con người sẽ phải dịch chuyển, phải đi du lịch nhiều hay ít.
Thị hiếu và các kỳ vọng : Thị hiếu ảnh hưởng trực tiếp đến cầu du lịch,
hướng sự ưu tiên tiêu dùng vào hàng hoá, dịch vụ du lịch xác định nào đó.
Các kỳ vọng hay sự mong đợi của con người về sự thay đổi thu nhập, giá cả
… làm cho cầu du lịch thay đổi. Các thị hiếu và kỳ vọng trong lĩnh vực du
lịch tác động trực tiếp đến việc hình thành cầu du lịch, đến cơ cấu của cầu
và lượng cầu du lịch.
- Các yếu tố kinh tế
Đây là nhóm yếu tố quyết định, tác động trực tiếp và nhiều chiều lên cầu
du lịch, cả về sự hình thành cầu du lịch đến khối lượng và cơ cấu của nó
trên thị trường du lịch. Trong nhóm yếu tố kinh tế thì yếu tố thu nhập, giá
cả và tỷ giá hối đoái đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
24
Thu nhập của dân cư: Để có cầu trong du lịch thì thu nhập của dân cư
phải đạt đến mức độ nhất định vượt qua mức cân đối đáp ứng các nhu cầu

thiết yếu, hoặc phải có nguồn thu nhập bổ sung đủ để bù đắp cho những
chi phí của chuyến đi du lịch. Khi thu nhập của dân cư tăng lên sẽ dẫn đến
tiêu dùng du lịch tăng lên và ngược lại. Tuy nhiên, trong một số loại hình
du lịch, đặc biệt là du lịch chữa bệnh, du lịch hành hương, tín ngưỡng, cầu
du lịch không hoàn toàn chịu tác động của thu nhập dân cư theo cơ chế
như trên.
Giá cả hàng hoá: Trên thị trường chung, giá cả hàng hoá biến động sẽ
gây nên sự biến động của cầu du lịch. Giá cả hàng hoá giảm xuống, sức
mua sẽ tăng lên, việc lưu thông hàng hoá thuận lợi sẽ tác động trực tiếp
đến người tiêu dùng. Thu nhập của họ ngoài việc được sử dụng đáp ứng
các nhu cầu thiết yếu sẽ còn một khoản dôi ra có thể dành để tích luỹ hoặc
để đi du lịch. Theo đó cầu du lịch sẽ được hình thành nhanh chóng và
lượng cầu du lịch sẽ tăng lên. Trên thị trường du lịch, tác động của giá cả
hàng hoá vật chất và dịch vụ lên cầu du lịch bị khống chế bởi hai giới hạn.
Khi giá hàng hoá du lịch quá đắt, người mua trên thị trường du lịch không
chấp nhận, cầu du lịch sẽ giảm và có thể triệt tiêu. Khi giá hàng hoá dịch
vụ giảm dần, lượng cầu du lịch sẽ tăng lên, nhưng giá hàng hoá du lịch
giảm quá giới hạn, người mua không tin tưởng vào chất lượng của hàng
hoá vật chất và dịch vụ du lich, làm cho lượng cầu cũng giảm đi và có thể
triệt tiêu.
Tỷ giá trao đổi ngoại tệ: Yếu tố này tác động chủ yếu đến sự hình thành
cầu, đến khối lượng và cơ cấu của cầu du lịch quốc tế. Trong điều kiện giữ
nguyên giá cả của hàng hoá du lịch, tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp đến
cầu trong du lịch quốc tế. Khách du lịch sẽ quyết định đến những nơi mà tỷ
giá hối đoái cao nhất giữa đồng tiền của nơi mà họ mang quốc tịch, làm
25

×