PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như Xuân nằm ở phía Tây Nam tỉnh Thanh Hóa. Với điều kiện địa
hình bán sơn địa, đất đai đa dạng màu mỡ, tài nguyên thiên nhiên phong phú
đặc biệt là tài nguyên rừng và khoáng sản, huyện có nhiều tiềm năng trong
phát triển kinh tế, do địa hình và điều kiện giao thông đi lại khó khăn, phần
lớn dân số sống bằng nghề sản xuất nông – lâm nghiệp nên chính quyền và
người dân phải vượt qua nhiều khó khăn để vươn lên.
Trong những năm gần đây, huyện Như Xuân đã đạt được nhiều thành
tựu trong phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế đúng hướng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển huyện đã và đang gặp nhiều khó khăn
cần được giải quyết như tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chậm, cơ cấu sử
dụng lao động trong các ngành kinh tế chưa hợp lý, sự xuống cấp của cơ sở
hạ tầng, ô nhiễm môi trường…Chính vì vậy, việc phát triển kinh tế của
huyện tương xứng với tiềm năng sẵn có trong thời kỳ công nghiệp hóa là
một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết. Từ đó tạo cơ sở để nền kinh tế
huyện hòa nhập vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa nói
riêng và cả nước nói chung.
Nhằm tìm hiểu và đánh giá quá trình phát triển kinh tế huyện Như
Xuân trong thập kỷ qua và đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh việc phát triển
kinh tế trong những năm tới, góp phần vào việc phát triển bền vững nền kinh
tế Như Xuân trong tương lai, tôi đã lựa chon đề tài: “Phát triển kinh tế
huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2000 – 2011” nhằm vận dụng
cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học của địa lý học vào địa bàn
cụ thể.
1
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu phát triển kinh tế các huyện đã thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà khoa học, nhà kinh tế, các cơ quan chuyên ngành trong đó có
địa lý học nhằm phát huy các nguồn lực sẵn có để phát triển kinh tế hợp lý và
có hiệu quả, cải thiện đời sống nhân dân.
Bàn về phát triển kinh tế, lí luận và thực tiễn, đã có nhiều công trình
nghiên cứu, trong đó tiêu biểu là:
Địa lí các vùng kinh tế Việt Nam của Nguyễn Minh Tuệ (Chủ biên)
(2009), NXB Giáo dục Việt Nam.
Địa lí kinh tế Việt Nam của Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức
(2001), NXB Giáo Dục – Hà Nội.
Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam của Lê Thông (Chủ biên) (2011), NXB
Đại học sư phạm Hà Nội.
Trong chương trình đào tạo thạc sĩ địa lý học ở khoa Địa lý, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, nội dung tổ chức lãnh thổ kinh tế nói chung và
phát triển kinh tế huyện nói riêng là những đề tài luận văn thực hiện và bảo
vệ. Một số luận văn thạc sĩ tiêu biểu như:
Kinh tế huyện Kỳ Anh trong thời kì đổi mới, luận văn thạc sĩ địa lý học
của Trương Thị Nguyệt – 2009, ĐHSP Hà Nội.
Phát triển kinh tế huyện Gia lâm trong thời kì công nghiệp hóa, luận
văn thạc sĩ địa lý học của Nguyễn Thị Thu Hà– 2010, ĐHSP Hà Nội.
Nghiên cứu về kinh tế huyện tại Thanh Hóa, đã có các công trình
nghiên cứu như:
Phát triển kinh tế huyện Tĩnh Gia trong giai đoạn 2006 – 2010, luận
văn thạc sĩ địa lý học của Nguyễn Thị Ngân Lan – 2011, ĐHSP Hà Nội.
Phát triển kinh tế huyện Thọ Xuân trong giai đoạn 2006 - 2011 và tầm
nhìn đến năm 2020, luận văn thạc sĩ địa lý học của Phạm Thị Hằng – 2012,
ĐHSP Hà Nội.
2
Về địa bàn huyện Như Xuân đã có một số đề tài như:
Địa chí huyện Như Xuân do Huyện ủy - Hội đồng nhân dân, UBND
huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa thực hiện, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm
2005.
Lịch sử Đảng bộ huyện Như Xuân Tập 1, năm 2000.
Các đề tài này đã trình bày các điều kiện, thực trạng phát triển kinh tế
và các định hướng phát triển cho giai đoạn trước (2000 – 2005).
Dưới góc độ địa lí học, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Mục tiêu
Tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế để vận dụng
vào địa bàn huyện Như Xuân nhằm đánh giá tiềm năng và phân tích thực
trạng phát triển kinh tế giai đoạn 2000 – 2011. Từ đó đề xuất một số giải
pháp phát triển kinh tế huyện đến năm 2020 một cách có hiệu quả và bền
vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan các nghiên cứu về phát triển kinh tế và các chỉ tiêu đánh
giá cũng như thực tiễn phát triển kinh tế để vận dụng vào địa bàn cấp huyện.
- Kiểm kê, đánh giá các nguồn lực ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế
của huyện Như Xuân.
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế ở huyện Như Xuân giai đoạn
2000 - 2011 theo khía cạnh ngành và lãnh thổ.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển ổn định, hiệu quả và bền
vững nền kinh tế của huyện trong tương lai.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về lãnh thổ: Nghiên cứu toàn huyện Như Xuân, có sự phân hóa tới
cấp xã và so sánh với các huyện lân cận của tỉnh Thanh Hóa.
3
- Về nội dung: Tập trung đánh giá các nguồn lực phát triển kinh tế thực
trạng phát triển kinh tế theo ngành và theo không gian.
- Về thời gian nghiên cứu: Số liệu phân tích được lấy trong khoảng
thời gian từ 2000 – 2011, định hướng đến năm 2020.
4. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Quan điểm nghiên cứu
- Quan điểm hệ thống
Khi nghiên cứu đề tài phải đảm bảo được tính hệ thống. Tính hệ thống
làm cho đề tài trở nên lôgic, thông suốt và sâu sắc. Lãnh thổ Như Xuân được
coi là một hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất, trong đó bao gồm các hệ thống
con (như các thị trấn, các xã). Các hệ thống có mối quan hệ tương tác, mật
thiết với nhau. Vì vậy cần phải tìm hiểu các mối quan hệ qua lại, các tác động
ảnh hưởng giữa các yếu tố trong một hệ thống và giữa các hệ thống để đánh
giá chính xác vấn đề nghiên cứu.
- Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Mọi sự vật và hiện tượng địa lý đều tồn tại và phát triển trong một
không gian lãnh thổ nhất định. Khoa học địa lý tìm ra sự phân hóa của các sự
vật, hiện tượng và dự kiến sự phân bố của chúng trong không gian.
Cơ cấu lãnh thổ huyện Như Xuân được coi như một thể tổng hợp
tương đối hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội (KT –
XH) có mối quan hệ chặt chẽ, tác động ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Do
đó phải có cái nhìn tổng hợp lãnh thổ để phân tích các khía cạnh có ảnh
hưởng đến lãnh thổ trên địa bàn nghiên cứu, tìm ra các quy luật phát triển, từ
đó định hướng phát triển có tính tổng hợp nhằm khai thác tốt nhất những tiềm
năng của huyện.
- Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng địa lý dù lớn hay nhỏ đều phát sinh, phát triển
theo quy luật riêng của nó. Vận dụng quan điểm lịch sử vào việc nghiên cứu
đề tài để thấy được những biến đổi của các yếu tố kinh tế trong từng giai
4
đoạn phát triển của các ngành kinh tế trong huyện. Vận dụng quan điểm lịch
sử và viễn cảnh còn cho ta thấy được sự hình thành và phát triển của các
ngành kinh tế trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
- Quan điểm phát triển bền vững
Những giải pháp cho sự phát triển KT – XH phải dựa trên quan điểm
bền vững. Phát triển KT – XH phải gắn liền với bảo vệ và tái tạo tài nguyên
thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học (Phép
biện chứng duy vật và duy vật lịch sử) và bám sát đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta trong thời kì CNH, HĐH đất nước.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng một số phương pháp chủ
yếu sau đây:
- Phương pháp thu thập tài liệu
Phân tích, đánh giá thực trạng nền kinh tế theo khía cạnh ngành và
lãnh thổ là những công việc phức tạp, đa dạng, các tiêu chí đánh giá có liên
quan đến nhiều lĩnh vực. Để thực hiện đề tài này, tác giả đã thu thập dữ liệu
bằng cả số (thống kê), bằng văn bản và dữ liệu không gian (bản đồ) từ nhiều
nguồn khác nhau, có thống nhất về thời gian (2000 – 2011). Sau đó tiến hành
tổng hợp, phân tích chọn lọc để có những tài liệu thực sự cần thiết, đáp ứng
được những yêu cầu của đề tài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Trên cơ sở số liệu bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các
mối quan hệ về không gian, thời gian giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế,
đặc biệt là các mối liên hệ về tự nhiên và nhân văn, các mối quan hệ hình
thức và bản chất. Qua đó xây dựng mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp
lý, đề tài vận dụng các phản ứng tích cực và tiêu cực khi có ngoại cảnh tương
tác, từ đó lựa chọn phương pháp tối ưu. Quá trình phân tích, đánh giá, đề xuất
5
được tiến hành trên cơ sở so sánh, tổng hợp để rút ra các bản chất của hiện
tượng kinh tế, hiện tượng địa lý phục vụ cho đề tài.
- Phương pháp thống kê
Trên cơ sở thống kê số liệu đã thu thập được từ Chi Cục thống kê tỉnh
Thanh Hóa và các Phòng Thống kê, Phòng NN, Phòng Công Thương, Phòng
Tài chính kế hoạch, Phòng Văn hóa thông tin, Phòng Tài nguyên môi trường
của huyện Như Xuân. Từ đó tác giả sử dụng phương pháp thống kê toán học
để xử lý các số liệu thu thập được theo mục đích, tính toán, so sánh, đánh
giá… nhằm tìm ra những thông số cần thiết phục vụ cho nội dung đề tài.
- Phương pháp bản đồ, biểu đồ và sử dụng công nghệ GIS.
+ Bản đồ dùng để mô tả hiện trạng kinh tế, sự phân bố các hiện tượng
địa lý kinh tế, các mối liên hệ lãnh thổ trong không gian, các mối quan hệ
giữa chúng và những dự kiến phát triển kinh tế.
+ Biểu đồ được sử dụng để phản ánh quy mô các hiện tượng kinh tế
như: ngành, lĩnh vực…
+ Sử dụng công nghệ GIS để số hóa và vẽ các bản đồ, biểu đồ một
cách chính xác mang tính khoa học cao và đáp ứng yêu cầu của đề tài.
- Phương pháp thực địa
Được thực hiện trên cơ sở khảo sát, tìm hiểu trực tiếp các xã, thị trấn,
một số nơi SX NN, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và các lễ hội trên địa
bàn huyện. Từ đó xin ý kiến đánh giá của các nhà quản lý, các chuyên gia,
phỏng vấn một số cán bộ địa phương và hộ nông dân, hộ kinh doanh thương
mại dịch vụ về lĩnh vực liên quan đến đề tài. Sau đó thu thập thêm thông tin,
bổ sung những hiểu biết của tác giả về quê hương, cũng là địa bàn nghiên cứu
và kiểm chứng các phân tích, tổng hợp, nhận định của tác giả.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Kế thừa, bổ sung và cập nhật được cơ sở lí luận và thực tiễn về phát
triển kinh tế ở địa bàn cấp huyện để vận dụng vào huyện Như Xuân.
6
- Làm rõ được lợi thế và cơ hội phát triển, các hạn chế và thách thức
của các nguồn lực đối với nền kinh tế của huyện Như Xuân.
- Đưa ra bức tranh phát triển kinh tế huyện Như Xuân theo ngành và
lãnh thổ.
- Đề xuất được một số giải pháp cụ thể phát triển kinh tế huyện Như
Xuân ổn định, có hiệu quả và bền vững trong tương lai.
6. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ
lục, các biểu đồ, bảng biểu, hệ thống các bản đồ, luận văn được trình bày theo
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển kinh tế.
Chương 2: Các nguồn lực và thực trạng phát triển kinh tế huyện Như
Xuân.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế huyện Như
Xuân đến năm 2020.
7
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là việc mở rộng tiềm lực kinh tế của một quốc gia,
là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền
kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các
thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản
lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng
trưởng là "cặp đôi" trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, khái niệm tăng trưởng kinh tế chỉ thuần tuý nói đến số
lượng. Bởi những con số thể hiện sự tăng trưởng GDP, GNI, hay GDP/người
không phản ánh sự vận động đi lên của xã hội, không cho phép biết được tình
hình phân phối thu nhập quốc dân, cơ cấu kinh tế xã hội, tính năng động của
nền kinh tế và tình hình phúc lợi của nhân dân.
Ngày nay, tăng trưởng kinh tế được gắn với chất lượng tăng trưởng.
Nếu như số lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở qui mô, tốc độ của
tăng trưởng, thì chất lượng của tăng trưởng kinh tế là tính qui định vốn có của
nó, là sự thống nhất hữu cơ làm cho hiện tượng tăng trưởng kinh tế khác với
các hiện tượng khác. Chất lượng tăng trưởng được qui định bởi các yếu tố
cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành nên tăng trưởng
kinh tế.
Nhìn chung, khi nghiên cứu quá trình tăng trưởng, cần phải xem xét
hai mặt của hiện tượng tăng trưởng kinh tế là số lượng và chất lượng của tăng
trưởng một cách đầy đủ. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ và chất lượng cao là
8
mong muốn của mọi quốc gia và của cả nhân loại trên toàn thế giới.
1.1.1.2. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Phát
triển kinh tế là quá trình lớn lên, và tăng tiến về mọi mặt kinh tế trong một
thời kì nhất định. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời có sự hoàn
chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. Như vậy, phát
triển kinh tế bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự tăng trưởng là sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội
(GDP) và GDP/người.
Thứ hai, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại trong đó
giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản (N – L – TS) tăng
tỷ trọng khu vực công nghiệp – xây dựng (CN – XD) và dịch vụ.
Thứ ba, cải thiện đời sống của nhân dân về phúc lợi xã hội, mức sống,
văn hóa - giáo dục, y tế - sức khỏe và sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia, người dân được
xem là thành viên chủ yếu của quá trình thay đổi. Khi tham gia vào quá trình
phát triển là họ đã tham gia vào việc hưởng thụ lợi ích của sự phát triển cũng
như tạo ra các lợi ích đó. Người nước ngoài có thể tham gia nhưng họ không
phải là người thực hiện toàn bộ quá trình phát triển. Nếu như chỉ làm ra được
một chút lợi nhuận, hoặc làm cho một nhóm nào đó trở nên giàu có cũng
không thể coi đó là sự phát triển.
1.1.1.3. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- “Cơ cấu nền kinh tế là tổng thể những mối quan hệ về chất lượng và
số lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế trong một thời gian và trong
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định” [13].
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi về số lượng các nhóm
ngành và ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa chúng, giữa các vùng
và theo các thành phần. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ, lạc
hậu thành một cơ cấu kinh tế phù hợp hơn. Trong quá trình phát triển kinh tế,
9
tỷ trọng của khu vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ trong GDP và trong
tổng nguồn lao động đang làm việc tăng lên, trong khi tỷ trọng của N – L –
TS giảm; đồng thời dân tỷ trọng cư đô thị tăng lên trong khi tỷ trọng dân cư
nông thôn giảm. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh mức độ thay đổi của
phương thức SX theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng suất
lao động cao, giá trị gia tăng lớn, có tốc độ phát triển cao hơn và thay thế dần
những khu vực SX, kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng thấp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giúp cho nền kinh tế phát triển với tốc độ
nhanh, vững chắc và có khả năng hội nhập với khu vực, thế giới.
1.1.1.4. Nguồn lực
Trong quá trình phát triển kinh tế việc sử dụng và phát huy các nguồn
lực đóng vai trò quan trọng. Adam Smith cho rằng việc khai thác các nguồn
lực từ góc độ lợi thế so sánh là “nguồn gốc của cải của dân tộc”. Theo ông
nguồn lực chủ yếu của xã hội trong thời kỳ của ông là vốn, sức lao động và
đất đai. Đây chính là nguồn gốc đo sự thịnh vượng của các quốc gia, là chìa
khóa dẫn đến tới tự tăng trưởng kinh tế. Tất cả các trường phái và các học
thuyết kinh tế cũng như chính trị sau này đều nhất trí với quan điểm của
Adam Smith nhưng tiếp tục bổ sung thêm các nguồn lực mới.
Còn theo Lê Du Phong “Nguồn lực là tổng hợp các yếu tố vật thể và
phi vật thể tạo nên nền kinh tế của một đất nước và thúc đẩy nó phát triển”.
Như vậy nguồn lực có những đặc điểm sau:
- Nguồn lực là một dạng vật chất và phi vật chất được sử dụng để phát
triển kinh tế.
- Nguồn lực phụ thuộc vào nhận thức và quan niệm của con người và
nó thay đổi vị trí, vai trò theo thời gian cũng như trình độ của người sử dụng.
- Nguồn lực phụ thuộc vào trình độ phát triển của loài người, đặc biệt
là trình độ khoa học – công nghệ.
10
1.1.2. Các nguồn lực ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
1.1.2.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý là một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển KT của một
quốc gia, bao gồm vị trí tự nhiên, kinh tế, giao thông, chính trị. Sự thuận lợi
hay khó khăn của nguồn lực này sẽ ảnh hưởng đến chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch cũng như tốc độ phát triển của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình
xây dựng, phát triển nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế, hội nhập vào đời sống KT – XH của khu vực và thế giới. Trong xu
thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, định hướng có lợi nhất trong phân công
lao động quốc tế.
Đối với nước ta nói chung và Thanh Hoá cũng như Như Xuân nói riêng,
những lợi thế về vị trí địa lý mới thực sự được khai thác trong thời kỳ CNH –
HĐH nền kinh tế.
1.1.2.2. Tự nhiên
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là một trong các nguồn lực
cơ bản của quá trình SX, là đối tượng lao động của con người và là nguồn vật
chất vừa phục vụ trực tiếp cho cuộc sống vừa phục vụ cho phát triển kinh tế.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên bao gồm địa hình, đất, khí hậu,
nguồn nước, sinh vật, khoáng sản Sức lao động càng cao thì phạm vi tài
nguyên càng được mở rộng. Tài nguyên thiên nhiên thực sự trở thành sức mạnh
kinh tế khi được con người khai thác và sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả.
Nó còn là một nguồn lực quan trọng trong việc tạo ra các mặt hàng có giá trị
xuất khẩu cao, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn, đồng thời tạo ra sức hấp dẫn
trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, đối với việc phát triển KT, tài nguyên thiên nhiên là điều
kiện cần nhưng chưa đủ, đặc biệt trong xu thế nền thương mại toàn cầu hiện
nay, tài nguyên thiên nhiên chỉ là cơ sở ban đầu chứ không còn là điều kiện
quan trọng nhất trong việc hình thành và phát triển các ngành kinh tế. Các
nước không có tài nguyên nhưng vẫn hình thành các ngành kinh tế và trung
11
tâm kinh tế ngành mạnh về loại tài nguyên đó trên cơ sở nhập khẩu nguyên
liệu.
Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quốc gia, là nhân tố không thể thiếu
được của quá trình SX. Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên có giới hạn mà nhu
cầu của con người thì vô hạn. Do đó, để đảm bảo phát triển bền vững thì cần
phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
1.1.2.3. Kinh tế - xã hội
a. Dân cư và nguồn lao động
Dân cư và nguồn lao động có vai trò quyết định đối với việc phát triển
KT. Dân cư và nguồn lao động vừa là lực lượng SX trực tiếp tạo ra sản phẩm,
tạo ra sự tăng trưởng cho các ngành kinh tế vừa là thị trường tiêu thụ các sản
phẩm, dịch vụ tham gia tạo cầu cho nền kinh tế.
Khi xét dân cư ở khía cạnh là lực lượng SX thì quy mô, cơ cấu, trình
độ và sự phân bố của dân cư là yếu tố cần quan tâm hàng đầu. Quy mô dân số
đông sẽ có nguồn lao động dồi dào, dân số trẻ có khả năng lao động tốt hơn.
Trình độ nguồn lao động có ý nghĩa lớn trong việc lựa chọn phát triển các
ngành đòi hỏi trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao. Sự phân bố dân cư
tác động đến việc phân bố các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành cần nhiều
lao động, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ. Còn nếu xét ở
khía cạnh thị trường tiêu thụ hàng hóa thì quy mô, kết cấu trình độ và sự phân
bố của dân cư sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu các ngành, quy mô SX của các ngành
hàng khác nhau. Mặt khác, dân cư lao động là một lợi thế thu hút đầu tư của
nước ngoài. Vì vậy mỗi quốc gia trên thế giới không ngừng nâng cao chất
lượng dân cư và coi đây là một chiến lược lâu dài nhằm tạo động lực thúc
đẩy nền kinh tế phát triển trong tương lai.
b. Khoa học và công nghệ
Trong nền kinh tế hiện nay khoa học và công nghệ trở thành lực
lượng SX trực tiếp. Các ứng dụng tiến bộ khoa học tạo điều kiện mở rộng
khả năng phát hiện, khai thác và nâng cao hiệu quả đưa vào sử dụng các
nguồn lực. Khoa học và công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm có chất
12
lượng cao, số lượng lớn và giá thành thấp, do đó có sức cạnh tranh mạnh trên
thị trường. Kết quả là biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu thay thế
nhập khẩu, hội nhập KT – XH với khu vực và trên thế giới.
Nhờ vào máy móc, công nghệ, của cải vật chất làm ra ngày càng
nhiều, qui mô SX ngày càng lớn đòi hỏi trình độ lao động ngày càng có chất
xám, phân công lao động trở nên sâu sắc hơn, phân chia thành nhiều ngành
nhỏ, xuất hiện nhiều ngành, lĩnh vực mới. Từ đó, làm thay đổi cơ cấu, vị trí
giữa các ngành, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao, làm cho nền
kinh tế dịch chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu.
Các nước trên thế giới hiện đang có xu hướng phát triển các công nghệ
mới nhằm mục đích tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo mẫu
mã, chất lượng tốt hơn, đồng thời giảm chi phí SX, tiết kiệm các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, tránh ô nhiễm môi trường. Từ đó hàng hóa sẽ có tính
cạnh tranh cao, tạo ra sự ổn định trong phát triển kinh tế.
c. Vốn đầu tư và thị trường
* Vốn đầu tư: Là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của bất kì quá
trình SX kinh doanh nào. Vốn đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng, vừa
tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử
dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu
quả đầu tư, tăng năng suất, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH – HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế từ đó nâng cao
chất lượng tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư còn có tác dụng giải quyết những
vấn đề mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém
phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy được những lợi thế để phát
triển nhanh hơn nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, tạo
nên sự tiến bộ chung cho cả đất nước.
Vốn đầu tư được xét ở hai loại: vốn trong nước và vốn ngoài nước. Đối
với các nước đang phát triển và các nước kém phát triển, nguồn vốn trong
nước có ý nghĩa quyết định chính trong phát triển kinh tế. Sự phong phú và
quy mô lớn của nguồn vốn trong nước sẽ là điều kiện để đầu tư, xây dựng,
13
hình thành các ngành kinh tế, nhập kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước
ngoài phục vụ SX, ngoài ra còn có thể tham gia vào thị trường đầu tư quốc tế
nhằm tạo ra lợi nhuận cho đất nước từ bên ngoài lãnh thổ. Còn với nguồn vốn
từ nước ngoài (như vốn FDI, ODA ) được sử dụng để đầu tư cho phát triển,
tạo điều kiện để khai thác hiệu quả tiềm năng của đất nước, góp phần đẩy
mạnh phát triển kinh tế trong nước. Việt Nam đang trong giai đoạn CNH –
HĐH nên nhu cầu về vốn cho quá trình phát triển KT rất lớn. Nguồn vốn tác
động rất lớn đến tăng trưởng, tạo nhiều việc làm, tăng tích lũy vốn cho nền
kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải phân bố và sử dụng chúng một cách
có hiệu quả
* Thị trường: Là cầu nối giữa SX và tiêu dùng, là yếu tố đảm bảo khâu
tiêu dùng, xuất nhập, giá cả và tạo ra nhu cầu mới, giúp cho quá trình tái SX
diễn ra không ngừng. Trong nền thương mại toàn cầu hóa ngày nay, cùng với
các yếu tố khác, thị trường có vai trò quyết định đến quy mô, cơ cấu loại hình
hàng hóa SX của các quốc gia, khu vực trên thế giới. Thị trường là yếu tố
hướng dẫn và điều tiết SX cho các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Thị
trường được xem xét ở hai dạng: thị trường cung cấp nguồn nguyên, nhiên
liệu, vật tư phục vụ SX và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thực tế cho thấy,
nước nào có quan hệ kinh tế rộng, hàng hoá phong phú và được tiêu thụ ở
nhiều quốc gia thì quy mô SX có điều kiện mở rộng, tạo nhiều công ăn việc
làm cho người lao động, giá trị lợi nhuận tăng, thông qua đó các giá trị văn
hoá tinh thần của quốc gia này cũng có điều kiện phổ biến ra thế giới. Quốc
gia nào có quy mô thị trường lớn, nhu cầu hàng hoá nhiều là một lợi thế trong
việc mở rộng hợp tác, thu hút đầu tư, khoa học công nghệ của các nước trên
thế giới.
d. Kết cấu hạ tầng
“Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc
đóng vai trò nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế, xã hội được diễn ra
một cách bình thường” [5].
14
Kết cấu hạ tầng là nền tảng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong
quá trình phát triển KT của mỗi quốc gia cũng như mỗi vùng lãnh thổ, tạo
động lực cho sự phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện
đại sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững, nâng cao
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội,
ngược lại một hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối
với sự phát triển.
e. Đường lối chính sách
Đường lối chính sách là yếu tố mang tính quyết định đến sự thành công
hay không của chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của các nước trên thế
giới. Trong đó, đường lối chính sách thể hiện là một yếu tố độc lập tương đối,
đồng thời là một yếu tố tác động đến các yếu tố khác. Chính sách có tác dụng
giải phóng và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng SX. Nó tác động đến việc
khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Các chiến
lược, chính sách hay quy hoạch phát triển KT là sự định hướng phát triển cho
các ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ. Mỗi giai đoạn, trên cơ sở các điều kiện
tác động, chính sách sẽ đề ra những ưu tiên phát triển kinh tế cho một số
ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ theo hướng tạo ra sự bứt phá, tạo động lực
phát triển cho các vùng và cả nước. Chính sách là một công cụ có hiệu quả
trong việc điều chỉnh sự phát triển nền kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế hợp
lý và hiệu quả.
Trên thế giới ở mỗi quốc gia, mỗi thời điểm đều có đường lối chính
sách phát triển KT riêng, không giống nhau do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế xã
hội khác nhau. Quốc gia nào có đường lối, chính sách đúng đắn sẽ tập hợp
được mọi nguồn lực (trong và ngoài nước) phục vụ cho mục tiêu phát triển;
có chính trị ổn định, đường lối đối ngoại rõ ràng và rộng mở sẽ tạo thuận lợi
cho đất nước phát triển kinh tế. Ở nước ta bước đầu có sự thành công về
đường lối chính sách phát triển kinh tế và hiện nay đang đẩy mạnh thực hiện
15
quá trình CNH – HĐH để đưa Việt Nam cơ bản thành một nước công nghiệp
vào năm 2020.
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế
1.1.3.1. Các tiêu chí chung
- Tổng sản phẩm trong nước: (GDP - Gross Domestic Product) là tổng
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng mà một nền kinh tế tạo ra
bên trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia, không phân biệt do người trong
nước hay người nước ngoài làm ra trong một thời gian nhất định (thường là
một năm tài chính).
GDP thường được sử dụng để phân tích cơ cấu kinh tế, mối quan hệ tỷ
lệ giữa các ngành trong SX, mối quan hệ giữa kết quả SX với phần huy động
vào ngân sách. Chỉ tiêu này còn dùng để tính tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế, nghiên cứu sự thay đổi về khối lượng hàng hóa, dịch vụ SX. Ngoài ra còn
dùng để đánh giá trình độ phát triển và mức sống của con người.
- Tổng thu nhập quốc gia: (GNI - Gross National Income) là tổng thu
nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một quốc
gia tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm tài
chính). GNI = GDP + thu nhập nhân tố từ nước ngoài – chi trả lợi tức nhân tố
cho nước ngoài.
GNI lớn hay nhỏ hơn GDP tùy thuộc mối quan hệ kinh tế (đầu tư vốn,
lao động…) giữa một nước với nhiều nước khác. Những quốc gia có vốn đầu
tư ra nước ngoài cao thì GNI lớn hơn GDP. Ngược lại, những nước đang tiếp
nhận đầu tư nhiều hơn là đầu tư ra nước ngoài sẽ có GDP lớn hơn GNI.
- GNI và GDP bình quân đầu người: Để so sánh mức sống của dân cư
ở các nước khác nhau, người ta thường dùng các chỉ số GDP và GNI bình
quân đầu người. GNI/đầu người và GDP/đầu người được tính bằng GNI và
GDP chia cho tổng số dân ở một thời điểm nhất định. Chỉ số GNI/người và
16
GDP/người phản ánh trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia và được coi
là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng cuộc sống.
- Tốc độ tăng GDP hằng năm (%): phản ánh năng lực cạnh tranh và
phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Duy trì tốc độ tăng
trưởng cao trong thời gian dài (5 – 15 năm) được coi là chỉ số phản ánh sự
thành công của chính sách kinh tế và sự bền vững của nền kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu nền kinh tế được xem xét ở 3 góc độ:
+ Cơ cấu kinh tế theo ngành: Ở góc độ ngành được chia thành các
nhóm ngành: Nhóm ngành N – L – TS (khu vực I), công nghiệp - xây dựng
(khu vực II) và nhóm ngành dịch vụ (khu vực III), phản ánh số lượng, vị trí,
tỷ trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế.
+ Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ: Góc độ lãnh thổ cho thấy cơ cấu kinh
tế theo vùng lãnh thổ, phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm
lực KT của các vùng phục vụ cho mục đích phát triển nền kinh tế. Mỗi cấp
lãnh thổ đều có cơ cấu kinh tế lãnh thổ của nó. Nếu được tổ chức, các mối
quan hệ giữa các cấp phân vị lãnh thổ sẽ tạo nên mối quan hệ ngang rất chặt
chẽ đảm bảo cho toàn bộ các hoạt động trong mỗi lãnh thổ và giữa các lãnh
thổ thống nhất, cân đối hài hoà để phát triển một cách nhịp nhàng, có hiệu
quả.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế (góc độ sở hữu): Là tương quan tỉ lệ giữa
các thành phần kinh tế tham gia vào các ngành, lĩnh vực hay các bộ phận hợp
thành nền kinh tế. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ chức
SX kinh doanh của mọi thành viên xã hội. Một nền kinh tế thường có nhiều
hình thức sở hữu khác nhau, ở đó có loại hình kinh tế có ý nghĩa quyết định
đối với nền kinh tế và từ đó thể hiện rõ quan điểm, xu hướng phát triển kinh
tế. Trong điều kiện toàn cầu hóa việc phân định các loại hình kinh tế là rất
quan trọng, có tác dụng thúc đẩy, mở rộng sự phát triển kinh tế chung.
1.1.3.2. Các tiêu chí cho cấp huyện
- Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross output): Là tổng giá trị sản phẩm
vật chất và dịch vụ được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ cấp huyện trong một
17
thời kì nhất định (thường là một năm). GO được tính bằng giá trị tăng thêm
(VA) cộng với chi phí trung gian.
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất (GTSX): Là giá trị đo lường, thể hiện ở
mặt định lượng tăng trưởng kinh tế của lãnh thổ ở quy mô cấp huyện và
tương đương.
- Cơ cấu giá trị sản xuất:
+ GTSX theo ngành kinh tế bao gồm giá trị của SX N – L – TS, công
nghiệp và xây dựng, dịch vụ GTSX theo các ngành kinh tế là một trong các
chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của một nền kinh tế cấp huyện.
+ GTSX theo lãnh thổ (tiểu vùng) biểu thị tương quan tỷ lệ giữa các
tiểu vùng trong huyện, thị. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá, so sánh sự phát
triển kinh tế giữa các tiểu vùng, từ đó xác định được các sản phẩm đặc trưng,
hướng chuyên môn hóa của từng khu vực. Mặt khác, cơ cấu lãnh thổ theo
từng ngành kinh tế: NN, công nghiệp còn cho phép khai thác tối đa những lợi
thế so sánh của các nguồn lực trong lãnh thổ.
- Giá trị sản xuất/người: Là chỉ số phản ánh sự phát triển kinh tế nói
chung và việc nâng cao mức sống của người dân nói riêng. Nếu quy mô, tốc
độ tăng trưởng của GTSX/người ngày càng cao thì lãnh thổ đó càng thể hiện
sự phát triển nền kinh tế ngày càng ổn định và bền vững theo hướng công
nghiệp hóa. Ngoài ra, GTSX/người còn là chỉ tiêu để so sánh mức sống dân
cư giữa các địa phương với nhau.
GTSX/người được tính bằng GTSX chia cho tổng số dân của địa
phương trong cùng 1 thời gian (1 năm).
- Năng suất lao động: Để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, chủ
yếu phải nâng cao năng suất lao động.
Năng suất lao động thể hiện kết quả hoạt động sản xuất có ích của con
người trong một đơn vị thời gian nhất định. Năng suất lao động phản ánh
hiệu quả sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất và được biểu hiện
bằng số lượng sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian lao động hoặc
bằng lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Quan niệm
18
truyền thống về năng suất chủ yếu là hướng vào đầu vào, tập trung hướng
vào các yếu tố đầu vào như lao động, vốn trong đó lao động sống là yếu tố
trung tâm. Vì vậy, ở nhiều nước, nhiều khi người ta đồng nhất năng suất với
năng suất lao động. Năng suất được hiểu rộng hơn, như là một chỉ tiêu tổng
hợp phản ánh hiệu quả KT. Tăng năng suất lao động là sự thay đổi trong cách
thức lao động, một sự thay đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra một hàng hoá, sao cho số lượng lao động ít hơn mà lại có
được sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn.
1.1.4. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
1.1.4.1. Hộ gia đình
Nhìn chung ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam, người ta thừa nhận
“hộ” là “gia đình” và “kinh tế hộ” là “kinh tế gia đình”. Hộ là một đơn vị KT
- XH tự chủ cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng mà ở các đơn vị KT
khác không thể có được. Hộ là một tế bào của xã hội với sự thống nhất của
các thành viên có cùng huyết tộc, mà mỗi thành viên đều có nghĩa vụ và trách
nhiệm làm tăng thu nhập, đảm bảo sự tồn tại. Hộ còn là một đơn vị sản xuất
và tiêu dùng.
Hộ gia đình là hình thức vốn có của sản xuất nhỏ, tồn tại phổ biến ở
các nước đang phát triển thuộc Châu Á, trong đó có Việt Nam. Các thành
viên trong hộ gia đình có mối quan hệ gắn bó về huyết thống cũng như về
kinh tế, cùng chung sống trong một mái nhà, cùng tiến hành sản xuất và có
chung một nguồn thu nhập.
* Các đặc điểm cơ bản của hộ gia đình:
- Về đất đai, qui mô canh tác nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông.
Ở Ấn Độ, bình quân diện tích đất canh tác < 2ha/hộ, ở Philippin < 3ha, ở Việt
Nam từ 0,5ha (ở miền Bắc), đến 0,6 - 1ha ở đồng bằng sông Cửu Long.
- Về vốn, đại bộ phận rất ít, qui mô thu nhập nhỏ, khả năng tích luỹ
thấp làm hạn chế khả năng đầu tư tái sản xuất. Vật tư được mua phục vụ cho
sản xuất từ tiền bán nông phẩm.
19
- Về lao động, chủ yếu sử dụng lao động gia đình. Sức lao động của
nông hộ không phải hàng hoá, mà là tự phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của
gia đình.
- Kỹ thuật canh tác và công cụ sản xuất ít biến đổi, mang nặng tính
truyền thống.
- Qui mô sản xuất (đất đai, vốn, lao động) rất nhỏ bé.
Đối với các nước đang phát triển, hộ gia đình đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo tồn xã hội, phát triển kinh tế nông thôn, là cơ sở đảm bảo cho
kinh tế tập thể tồn tại và thúc đẩy nông thôn quá độ tiến lên một trình độ cao
hơn: nông thôn sản xuất hàng hoá.
1.1.4.2. Trang trại
Trang trại có nguồn gốc từ hộ gia đình được phát triển dần dần trong
quá trình chuyển dịch của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc sang nền kinh tế
hàng hoá. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cao hơn hộ gia đình, là sự
phát triển tất yếu của nền nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá.
Chính công nghiệp hoá đã tạo ra yêu cầu khách quan cho việc phát triển sản
xuất nông sản hàng hoá, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại hình thành và
phát triển.
Trang trại là kết quả tất yếu của hộ gia đình gắn với sản xuất hàng hoá,
là hình thức tiến bộ của sản xuất nông nghiệp thế giới. Trang trại xuất hiện
lần đầu tiên ở các nước Tây Âu gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất, sau đó phổ biến ở tất cả các nước công nghiệp Châu Âu, Bắc Mỹ,
rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc và hiện nay xuất hiện ở nhiều nước đang
tiến hành công nghiệp hoá thuộc khu vực Nam Á, Đông Nam Á, trong đó có
Việt Nam.
Hoạt động của kinh tế trang trại chịu sự chi phối của nền kinh tế thị
trường và tuân theo qui luật cung cầu, chấp nhận cạnh tranh.
* Các đặc điểm nổi bật của trang trại:
20
- Mục đích chủ yếu của trang trại là sản xuất nông phẩm hàng hoá theo
nhu cầu của thị trường. Đây là bước tiến bộ từ kinh tế hộ tự cấp tự túc lên các
hộ nông nghiệp hàng hoá.
- Tư liệu sản xuất (đất đai) thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
của một người chủ độc lập.
- Qui mô đất đai tương đối lớn, tuy có sự khác nhau giữa các nước. Ở
Hoa Kỳ là 180ha, ở Anh 71ha, Pháp 29ha, Nhật 1,38ha, Việt Nam 6,3ha.
- Cách thức tổ chức sản xuất tiến bộ, đẩy mạnh chuyên môn hoá, tập
trung vào những nông sản có lợi thế so sánh và khả năng sinh lợi cao hơn và
vào việc thâm canh (đầu tư tương đối lớn về vốn, công nghệ, lao động trên
một đơn vị diện tích).
- Các trang trại đều có thuê mướn lao động.
Ở Việt Nam, trang trại mới phát triển từ đầu thập niên 90 của thế kỉ
XX, song đã tạo ra những biến chuyển mới trong nông nghiệp, nông thôn, tạo
điều kiện để nông nghiệp nước ta chuyển nhanh sang sản xuất hàng hoá.
Trang trại có vai trò to lớn trong sản xuất nông nghiệp ở các nước phát
triển bởi vì phần lớn nông phẩm cung cấp cho xã hội được sản xuất ra từ các
trang trại. Còn tại các nước đang phát triển, vai trò tích cực và quan trọng của
trang trại thể hiện rõ nét ở cả ba mặt: kinh tế (phát triển cây trồng vật nuôi có
giá trị hàng hoá cao, tạo nên vùng chuyên môn hoá, tập trung hàng hoá ), xã
hội (tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động) và môi trường (sử
dụng hiệu quả tài nguyên đất, trồng rừng và bảo vệ rừng, cải tạo và bảo vệ
môi trường sinh thái).
1.1.4.3. Vùng chuyên canh
Đây là vùng chuyên trồng một hoặc nhiều loại cây có thế mạnh dựa
trên những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, lao động, thị trường tiêu thụ. Tại
các vùng chuyên canh, lương thực thực phẩm được đảm bảo, có nhiều chính
sách ưu tiên. Ở nước ta đã xuất hiện nhiều vùng chuyên canh như: cây công
nghiệp ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên; rau ở bằng sông Hồng; cây lương thực
ở đồng bằng sông Cửu Long…
21
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Tổng quan về phát triển kinh tế của vùng Bắc Trung Bộ
1.2.1.1. Khái quát
Bắc Trung Bộ là vùng lãnh thổ chạy dài trên nhiều vĩ độ gồm 6 tỉnh
(Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế).
Vùng có diện tích 51.461,1 km
2
, chiếm 15,5% diện tích cả nước và dân số
10.145,6 nghìn người, chiếm 11,6% dân số cả nước (năm 2011). Địa hình
của vùng tương đối phức tạp với trên 60% diện tích là đồi núi và có sự đa
dạng của các kiểu địa hình. Từ Tây sang Đông dọc theo lãnh thổ các tỉnh có
các dạng địa hình núi, trung du, đồng bằng ven biển và hải đảo. Đất đai chủ
yếu là đất cát pha nghèo dinh dưỡng. Hệ thống sông Mã, sông Cả có giá trị
về thuỷ lợi, tiềm năng thuỷ điện và giao thông (hạ lưu). Khí hậu nhiệt đới ẩm
gió mùa với chế độ nhiệt ẩm dồi dào, có sự phân hóa theo chiều Bắc - Nam,
Tây - Đông và theo độ cao. Dãy Trường Sơn Bắc vào mùa hè còn có hiện
tượng gió phơn Tây Nam thổi mạnh, thời tiết nóng, khô. Rừng có diện tích
tương đối lớn, tập trung chủ yếu ở phía Tây biên giới Việt - Lào. Khoáng sản
gồm: sắt Thạch Khê, crôm Cổ Định, thiếc Quỳ Hợp, đá vôi Thanh Hóa… có
giá trị lớn về mặt công nghiệp.
1.2.1.2. Quy mô và tốc độ tăng trưởng
Nhiều năm qua, vùng Bắc Trung Bộ đang được sự quan tâm lớn của
Đảng và Nhà nước về mọi mặt. Do vậy, nền kinh tế Bắc Trung Bộ đã đạt
được những tiến bộ vượt bậc, tăng trưởng khá nhanh. Quy mô GDP toàn
vùng từ 28.658 tỉ đồng (giá thực tế) năm 2000 lên 57.129 tỉ đồng năm 2005
và đạt 150.707,1 tỷ đồng năm 2010; đóng góp 6,8% GDP cả nước.
22
Biểu đồ 1.1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP Bắc Trung Bộ
giai đoạn 2000 – 2010
(Nguồn: Lê Thông, Nguyễn Quý Thao (Đồng chủ biên), (2012), Việt
Nam – Các vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm. NXB Giáo dục Việt
Nam).
Tốc độ tăng trưởng của vùng trong những năm gần đây đạt ở mức khá
cao, trung bình khoảng 10%/năm. Trong đó, mức tăng trung bình của N – L –
NN là 5,1%, của công nghiệp – xây dựng là 14%, và của dịch vụ là 10%. Tuy
nhiên, tốc độ này có sự khác nhau giữa các giai đoạn. Giai đoạn 2001 – 2005,
tốc độ tăng trưởng đạt 10%. Giai đoạn 2006 - 2010 là 10,5%. Nhìn chung, quy
mô nền kinh tế của vùng vẫn còn nhỏ, chưa có tích luỹ, so với cả nước cũng
chỉ ở mức khiêm tốn.
Do GDP tăng trưởng khá, tốc độ tăng dân số đã tương đối ổn định
nên GDP bình quân đầu người theo từng tỉnh cũng như toàn vùng không
ngừng được tăng lên, từ 2,9 triệu đồng năm 2000 lên 5,7 triệu đồng năm
2005 và 14,9 triệu đồng năm 2010. Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người
của vùng chỉ bằng 65,4% (2010) mức trung bình cả nước. Cho đến nay Bắc
Trung Bộ vẫn là vùng kinh tế còn nhiều khó khăn.
23
1.2.1.3. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế theo ngành vùng Bắc Trung Bộ đang có sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế tích cực theo hướng CNH, HĐH. Tỉ trọng khu vực N – L
– TS giảm tương đối nhanh, từ 40,5% năm 2000 xuống còn 32,8% năm
2005 và 25,2% năm 2010. Tỉ trọng ngành công nghiệp – xây dựng tăng lên
mạnh, năm 2000 khu vực này mới chiếm 22,5% thì đến năm 2010 đã tăng
lên đến 37,5%, và khu vực dịch vụ tăng tương ứng là 37,0% và 37,3%.
Biểu đồ 1.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bắc Trung Bộ
giai đoạn 2000 – 2010
(Nguồn: Lê Thông, Nguyễn Quý Thao (Đồng chủ biên), (2012), Việt
Nam – Các vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm. NXB Giáo dục Việt
Nam).
Khu vực kinh tế có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của vùng
Bắc Trung Bộ là N – L – NN. GTSX của ngành năm 2000 đạt 12.140,3 tỷ
đồng chiếm 8,7% GTSX N – L – NN của cả nước, đến năm năm 2010 tăng
lên 17.939,4 tỷ đồng, chiếm 7,6%. Trong nội bộ cơ cấu ngành NN cũng có
sự chuyển dịch khá rõ nét: Tỷ trọng ngành trồng trọt có xu hướng giảm từ
71,9% năm 2000 xuống còn 63,9% năm 2010. Tỷ trọng ngành chăn nuôi
24
tăng từ 24,9% năm 2000 lên 33,2% năm 2010, khu vực dịch vụ NN tăng
tương ứng là 3,2% và 2,9%. Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp đã phát huy
được tính đa dạng; cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng
khai thác lợi thế kinh tế biển; nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản đã phát
huy hiệu quả.
Là khu vực có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp, nên trong
những năm qua, ngành công nghiệp của vùng Bắc Trung Bộ cũng có những
bước phát triển mạnh mẽ. GTSX công nghiệp toàn vùng đạt 8.384,6 tỷ đồng
(giá thực tế) năm 2000 lên 23.580,8 tỷ đồng năm 2005 và 69.995,6 tỷ đồng
năm 2010, tăng gấp 8,2 lần so với năm 2000 và chiếm 2,3% GTSX CN cả
nước (Nguồn: Lê Thông, Nguyễn Quý Thao (Đồng chủ biên), (2012), Việt
Nam – Các vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm. NXB Giáo dục Việt
Nam). Trong đó, Thanh Hóa chiếm 32,5% GTSX CN toàn vùng. Tính đến
9/2011, toàn vùng Bắc Trung Bộ đã có 18 khu công nghiệp và 243 dự án FDI
với số vốn lên tới 19,9 tỷ USD, bằng 10% tổng số vốn của hơn 13.000 dự án
FDI trong cả nước. Nhiều tập đoàn kinh tế lớn đầu tư vào Bắc Trung Bộ như:
Hồng Hà (Trung Quốc), Posco (Hàn Quốc), Formosa (Đài Loan).
Ngành dịch vụ đang được ưu tiên phát triển ở Bắc Trung Bộ, đóng góp
37,5% trong GDP (2010). Các ngành dịch vụ quan trọng nhất là giao thông
vận tải, thông tin liên lạc, thương mại và du lịch. Trong đó, đáng chú ý nhất
là ngành du lịch với tốc độ phát triển rất nhanh. Lượng khách du lịch của
vùng năm 2000 mới chỉ có gần 1,8 triệu lượt người, đến năm 2010 đã tăng
lên 9,65 triệu lượt người (trong đó khách quốc tế chiếm 7,6%). Trong giai
đoạn 2001 - 2010, lượng khách quốc tế đến vùng tăng 4 lần, khách nội địa
tăng 5 lần; số lượng cơ sở lưu trú và buồng lưu trú tăng 3 lần. Du lịch đã tạo
việc làm cho 3 vạn lao động và thu nhập du lịch tăng lên 9 lần. Năm 2010
doanh thu từ ngành du lịch trong toàn vùng đạt 3864 tỷ đồng (chiếm 3,8%
doanh thu du lịch của cả nước). Ngành thương mại mặc dù còn gặp nhiều khó
khăn những đã có những chuyển biến rõ nét về cán cân, thị trường, các mặt
25