Tải bản đầy đủ (.doc) (241 trang)

Thể loại TỪ trong văn học trung đại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 241 trang )

MỤC LỤC
Tài liệu tham khảo tiếng Việt: 158
i
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử văn học ở mức độ nhất định có thể hiểu là lịch sử của các thể loại văn
học. Do đó, nghiên cứu các thể loại văn học có thể góp phần soi sáng tiến trình lịch
sử văn học dân tộc. Gần đây, hướng nghiên cứu văn học trung đại theo thể loại được
giới nghiên cứu trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm, đã xuất hiện nhiều công
trình, luận án nghiên cứu về các thể loại văn học trung đại như tiểu thuyết chữ Hán,
tiểu thuyết chương hồi, truyện thơ Nôm, thể kí trung đại Tuy nhiên, đối với thể
loại từ, đến thời điểm này mới chỉ có những nghiên cứu, mô tả bước đầu, đôi khi
còn nhiều nhầm lẫn, chưa đủ để mường tượng về sự vận động và phát triển cũng
như đóng góp của thể loại này trong văn học trung đại Việt Nam.
Từ là thể loại văn học có nguồn gốc Trung Quốc. Trong văn học Trung Quốc, đây
là thể loại quan trọng, nhiều thành tựu, đồng thời có ảnh hưởng đối với văn học các
nước Đông Á. Nghiên cứu thể loại từ trong văn học trung đại Việt Nam một mặt có thể
thấy rõ vị trí và sự đóng góp của nó cho văn học dân tộc, từ đó soi sáng thêm cho tiến
trình văn học sử; mặt khác, xem xét thể loại từ Việt Nam trong sự đối sánh với thể loại
này ở Trung Quốc và các nước Đông Á khác là hướng mở, không những có thể góp
phần làm sáng tỏ quy luật tiếp thu, kế thừa, sáng tạo của văn học dân tộc mà còn giúp
nhìn nhận nền văn học quá khứ của dân tộc trong những tương quan rộng hơn.
Vì những lí do đó, người viết chọn “Thể loại từ trong văn học trung đại Việt
Nam” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án tổng thuật, nghiên cứu một cách tổng quan về thể loại từ ở Trung
Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, xem đó như một “bối cảnh rộng” để mường tượng,
định vị, so sánh với thể loại từ tại Việt Nam.
Đối với thể loại từ tại Việt Nam, luận án sưu tầm, giám định các văn bản có
ghi chép tác phẩm từ hiện còn, làm rõ tính chân ngụy của tác phẩm, phân định rõ về
1


tác quyền cũng như niên đại tác phẩm; trên cơ sở đó tổng kết thành tựu sáng tác từ
ở Việt Nam thời trung đại.
Tiến hành phân kì từ sử Việt Nam, đồng thời nghiên cứu đặc điểm của thể loại
từ Việt Nam qua các thời kì.
Người viết có ý hướng triển khai luận án như một công trình khảo cứu -
nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về từ sử Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu các tác phẩm từ do các tác giả Việt Nam thời
trung đại sáng tác được ghi chép lại qua các thư tịch Hán Nôm hiện còn và qua tư
liệu điền dã. Trong trường hợp tác phẩm hiện không còn trong các sách Hán Nôm
tại Việt Nam, song vẫn được bảo lưu trong các tư liệu hải ngoại thì lấy các tư liệu
hải ngoại để bổ khuyết (như trường hợp Cổ duệ từ của Miên Thẩm).
Khái niệm “trung đại” được dùng trong luận án này giới hạn thời gian từ thế
kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Do vậy, các tác phẩm từ xuất hiện sau đó, như trong các
sách chữ quốc ngữ và báo chí đầu thế kỉ XX (chẳng hạn trên Nam Phong tạp chí số
9, 10, tháng 4 năm 1918; số 11, tháng 5 năm 1918…) không thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận án này.
Luận án lấy tác giả tác phẩm từ Việt Nam thời trung đại làm trọng điểm nghiên
cứu. Trong khi nghiên cứu, người viết tiến hành so sánh từ Việt Nam với từ ở Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc ở mức độ nhất định.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các sáng tác từ Việt Nam thời trung đại hiện nằm rải rác trong nhiều thư tịch
Hán Nôm khác nhau. Hiện trạng tồn bản của chúng hết sức phức tạp: có sách là văn
bản ngụy tạo, có sách chép lẫn tác phẩm từ của Trung Quốc, có sách nhầm lẫn về
niên đại, tác giả, ghi chép tàn khuyết, chép nhầm từ điệu… Vấn đề đặt ra là: trong
giai đoạn trung đại (như đã giới hạn về mốc thời gian cụ thể), có bao nhiêu tác giả
Việt Nam sáng tác theo thể từ, số lượng tác phẩm ra sao, phân loại thế nào… Để giải
quyết vấn đề đó, trước hết, người viết ứng dụng phương pháp văn bản học Hán
2
Nôm cùng với các phương pháp tương cận như biện ngụy học, khảo chứng học,

hiệu thù học… để đối chiếu, giám định, xác minh văn bản.
Sau khi đã xác minh được vấn đề tác quyền của các tác phẩm, niên đại tác
phẩm, tiến hành hiệu khám, hiệu thù… người viết xác lập từ sử Việt Nam. Tiến thêm
một bước, áp dụng loại hình học để nghiên cứu về loại hình tác giả, chú ý ở các
phương diện trình độ học vấn, địa vị xã hội, khả năng tiếp xúc với thể loại từ Trung
Quốc, sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các tác giả, động cơ sáng tác và quan
niệm từ học của họ…
Đối với các tác phẩm từ, người viết áp dụng từ chương học, thi pháp học, phong
cách học để nghiên cứu chúng từ nhiều phương diện khác nhau như mức độ tuân thủ từ
luật, các dạng thức biến thể của tác phẩm từ Việt Nam, quy trình lập ý, ngôn ngữ,
phong cách từ học…. Từ đó làm rõ các đặc điểm của thể loại từ Việt Nam thời trung đại
cùng những đóng góp cụ thể của thể loại này vào kho tàng văn học dân tộc.
Trong khi phân tích, giải mã tác phẩm, luận án tham khảo các nghiên cứu, phê
bình tác phẩm từ thời cổ trung đại như các quan niệm về bản sắc thể loại của Lí
Thanh Chiếu, “dĩ thi vi từ” của Tô Đông Pha, “dĩ văn vi từ” của Tân Khí Tật,
“cảnh giới nghệ thuật” của Vương Quốc Duy… đồng thời căn cứ vào nguồn ảnh
hưởng đến việc tác từ của từng tác giả cụ thể để tiếp cận quan điểm thẩm mĩ của từ
nhân và phong cách nghệ thuật của tác phẩm.
Ứng dụng phương pháp luận nghiên cứu văn học sử để xác định vị trí, vai trò
của đối tượng nghiên cứu trong bối cảnh văn hóa, văn học đương thời và trong tiến
trình lịch sử văn học.
Bên cạnh các phương pháp trên, luận án còn sử dụng các phương pháp khác
như thống kê phân loại, văn hóa học, so sánh văn học, v.v…
5. Một số khái niệm, thuật ngữ chính được sử dụng trong luận án
Bản sắc (本色): hay bản sắc đương hàng (當行本色), chỉ đặc trưng âm nhạc,
trữ tình, dụng điển… của từ, phân biệt với thơ ca.
3
Bi mĩ (悲美): cái bi trong từ, thiên về tình buồn, sử dụng nhiều từ ngữ mang
tâm trạng buồn, coi đó như một đặc trưng về cảm xúc và ngôn ngữ thể loại.
Biến cách (變格): hay biến thể (變体), các thể thức khác ngoài chính thể.

Biệt thị nhất gia (別是一家): quan niệm coi từ là thể loại phân biệt với thơ ca,
ngang hàng với thơ ca.
Cảnh giới (境界): hay cảnh giới nghệ thuật, vừa là ý cảnh, vừa là tâm cảnh
được thể hiện thông qua tác phẩm từ.
Chính thể ( 正 体 ): Một điệu từ có thể có nhiều dạng thức không hoàn toàn
tương đồng. Chính thể, hay chính cách (正格), là dạng thức cách luật chính thức
(được xem là chuẩn thức) của một bài từ, được ghi nhận trong các sách về từ phổ,
đồ phổ, từ luật.
Chương pháp (章法): Trình tự triển khai một bài từ, bố cục tổng thể của một bài từ.
Cô điệu (孤調): điệu thức chỉ được sử dụng một lần duy nhất trong từ sử.
Cú thức (句式): kiểu câu trong từ. Trong từ sử dụng 11 kiểu câu, từ câu 1 chữ
đến câu 11 chữ.
Dĩ thi vi từ (以詩体詞): lấy thơ làm từ, chỉ việc sử dụng các thủ pháp nghệ
thuật của thơ áp dụng sang lĩnh vực điền từ.
Dĩ văn vi từ (以文体詞): lấy văn làm từ, chỉ việc áp dụng chất liệu, các thủ
pháp của văn (văn ngôn) sang lĩnh vực điền từ.
Diễm khoa (体科): quan điểm coi từ là văn học giải trí trước chén dưới trăng
(樽前月下-tôn tiền nguyệt hạ), ca đài vũ tạ (歌臺舞謝), coi trọng cái đẹp về ngôn từ,
sự miêu tả nữ sắc, lấy mĩ nữ làm hình tượng nhân vật chính yếu trong tác phẩm từ.
Diễm mĩ (体美): sự mô tả về nữ sắc, cảnh đẹp, lối chuộng dùng mĩ từ trong từ.
Dụng sự (用事): cũng như dụng điển (用典), chỉ cách sử dụng điển tích, điển
cố trong từ.
4
Điền từ (体詞): cũng như tác từ, chỉ việc sáng tác theo thể loại từ, có thể là
dựa vào nhạc phổ để điền lời, có thể là dựa vào khung cách luật (đồ phổ) hay trước
tác của từ nhân đi trước để điền lời.
Khuyết (闕): chỉ bài từ (trong trường hợp bài từ chỉ có một đoạn), hoặc chỉ một
đoạn trong một bài từ (trong trường hợp bài từ có nhiều đoạn như loại song điệu 雙
調 - 2 đoạn, tam điệp 三疊 - 3 đoạn…).
Lãnh cú (領句): hay lãnh cú tự (領句字), chỉ 1, 2, 3, hoặc một số chữ trong

câu có vai trò dẫn khởi ý nghĩa của câu, hoặc của đoạn trong bài từ.
Liên chương từ (連章詞): Dạng từ được hình thành do sự kết nối từ nhiều bài
khác nhau.
Mạn từ (慢詞): chỉ các bài từ dài. Trong luận án, khái niệm này dùng thông
với khái niệm trường điệu (長調).
Phân cương (分疆): hay thi từ phân cương (詩詞分疆), chỉ sự khác biệt giữa thơ
và từ về thể thức, phạm vi đề tài, hình tượng nhân vật chính, các thủ pháp nghệ thuật…
cùng thái độ coi thơ là mạnh mẽ, tao nhã, tôn quý… coi từ là thấp kém, ủy mị như: thi
trang từ tục (詩莊詞俗), thi nhã từ tục (詩雅詞俗), thi tôn từ ti (詩尊詞卑)…
Phiến (片): một đoạn trong một bài từ. Trong từ, phân chia theo phiến gồm 4
loại: đơn phiến (單片, dùng thông với đơn điệu, gồm 1 đoạn), song phiến (雙片,
dùng thông với song điệu, chỉ các bài từ gồm 2 đoạn), tam điệp (三疊, chỉ các bài
từ gồm 3 đoạn), tứ điệp (四疊, chỉ các bài từ gồm 4 đoạn).
Quá phiến (過片): hay quá biến (過變), câu khởi đầu của đoạn thứ 2 trong
một bài từ hai đoạn (song phiến), có nhiệm vụ thừa tiếp ý của đoạn trên dẫn khởi
cho ý đoạn dưới.
5
Thi hóa (詩化): chỉ sự ảnh hưởng của thơ ca cũng như quan niệm thi giáo, thi ngôn
chí… đến từ, khiến từ từ thi dư (詩餘) có xu hướng dịch chuyển về địa hạt của thơ.
Tiểu đạo ( 小道): quan điểm cho từ là “cái đạo nhỏ nho”, bạc kĩ (薄 技 )…
không coi trọng thể loại từ.
Tiểu lệnh (小令), trung điệu (中調), trường điệu (長調): sự phân chia từ theo
độ dài tác phẩm, theo quan điểm của Cố Tòng Kính (顧從敬) thời Minh trong Loại
biên Thảo Đường thi dư (類編草堂詩餘): Tiểu lệnh gồm các bài từ dài 58 chữ trở
xuống, trung điệu: từ 59 chữ đến 90 chữ; trường điệu: từ 91 chữ trở lên.
Từ đề (詞題): nhan đề các bài từ, để khu biệt nội dung bài này với bài khác,
nhất là các bài cùng điệu do cùng một tác giả sáng tác.
Từ điệu (詞調): các điệu thức của từ, như: Nguyễn lang quy, Thập lục tự lệnh,
Mãn đình phương, Như mộng lệnh… Từ điệu cho biết cách luật của các bài từ.
Từ học (詞學): sử dụng theo hai hàm nghĩa: 1/ Chỉ thể loại từ nói chung, 2/

Chỉ những nghiên cứu về từ (như khởi nguyên của từ, từ nhạc, thể thức, từ luật…).
Từ luật (詞律): tức âm luật, hoặc cách luật của từ. Trong luận án, khái niệm
này về cơ bản dùng với hàm nghĩa là cách luật của từ.
Từ nhân (詞 人 ): cũng như từ gia ( 詞 家 ), chỉ người làm từ, tác giả từ nói
chung, không nhất thiết phải là từ gia lớn, tương tự như các thuật ngữ kiểu thi nhân,
thi gia.
Từ phái (詞派): các lưu phái từ, như phái Hoa gian, phái Uyển ước, phái Hào
phóng, phái Cách luật…
Từ phong (詞風): phong cách từ.
Từ phổ (譜): mang hai hàm nghĩa: 1/ Khi từ còn phụ thuộc vào âm nhạc, từ
phổ tức âm phổ (音譜), nhạc phổ (樂譜), là bản nhạc mà người làm từ sẽ dựa vào
6
đó để điền lời; 2/ Khi từ thoát li khỏi sự chi phối của âm nhạc, từ phổ chỉ đồ phổ (圖
譜), tức hệ thống khung cách luật của các điệu từ.
Từ sử (詞史): lịch sử thể loại từ, diễn tiến của thể loại từ trong lịch sử, bao
gồm cả phương diện sáng tác và lí luận từ học.
Từ thoại (詞話): những bàn luận, phê bình về từ.
Từ tự (詞序): chỉ chung lời tựa, lời dẫn của các bài từ.
Từ vận (詞韻): cách dùng vần trong thể loại từ, có sự phân biệt so với thơ ca,
nhất là thơ cận thể.
Tự độ khúc (自度曲): cũng gọi là tự chế khúc (自制曲), chỉ việc các tác giả tự
viết nhạc rồi điền lời vào bản nhạc đó để tạo ra điệu từ mới.
Ý cảnh (意境): chỉ sự mô tả hiện thực cuộc sống và sự biểu hiện tư tưởng, tình
cảm trong từ.
Trong luận án, các khái niệm, thuật ngữ từ học được in nghiêng để phân biệt
với các từ ngữ thông thường
1
.
6. Đóng góp mới của luận án
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu thành tựu nghiên cứu của giới nghiên cứu từ học

Nhật Bản, Triều Tiên và đặc biệt là các nhà nghiên cứu từ học Trung Quốc, luận án
tổng thuật, nghiên cứu một cách tổng quan về thể loại từ ở Trung Quốc, Nhật Bản
và Triều Tiên làm cơ sở để so sánh với thể loại từ tại Việt Nam.
Cho đến thời điểm này, luận án là công trình sưu tập đầy đủ nhất về thể loại từ
trong văn học trung đại Việt Nam, đồng thời đây cũng là công trình có sự nỗ lực xử
lí, giám định văn bản một cách riết ráo nhất.
Trên cơ sở khảo sát cụ thể, tổng kết thành tựu sáng tác từ tại Việt Nam thời
trung đại, luận án tiến hành phân kì từ sử, nghiên cứu sâu từng giai đoạn sáng tác từ
về các phương diện: đội ngũ tác giả, các nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ, quan
1
Phần này mang tính chất thích nghĩa một số khái niệm, thuật ngữ từ học thường dùng trong luận án. Một số
khái niệm, thuật ngữ trên sẽ được trình bày sâu hơn ở Phụ lục 2.1.
7
niệm - động cơ sáng tác, quan niệm từ học, thể thức đã tiếp thu, các dạng thức biến
cách, nội dung và khuynh hướng nghệ thuật, từ đó làm rõ đặc điểm của thể loại từ ở
Việt Nam qua mỗi giai đoạn.
Đây là công trình nghiên cứu, tổng kết về thể loại từ tại Việt Nam, có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, giảng dạy văn học cổ trung đại
Việt Nam, đặc biệt là những người quan tâm nghiên cứu các thể loại văn học trung đại.

8
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án có cấu trúc gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu thể loại từ Việt Nam
Chương 2: Thể loại từ ở các nước trong khu vực và thực trạng sáng tác từ
tại Việt Nam
Chương 3: Thể loại từ Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII: Tiếp
nhận và tái tiếp nhận
Chương 4: Thể loại từ Việt Nam thế kỉ XIX: Thừa tiếp và phát huy
9

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THỂ LOẠI TỪ VIỆT NAM
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thể loại từ Việt Nam
Từ là một trong những thể loại có thành tựu đặc biệt trong văn học cổ Trung
Quốc, đặc biệt là Tống từ. Ở Trung Quốc, thời cổ đã xuất hiện nhiều công trình nghiên
cứu về từ dưới nhiều góc độ, như từ nhạc, từ phổ,… Sang thế kỉ XX, các học giả Trung
Quốc đặc biệt quan tâm nghiên cứu thể loại này, xuất hiện rất nhiều công trình nghiên
cứu chuyên sâu về từ các giai đoạn cùng các bộ tổng tập, toàn tập từ các thời
2
.
Ở Việt Nam từ những năm 50 của thế kỉ XX trở đi, trong một số sách, các tác
giả Việt Nam có những nỗ lực nhất định nhằm giới thiệu một số kiến thức cơ bản về
thể loại từ, chẳng hạn trong sách Quốc văn cụ thể (1956) của Bùi Kỉ, Thơ ca Việt
Nam hình thức và thể loại (1965) của Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức, Tuyển tập
từ Trung Hoa - Nhật Bản (1996) của Nguyễn Chí Viễn, Tống từ (1999) do Nguyễn
Xuân Tảo dịch, Chế Lan Viên giới thiệu, Cổ duệ từ - Khúc hát gõ mái chèo (1999)
của Phan Văn Các, v.v… Tuy nhiên, đáng chú ý là trong sách này, kiến thức về từ
mới chỉ được giới thiệu một cách sơ lược, đôi khi còn nhiều sai lầm
3
; thảng hoặc có
2
Như: Dư Truyền Bằng (余傳棚) nghiên cứu về các lưu phái từ thời Đường - Tống [175], Lưu Nghiêu Dân
(劉堯民) nghiên cứu về mối quan hệ của từ với âm nhạc [186], Trương Trọng Mưu (張仲謀) nghiên cứu về
từ sử thời Minh [207], Đường Khuê Chương (唐圭章) sưu tập thành tựu sáng tác từ thời Tống [181], v.v…
3
Chẳng hạn trong Quốc văn cụ thể, trong số 4 ví dụ về từ - khúc mà tác giả đưa ra chỉ có một bài thuộc thể
từ, theo điệu Hành lộ nan (điệu này ít gặp). Cũng trong sách này không hiểu tác giả trích dẫn theo nguồn tư
liệu nào, chỉ biết rằng tác phẩm trích dẫn không đúng thể thức của điệu từ được từ phổ ghi nhận. Về đặc
trưng thể loại, trong một đoạn văn ngắn 6 dòng, thông tin do tác giả cung cấp ít nhất đã sai 3 điểm căn bản.
Cho rằng: “Lối từ - khúc của Tầu có nhiều điệu, song đều là biến thể của cổ thi cả”, cách hiểu như vậy mơ

hồ, dường như chỉ căn cứ vào hình thức của thể từ và thể khúc nên đã dẫn đến nhận định sai về nguồn gốc thể
loại. Lại nói: “Tuy mỗi một khúc có một tên riêng, song có thể gọi tóm lại là Trúc chi từ, đặt câu dài ngắn,
nhiều ít không có luật nhất định”. Nhận định đó hoàn toàn sai lầm. Từ và khúc đều có nhiều điệu khác nhau.
Trúc chi từ chỉ là một trong mấy ngàn thể thức khác nhau của từ, hơn nữa cũng không phải thể thức đặc
trưng cho lối câu “dài ngắn không đồng đều” (trường đoản cú), vì thế từ khi thể loại từ xuất hiện cho đến
nay, chưa từng có tác giả nào dùng tên điệu Trúc chi từ làm tên gọi chung cho thể loại từ, huống chi là cả thể
từ và thể khúc! Hơn nữa, từ luật chặt chẽ, không có cái được gọi là “nhiều ít không có cách luật nhất định”.
v.v…
Nếu ở Quốc văn cụ thể Bùi Kỉ cho từ - khúc là dạng thức biến thể từ cổ thi, thì các tác giả sách Thơ ca Việt
Nam hình thức và thể loại lại nhầm lẫn khi cho “từ - khúc là tên gọi chung cho tất cả những bài hát cổ của
Trung Quốc, hoặc có tính chất dân gian, hoặc do văn nhân nghệ sĩ dựa theo lối Sở từ, nhạc phủ mà sáng tác”.
10
một số bài nghiên cứu sâu hơn nhưng vẫn không đủ cung cấp cho độc giả những
thông tin tổng quan về thể loại này, không đủ để hình dung một cách vừa bao quát
vừa cụ thể về thể loại từ tại Việt Nam.
Liên quan đến các hướng nghiên cứu về thể loại từ ở Việt Nam, có thể phân làm
hai nhóm, gồm: Các nghiên cứu trường hợp và các nghiên cứu mang tính chất tổng
quan về một giai đoạn cụ thể hoặc tổng quan về toàn bộ thể loại từ ở Việt Nam.
1.1.1. Những nghiên cứu trường hợp
Trong văn học Việt Nam, số lượng các sáng tác từ không phong phú như
nhiều thể loại khác, nhất là các thể loại được ứng dụng trong khoa cử. Vì vậy, việc
nghiên cứu thể loại này ít thu hút sự chú ý của giới học thuật.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu trường hợp là bài từ điệu Nguyễn lang quy
của Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu. Tới nay, có gần 20 bài viết chuyên biệt về
tác phẩm nói trên. Người khởi đầu nghiên cứu chuyên sâu về bài từ này là Phạm Thị
Tú với bài “Về bài từ đầu tiên và tác giả của nó: sư Khuông Việt” (Tạp chí Văn
học, số 6 - 1974) [120], sau đó là các tác giả Nguyễn Tài Cẩn [28], Hoàng Văn Lâu
[67]. Trọng điểm nghiên cứu của các tác giả trên là lập trường ngoại giao của Ngô
Chân Lưu và các vấn đề liên quan đến văn bản bài từ.
Từ những năm 1990 trở đi, vấn đề văn bản tác phẩm này được các nhà nghiên

cứu tiếp tục triển khai. Với bài “Về bài Vương lang quy từ - Khảo sát và giải mã
văn bản” (Tạp chí Văn học, số 1 - 1995) tác giả Nguyễn Đăng Na lưu ý độc giả về
“luật phá cách”, đến “sóng dao động” của cấu trúc thể loại từ [69]. Nếu như
Hoàng Văn Lâu cho điệu Nguyễn lang quy không có biến thể thì Nguyễn Đăng Na
khảo sát các bài từ cùng điệu trong Toàn Tống từ và tìm thấy hai biến thể của điệu
từ này. Trên cơ sở mô hình hóa hai biến thể trên, tác giả xét khả năng tăng giảm số
chữ ở các câu, từ đó đi đến xác lập một văn bản mà ông cho là hợp lý, văn bản này
nghiêng theo văn bản bài từ được ghi trong Đại Việt sử kí toàn thư. Bài viết của tác
giả Nguyễn Đăng Na công phu, biện giải sắc bén, song có một số điểm cần cân
Thể loại từ được vận dụng trong sáng tác từ thời Đường, đến Vãn Đường số lượng tác phẩm dần tăng hơn
trước, nhưng số lượng chưa thật lớn, cho nên các tác giả cho rằng vào giai đoạn này từ “phát triển có đến
hàng mấy trăm điệu, không thể kể xiết” cũng là nhận xét rất không chuẩn xác.
11
nhắc thêm, đặc biệt là sự biện giải về chính thể và biến thể và sự khái quát của tác
giả trên cơ sở 2 bài được coi là biến thể của từ điệu Nguyễn lang quy, từ đó đi đến
khái quát về khả năng biến thức mà ông gọi là “sóng dao động” của từ. Lê Mạnh
Thát trong phần “Khuông Việt với công tác ngoại giao” (trong sách Lịch sử Phật
giáo Việt Nam từ Lý Nam Đế (544) đến Lý Thái Tông, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, 2001) xác định tên điệu của bài từ là Nguyễn lang quy [101]. Tác giả dựa vào
từ luật để hiệu chỉnh một số câu chữ, lấy Thiền uyển tập anh làm nền, lại tham khảo
Đại Việt sử kí toàn thư để đưa ra một văn bản mà ông cho là khả thủ. Trong bài viết,
tác giả đồng thời cũng khẳng định “vị trí có một không hai trong lịch sử ngoại giao
và văn học dân tộc”của bài từ [101, tr.452].
Nghiên cứu văn bản bài từ trên còn có bài viết “Bài từ Ngọc lang quy của
Khuông Việt đại sư (933-1011) và vấn đề văn bản học” của Alexandre Lê (Thời đại
số 6 - 2002). Tác giả bài viết sau khi khảo sát bốn dị bản gồm: Đại Việt sử kí toàn
thư, Thiền uyển tập anh, Việt sử tiêu án và Lịch triều hiến chương loại chí, tiến
hành một số thao tác như hiệu chỉnh về niêm luật, về ngữ nghĩa, ngôn từ cuối
cùng cũng đưa ra một văn bản khảo đính mà tác giả cho là hợp lý [59]. Trước
Alexandre Lê, đã có ít nhất 4 tác giả tiến hành khảo đính văn bản bài từ, bốn văn

bản họ đưa ra không hoàn toàn giống nhau, tất nhiên cũng không giống văn bản mà
Alexandre Lê xác lập.
Do bài từ của Khuông Việt đại sư được ghi chép trong các thư tịch không hoàn
toàn thống nhất về niên đại, vì vậy, trong bài “Về bài từ Ngọc lang quy của Khuông
Việt” (Tạp chí Hán Nôm số 5 - 2005), Nguyễn Đình Phức dựa vào sử liệu Việt Nam
và Trung Quốc khẳng định niên đại bài từ của Ngô Chân Lưu vào năm Thiên Phúc
thứ 8 (987) là chuẩn xác. Niên đại theo Thiền uyển tập anh (Thiên Phúc thứ 7) là
nhầm lẫn [82]. Tác giả tiếp tục biện giải về mấy chữ “Ngọc lang quy” như Hoàng
Văn Lâu đã có lần đặt ra [67], cho ba chữ “Vương lang quy 王体歸” ở bản Thiền
uyển tập anh thời Tự Đức, chữ “Vương 王” trong cụm từ này do chữ “ngọc 玉” bị
thợ khắc làm mất đi một dấu chấm mà thành. Nếu vấn đề chỉ dừng ở phạm vi xác
12
định nhan đề bài từ (từ đề) là “Ngọc lang quy” hay “Nguyễn lang quy” thì sự luận
giải của tác giả là thuyết phục, song tác giả bài viết còn đặt vấn đề thể loại tác phẩm
của Ngô Chân Lưu là từ hay khúc thì điều đó là không thực sự cần thiết, vì ở thời
điểm Ngô Chân Lưu sáng tác bài từ này (năm 987), thể khúc chưa xuất hiện trên văn
đàn.
Bắt đầu từ bài viết của Phạm Thị Tú trên Tạp chí Văn học năm 1974, đến bài
viết của Nguyễn Đình Phức trên Tạp chí Hán Nôm năm 2005, trải qua 31 năm, các
vấn đề liên quan đến bài từ của Khuông Việt đại sư tuy đã được gợi mở khá nhiều
song chưa đi đến thống nhất, do vậy vẫn đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu và từng bước
làm sáng tỏ. Trên Nghiên cứu Văn học, số 3 năm 2007, trong bài “Trở lại bài từ
Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu dưới góc nhìn từ sử”, trên
cơ sở các vấn đề nghiên cứu đã được giới học thuật đặt ra, chúng tôi tiến hành khảo
cứu, tổng kết nghiên cứu bài từ trên qua 4 phương diện: 1. Niên đại, 2. Thể loại, 3.
Tên tác phẩm, 4. Số chữ [6, tr.103-116]. Bài viết cũng chỉ rõ nguồn ảnh hưởng và
đặc trưng phong cách nghệ thuật của tác phẩm. Trên Tạp chí Hán Nôm số 1, năm
2010, chúng tôi đặt vấn đề “Có hay không yếu tố nữ trong bài từ điệu Nguyễn lang
quy của Khuông Việt đại sư”, chứng minh rằng bài từ trên thể hiện rất rõ yếu tố nữ.
Người viết cho rằng điều này do đặc trưng thể loại cùng phương thức tạo tác và

diễn xướng quy định; trong bài có hiện tượng chuyển giọng từ nam sang nữ theo thủ
pháp “đại ngôn” (nói thay), bởi tác phẩm được dùng để ca nữ hát, chính vì thế
ngôn ngữ của bài từ rất diễm lệ, giọng điệu bi thiết, vừa duy mĩ vừa duy tình, đem
cái diễm ngữ để tả cái diễm tình, đạt đến cực đỉnh của yếu tố bi mĩ; sở dĩ giới
nghiên cứu cho bài từ này là “non nớt” hay “nhún nhường” chính là không đặt tác
phẩm trong sự vận động của thể loại ở giai đoạn tương ứng với các đặc trưng thẩm
mĩ của nó [14]. Tiến thêm một bước mới, trên tạp chí Khuông Việt, số 10, tháng 5 -
2010, chúng tôi đi sâu phân tích “Ngôn ngữ và cách lập ý trong bài từ điệu Nguyễn
lang quy của Khuông Việt đại sư” để chỉ ra sự tinh tế trong việc dùng từ, lập câu,
quy trình lập ý của bài từ, sự hô ứng của thượng phiến và hạ phiến [15].
13
Trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 2010, Nguyễn Đình Phức tiếp tục trở lại bài
từ này với một số nhận định, giả thuyết mà tác giả coi là “phát hiện mới”. Chẳng
hạn tác giả đặt vấn đề phải chăng “Ngọc lang quy” là tên từ điệu do Khuông Việt
đại sư chế tác trên cơ sở điệu Nguyễn lang quy? Phải chăng văn bản bài từ trong
Đại Việt sử kí toàn thư được xác lập từ thời Lê Văn Hưu? Tuy nhiên, trong Đại Việt
sử kí toàn thư không thấy có ý kiến của Lê Văn Hưu bàn về sự kiện liên quan đến
bài từ, thêm nữa bản Việt sử lược thời Trần không ghi tác phẩm này… Thực tế cho
thấy những vấn đề do tác giả bài viết đặt ra phần lớn không có gì thực sự mới mẻ,
đồng thời các giả thuyết mà tác giả bài viết đặt ra rốt cục chỉ là sự giả định, một số
không hữu lí, một số khác không thể kiểm chứng được bằng thực tế sáng tác từ ở cả
Trung Quốc và Việt Nam. Trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Quốc sư Khuông Việt
và Phật giáo Việt Nam đầu kỉ nguyên độc lập do Trường Đại học KHXHNV - Đại học
Quốc gia Hà Nội và Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội - Giáo hội Phật giáo Việt Nam
tổ chức tại Hà Nội, tháng 3 năm 2011, trong bài “Ngọc lang quy của Quốc sư Khuông Việt
trong quan hệ với từ học Trung Quốc”, Nguyễn Đình Phức đặt tác phẩm của Khuông Việt
đại sư trong quan hệ với từ học Trung Quốc, ngõ hầu tiếp tục chứng minh một số nhận định
mà tác giả đã đưa ra trong các nghiên cứu trước….
Ngoài các bài viết trên đây còn một số bài khác viết về tác phẩm từ của Khuông Việt
đại sư, song vấn đề không có gì mới bởi dường như các tác giả không chú ý nhiều đến lịch

sử vấn đề nghiên cứu nên đa số lặp lại các vấn đề đã được đề cập hoặc giải quyết từ nhiều
năm, thậm chí là nhiều chục năm trước, hoặc thiên về bình tán, ít có giá trị tham khảo.
Sau Nguyễn lang quy của Khuông Việt, trọng điểm thứ hai thu hút sự chú ý
của giới nghiên cứu về từ là Mộng Mai từ lục, một từ tập chuyên biệt có dung lượng
khá lớn được coi là của Đào Tấn. Trước khi Mộng Mai từ lục được dịch công bố
năm 1982, trong phần “Tìm hiểu nhà thơ Đào Tấn”, sách Các nhà thơ cổ điển Việt
Nam (tập II, Nxb. Văn học, H.1982), Xuân Diệu dành 25 trang để viết về bộ phận
sáng tác từ trong tập Mộng Mai từ lục này. Trong bài viết khá dài, tác giả cho rằng
“Đào Tấn làm từ, như là ghi lại nhật kí tâm hồn”, hai cảm hứng chính trong từ của
ông là “Thậm cảm hưng vong việc nước nhà” và nỗi buồn thân thế [35, tr.375-
14
377] Phần viết về từ Đào Tấn của Xuân Diệu có nhiều trang tinh tế, song cũng
không ít trang thiên về bình tán, suy diễn; nhãn quan về từ của ông cơ hồ được
“bứng trồng” từ nhãn quan về thơ, do vậy tuy thấy được một số nét độc đáo của từ
so với thơ, nhưng lại không thấy đặc trưng vốn có của thể loại.
Với nhan đề “Đào Tấn một nhà viết từ khúc lỗi lạc” (Tạp chí Văn học số 2 -
1988), những tưởng tác giả Đỗ Văn Hỷ sẽ đi sâu nghiên cứu các tác bài “từ khúc”
của Đào Tấn, từ đó làm rõ cái “lỗi lạc” của tác giả này, nhưng thực ra trong bài viết
tác giả không hề nghiên cứu tác phẩm từ của Đào Tấn, chỉ dựa vào các tư liệu Trung
Quốc, từ đó cho biết một số “cái khó” trong việc làm từ, cuối bài viết là một vài
dòng đề cập đến Đào Tấn, cho rằng ông có sáng tác theo thể loại này, như vậy là
ông đã vượt qua được “cái khó” trên, vì thế kết luận đưa ra rằng Đào Tấn là “một
nhà từ khúc lỗi lạc” [51, tr.41]. Cách chứng minh của tác giả bài viết rõ ràng chưa
thuyết phục, thêm nữa những gì trình hiện trong bài viết cho thấy tác giả còn chưa
phân biệt được sự khác biệt giữa từ và khúc.
Trong tham luận mang tên “Một số vấn đề văn bản học của Mộng Mai từ lục”
nhân hội thảo Danh nhân Đào Tấn - sự nghiệp, tài năng và cống hiến (Tháng 8 năm
2007), trên cơ sở kế thừa sự gợi ý và những kết quả phân tích văn bản Mộng Mai từ
lục của học giả hải ngoại Trần Văn Tích
4

, chúng tôi tiến hành khảo cứu văn bản
toàn bộ 60 tác phẩm từ trong Mộng Mai từ lục, phát hiện bài từ điệu Nhất lạc sách
trong Mộng Mai từ lục thực chất chỉ là chép nguyên vẹn nửa trên (thượng phiến) bài
từ cùng điệu của Chu Bang Ngạn (周邦体, 1057-1121) đời Tống, đồng thời cũng
đính chính những sai lầm về từ điệu, từ đề các bài từ trong từ tập và chỉnh lí một số
sai sót khác về văn bản [33, tr.471-477]. Cũng trong hội thảo trên, Trần Nghĩa có
bài “Khi Đào Tấn thử thách trên lĩnh vực điền từ”, đánh giá cao Đào Tấn về
phương diện điền từ. Tiếp tục nghiên cứu về Mộng Mai từ lục dưới góc độ văn bản
học, trên Tạp chí Hán Nôm số 4 năm 2009, Trần Nghĩa có bài “Thơ và từ Đào Tấn
dưới góc nhìn văn bản học”, cuối bài tác giả có đưa ra “Bảng trình bày kết quả
4
Trần Văn Tích, “Vấn đề văn bản học của một số bài từ Đào Tấn”, Văn học (Tạp chí tiếng Việt xuất bản ở
Cali, Mỹ), số 203, 204, tháng 3, 4. 2003.
15
giám định văn bản các bài từ trong Mộng Mai từ lục”, song đáng tiếc là tuy tiếp cận
bộ phận sáng tác từ của Đào Tấn dưới góc độ văn bản học nhưng tác giả lại không
lưu ý đến phương pháp biện ngụy học, vì vậy “bảng trình bày” nói trên vẫn chỉ là
sự tổng kết của công tác chỉnh lí văn bản tác phẩm, nhưng chưa triệt để bằng nghiên
cứu do chúng tôi đã công bố trước đó 2 năm, đồng thời cũng không chỉ ra được hiện
tượng chép lẫn tác phẩm từ của Trung Quốc trong từ tập này. Cùng thời gian, trên
Nghiên cứu Văn học số 9 năm 2009, chúng tôi tiến thêm một bước trong việc giám
định văn bản Mộng Mai từ lục. Trong bài “Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục”,
chúng tôi đã chỉ ra 38 trong số 60 bài thuộc Mộng Mai từ lục vốn chỉ là các bài chép
tác phẩm từ của các tác giả Trung Quốc từ thời Tống đến thời Thanh; trong 22 bài
còn lại, 13 tác phẩm tương đối đáng tin là tác phẩm đích thực của Đào Tấn, 8 tác
phẩm không có yếu tố nào khả dĩ có thể khẳng định chắc chắn là tác phẩm của Đào
Tấn, nhưng nhất thời chưa thấy chúng xuất hiện trong bất cứ tài liệu nào khác ngoài
Mộng Mai từ lục, nên chỉ có thể “tạm coi” chúng là tác phẩm của Đào Tấn, chờ
khảo cứu thêm, và 1 bài tồn nghi là tác phẩm của từ gia Cung Tường Lân (体翔麟)
thời Thanh [12, tr.69-78]. Tiếp tục nghiên cứu Mộng Mai từ lục theo hướng văn bản

học, trên Tạp chí Hán Nôm, số 3 (106) năm 2011, chúng tôi công bố bài “Thêm một
số lưu ý về Mộng Mai từ lục của Đào Tấn”, chỉ ra thêm 4 tác phẩm của các từ nhân
Trung Quốc bị chép lẫn vào Mộng Mai từ lục, ngoài ra một số bài từ của từ nhân
Trung Quốc bị thay địa danh Trung Quốc thành địa danh Việt Nam, chứng tỏ trong
Mộng Mai từ lục không chỉ có hiện tượng chép lẫn quá nhiều tác phẩm từ của Trung
Quốc (43/60 tác phẩm, tương đương 71,6%) mà còn có dấu hiệu ngụy tạo văn bản
[17, tr.54-59]. Với thực trạng tác phẩm như vậy, có thể thấy ngay 17 bài còn lại
trong Mộng Mai từ lục không phải bài nào cũng có thể yên tâm về mặt tác quyền.
Kết quả này đồng thời cho thấy, những công trình, bài viết mang tính chất phẩm
bình, phát huy nghĩa lí các tác phẩm trong Mộng Mai từ lục từ trước đến thời điểm
này hầu như không còn giá trị.
16
Liên quan đến một số tác giả, tác phẩm từ khác, chúng tôi đã công bố một số
kết quả nghiên cứu như: “Về Nguyễn Húc và bộ Cưu đài thi tập hiện còn” (Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 2 - 2006), chỉ ra rằng bộ Cưu đài thi tập hiện còn vốn được
coi là tác phẩm của Nguyễn Húc người thời Lê sơ, là tác phẩm ngụy tạo bằng cách
chép nguyên tác phẩm của Thang Truyền Doanh ( 湯 傳 楹 , 1620-1644), một thi
nhân, từ nhân cuối thời Minh, đầu thời Thanh, Trung Quốc, do vậy, 31 bài từ trong
sách này cũng đều là tác phẩm ngụy tạo trên cơ sở tập Tương Trung thảo từ của tác
giả Trung Quốc trên; trong bài “Hoa viên kì ngộ - gốc gác và sáng tân” (Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 9 năm 2007), người viết chứng minh sách Hoa viên kì ngộ,
một tiểu thuyết diễm tình thời trung đại vốn được viết lại trên cơ sở tập tiểu thuyết
diễm tình Quốc sắc thiên hương (國色天香) của Ngô Kính Sở (吳敬所) thời Minh,
do đó, các bài từ trong sách này hoặc mô phỏng theo các bài từ trong Quốc sắc
thiên hương, hoặc sáng tác theo gợi ý của tác phẩm này; trong bài “Cổ điệu ngâm
từ không phải từ tập của Việt Nam” (Tạp chí Hán Nôm, số 3 năm 2007), chúng tôi
chỉ ra hầu hết các bài từ trong từ tập này đều là chép nguyên tác phẩm từ của từ
nhân Trung Quốc các giai đoạn khác nhau; trong bài “Một số hiện tượng bất ổn
trong văn bản Lưu Hương kí” (Nghiên cứu Văn học, số 11, năm 2008), chúng tôi
tiến hành giám định văn bản một số bài từ trong Lưu Hương kí, chỉ ra rằng các bài

này đều có những vấn đề đáng ngờ về văn bản, cần được kiểm chứng thêm.
Bên cạnh đó chúng tôi cũng đã công bố một số kết quả nghiên cứu về tác
phẩm từ của Nguyễn Huy Oánh [10, tr.274-292], quan niệm từ học của Miên Trinh
[18, tr.61-76], v.v
1.1.2. Những nghiên cứu tổng quan về thể loại từ Việt Nam
1.1.2.1. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Trên Tạp chí Hán Nôm số 1/2001, Thế Anh có bài “Từ Trung Hoa và ảnh
hưởng của nó ở Việt Nam”. Trong bài viết này, tác giả mới chỉ đưa ra một vài
thông tin sơ giản về thể từ ở Trung Hoa; phần viết về “ảnh hưởng của nó ở Việt
Nam” cũng chỉ dừng lại ở mức độ mô tả rất phổ thông, đơn giản và rời rạc, chứng
17
tỏ đối với vấn đề này tác giả chưa dụng công khảo cứu, về cơ bản, bài viết thu thập
một số thông tin từ các sách đã in trước đó và hệ thống lại để đưa đến cho độc giả
một sự mô tả có tính tổng hợp cao hơn mà thôi.
Trên Tạp chí Văn học số 9 - 2004, Trần Ngọc Vương và Đinh Thanh Hiếu có
bài “Từ - một chủng loại văn học ít được biết tới”, trình bày khái quát về từ sử
Trung Quốc từ khi hình thành đến thời cận đại, cung cấp cho độc giả một số tri thức
cần thiết về thể loại từ đồng thời còn đưa ra “những đề nghị về việc nghiên cứu từ ở
Việt Nam”, xem đó như là “giả thiết công tác”, ngõ hầu có thể từ đó đi sâu nghiên
cứu thể loại này trong văn học dân tộc.
Người thực sự đi đầu trong việc mô tả một cách tổng quan về thể loại từ tại
Việt Nam là Trần Nghĩa. Trong bài “Thể loại từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam
và ảnh hưởng của nó đối với văn học bản địa” (Tạp chí Hán Nôm, số 5 - 2005),
thông qua việc khảo sát nguồn tư liệu Hán Nôm, thống kê tác giả, tác phẩm từ, Trần
Nghĩa đã phác họa một bức tranh tổng thể về sáng tác từ ở Việt Nam. Sau nhiều
năm sưu tầm, góp nhặt - như chính tác giả tự thổ lộ - bài viết trình hiện cho độc giả
một bảng thống kê các tác giả, tác phẩm từ ở Việt Nam, phân làm 3 giai đoạn với số
lượng các bài từ gồm 220 bài, 120 điệu từ khác nhau [74, tr.12-23]. Tuy nhiên thống
kê của tác giả có nhiều thiếu khuyết, nhầm lẫn, và một số tác phẩm xác định niên
đại chưa chuẩn xác. Các tác giả quan trọng có sáng tác từ như Phùng Khắc Khoan,

Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì Sĩ, v.v và v.v hoàn toàn vắng bóng trong bảng thống
kê này. Trừ đi những trường hợp nhầm lẫn về tác giả và tác phẩm, thống kê của
Trần Nghĩa thực chất chỉ còn 12 tác giả, với 162 bài từ. Mặc dù chưa thực sự đi sâu
nghiên cứu “thể loại từ của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam và ảnh hưởng của
nó đến văn học bản địa” như đúng nhan đề bài viết, song trên tinh thần cơ bản, có
thể khẳng định đây là bài viết thể hiện công phu, sự chú tâm của tác giả trong việc
tập kết các sáng tác từ của các tác giả Việt Nam nằm rải rác trong kho sách Hán
Nôm, bước đầu giúp người đọc mường tượng về vị trí của thể loại này trong lịch sử
văn học dân tộc.
18
Cùng vấn đề trên, tại Hội thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao
lưu văn hóa khu vực và quốc tế (Vietnamese Literature in the Regional and
International Context of Cultural Exchanges), tổ chức tại Hà Nội tháng 11 năm
2006, chúng tôi công bố bài viết “Sự tiếp nhận thể loại từ ở Việt Nam - khảo sát từ
thời tự chủ cho đến hết thời Lê trung hưng”, tiến hành nghiên cứu sự tiếp nhận và
sáng tác từ Việt Nam từ khởi đầu đến hết thời Lê trung hưng, tập trung nghiên cứu
sâu về thể loại từ thời Lê trung hưng về các phương diện: vị trí tàng bản và số lượng
tác phẩm, các khả năng và nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ của các tác giả, vị trí
của tác phẩm từ giai đoạn này trong các thư tịch và sự gợi mở của nó trong việc tìm
hiểu quan niệm sáng tác của các tác giả, nội dung và thủ pháp nghệ thuật. Trong
luận văn thạc sĩ bảo vệ tháng 4 năm 2007 mang tên Thể loại Từ thời Lê trung hưng,
chúng tôi giới thiệu những nét cơ bản về nguồn gốc, sự vận động của thể loại từ ở
Trung Quốc về phương diện sáng tác và lí luận từ học, các đặc điểm bút pháp của
thể loại từ. Đối với thể loại từ Việt Nam, tác giả luận văn sưu tập, giám định văn
bản tác phẩm từ Việt Nam từ khởi đầu đến đầu thế kỉ XX. Trọng tâm nghiên cứu
của luận văn là các vấn đề liên quan đến thể loại từ từ khởi đầu đến hết thời Lê
trung hưng (hết thế kỉ XVIII), đặc biệt là giai đoạn thời Lê trung hưng (từ thế kỉ
XVI đến hết thế kỉ XVIII). Cùng với bài viết “Một số nét cơ bản về thể loại từ ở
Việt Nam” (Tạp chí Hán Nôm, số 4, năm 2009), chúng tôi đã trình bày kết quả
nghiên cứu tổng quan về thể loại từ ở Việt Nam, đặc biệt đã phác họa khá rõ nét về

tiến trình thể loại, sự phân chia thể loại từ Việt Nam thành các giai đoạn (từ sử) và
đặc điểm chính của các giai đoạn đó. Hướng nghiên cứu này tiếp tục được chúng tôi
triển khai và cụ thể hóa trong bài “Thể loại từ ở Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XVIII” đăng trên Nghiên cứu và Phát triển số 6/2012. Hơn nữa, trên cơ sở nghiên
cứu tổng quan về thể loại từ ở Việt Nam, người viết còn tiến hành so sánh với thể
loại từ ở khu vực Đông Á.
Trong luận văn cao học Tìm hiểu về thể loại Từ trong văn học cổ điển Việt
Nam (bảo vệ tháng 12 năm 2009), Vũ Thị Thanh Trâm trên cơ sở kế thừa, cập nhật
các sưu tập, nghiên cứu về từ của các tác giả đi trước, chủ yếu là của Trần Nghĩa,
19
các kết quả nghiên cứu chúng tôi đã công bố và học giả Trung Quốc Hà Thiên Niên
(何仟年), tiến hành tổng hợp, nghiên cứu về thể loại từ ở Việt Nam thời quân chủ,
có thêm một số lí giải về thể loại từ ở Việt Nam.
1.1.2.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Thể loại từ ở Việt Nam tuy thành tựu không thật cao song vẫn thu hút sự quan
tâm nhất định của giới nghiên cứu từ học Trung Quốc. Năm 2004, trên tờ Giải
phóng quân Ngoại quốc ngữ học viện học báo, Tưởng Quốc Học (蔣國學) có bài
“Từ tại Việt Nam vị năng hưng thịnh đích nguyên nhân thám tích” (Tìm hiểu về
nguyên nhân khiến thể loại từ Việt Nam không phát triển hưng thịnh), phân tích một
số nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của thể loại từ ở Việt Nam [196,
tr.99-104]. Tuy nhiên, đọc bài viết, dễ nhận thấy tác giả không phải người quan tâm
nghiên cứu về thể loại từ ở Việt Nam, tư liệu về thể loại từ ở Việt Nam đều là dẫn
theo người khác, riêng giai đoạn trung đại chỉ dựa vào Việt Nam văn học sử (Quân
sự nghị văn xuất bản xã, Bắc Kinh, 2001) của Vu Tạ Chiếu (于謝照) nên chỉ kể ra
được 04 tác giả, gồm Ngô Chân Lưu, Phạm Thái, Trương Quỳnh Như và Miên
Thẩm. Tác giả hẳn cũng không biết rằng Trương Quỳnh Như sở dĩ được coi là tác
giả từ chỉ là do suy diễn từ truyện thơ Nôm Sơ kính tân trang của Phạm Thái mà ra.
Tuy Sơ kính tân trang giàu yếu tố tự truyện, song không thể tin tất cả những tình
tiết trong tác phẩm này là sự thực. Do vậy, nếu cẩn trọng thì về danh nghĩa tác giả
những bài từ trong tác phẩm này vẫn phải quy về Phạm Thái. Ngoài 4 bài từ viết

bằng chữ Nôm trong Sơ kính tân trang, Phạm Thái không có tác phẩm từ nào khác.
Do đó, Tưởng Quốc Học sai lầm khi tin vào Vu Tạ Chiếu mà cho là “Sau khi
truyền vào Việt Nam, chỉ có một số ít thi nhân cổ điển như Phạm Thái, Trương
Quỳnh Như… dùng chữ Hán để làm từ” [196, tr.100]. Trong điều kiện tư liệu hạn
hẹp, họ Tưởng chỉ có thể tin vào nhận định của Vu Tạ Chiếu, rằng “tại Việt Nam,
từ nhân thực sự e là chỉ có một mình Miên Thẩm” [196, tr.100], từ đó triển khai ý
tưởng toàn bài, do vậy bất cập là điều không thể tránh khỏi.
20
Năm 2008, trên tờ Quảng Tây đại học học báo, Hà Thiên Niên (何仟年) có
bài “Việt Nam đích điền từ cập từ học -Hán văn học di thực bối cảnh đích văn thể
án lệ” (Điền từ và từ học ở Việt Nam - Một nghiên cứu trường hợp về thể loại văn
học trong bối cảnh di thực của văn học Hán) [213, tr.55-60]. Bài viết trình bày một
cách khá bao quát về thực tiễn sáng tác từ và phương diện từ học ở Việt Nam, có thể
coi đây là một trong những bài viết khá sâu của một nhà nghiên cứu nước ngoài
từng trực tiếp tiếp xúc và xử lí tư liệu trong kho sách Hán Nôm Việt Nam. Tuy
nhiên, ngoài một số điểm hợp lí như lí giải về tình trạng kém phát triển của từ Việt
Nam, đưa ra một số gương mặt từ gia tiêu biểu của thời Nguyễn, một số sách có ghi
tác phẩm từ… bài viết vẫn không tránh khỏi bất cập. Chẳng hạn các sách có ghi về
từ của Việt Nam mà Hà Thiên Niên đưa ra chủ yếu thuộc thời Nguyễn, dường như
tác giả không biết gì thêm về sáng tác từ giai đoạn trước đó ngoài bài Nguyễn lang
quy của Ngô Chân Lưu sáng tác thời Tiền Lê và một bộ phận sáng tác từ của Phan
Huy Ích thuộc giai đoạn Tây Sơn, do vậy sự mô tả từ sử Việt Nam của tác giả tuy có
chi tiết hơn Tưởng Quốc học song vẫn rất phiến diện. Thêm nữa, ngay cả các sách
chép tác phẩm từ mà tác giả đưa ra, cùng số lượng các bài từ trong đó cũng không
hoàn toàn chuẩn xác, nguyên nhân chủ yếu là do tác giả không nhận dạng đúng tác
phẩm từ. Trong bài, Hà Thiên Niên dựa vào bộ Việt Nam Hán Nôm văn hiến mục
lục đề yếu (越南漢体文獻目錄提要) của Vương Tiểu Thuẫn (王小盾) xuất bản tại
Đài Loan, thống kê được 7 tác giả từ Việt Nam với 129 bài; như vậy, thống kê của
Hà Thiên Niên về tác giả tác phẩm từ Việt Nam kém hơn so với thống kê mà Trần
Nghĩa đã thực hiện và công bố trước đó 3 năm. Điều cần lưu ý là tuy Hà Thiên Niên

từng phê phán về những nhầm lẫn học thuật xung quanh sự xuất hiện của từ tại Việt
Nam, song trong bảng thống kê của mình, do không xác định đúng về thể loại nên
vẫn có nhầm lẫn, đó là trường hợp 10 bài điệu Trúc chi từ trong Lương Khê thi
thảo, vốn chỉ là thơ cận thể, không phải từ; còn trường hợp 1 tác phẩm trong Việt
hành ngâm thảo của Nhữ Bá Sĩ mà tác giả bài viết đưa vào thống kê của mình chỉ là
thơ trường đoản cú. Do đó, trừ đi những nhầm lẫn trên, thống kê của Hà Thiên Niên
21
chỉ còn 5 tác giả với 111 bài từ. Nhiều nhận xét về nguồn ảnh hưởng đến việc điền
từ của các tác giả Việt Nam hoặc không chuẩn xác, hoặc chưa thuyết phục.
22
TIỂU KẾT
Tại Việt Nam, do từ không phải thể loại có thành tựu nổi bật nên ít thu hút sự
chú ý của giới học thuật. Tác phẩm từ hiện còn nằm rải tác trong các tư liệu Hán
Nôm khác nhau, tình trạng văn bản rất phức tạp nên việc nhận dạng, sưu tập, giới
thiệu hết sức khó khăn. Có thể thấy những năm gần đây, mặc dù thể loại từ ở Việt
Nam đã thu hút được sự chú ý của giới học thuật trong và ngoài nước, song ngoài
trường hợp bài từ Nguyễn lang quy của Ngô Chân Lưu và bộ phận sáng tác từ giai
đoạn thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII đã được nghiên cứu một cách khá kĩ càng và cụ
thể, còn lại các nghiên cứu khác, nhất là các nghiên cứu, khảo sát tổng quan về
thành tựu sáng tác từ tại Việt Nam còn nhiều bất cập, cần có những nghiên cứu toàn
diện và sâu sắc hơn.
23
Chương 2
THỂ LOẠI TỪ Ở CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ THỰC TRẠNG
SÁNG TÁC TỪ TẠI VIỆT NAM
2.1. Khái niệm thể loại từ
Từ (詞) là thể loại văn học có nguồn gốc từ Trung Quốc, nguyên tên đầy đủ là
khúc tử từ (曲子詞), có nghĩa là phần lời của bài hát. Sáng tác từ ban đầu được thực
hiện theo nguyên tắc “tiên nhạc hậu từ” (先樂後詞 - nhạc
5

trước lời sau), “ỷ thanh
điền từ” (倚聲体詞 - nương vào âm nhạc để điền lời); trên cơ sở bản nhạc có sẵn,
người viết từ - từ nhân (詞人), điền lời vào cho bản nhạc ấy để diễn xướng, phần lời
đó chính là từ, còn thao tác viết từ gọi là điền từ (体詞), ỷ thanh (倚聲), y thanh (依
聲) Sau khi từ nhạc dần thất truyền, các điệu từ được khái quát thành các khung
cách luật gọi là từ phổ, việc điền từ do đó cũng có sự thay đổi, từ “ỷ thanh điền từ”
chuyển sang “án phổ điền từ” (按譜体詞).
Ngoài tên gọi là từ, hay khúc tử từ, thể loại này còn có nhiều cách gọi khác
như: thi dư (詩餘), trường đoản cú (長短句), nhạc phủ (樂府), nhạc chương (樂章),
biệt điệu (別調), ca khúc (歌曲), ngữ nghiệp (語業) mỗi một tên gọi mang những
hàm nghĩa nhất định.
Xét về hình thức, các bài từ chủ yếu dùng lối câu dài ngắn không đồng đều
(trường đoản cú), với hàng ngàn thể thức (điệu, thể) khác nhau. Từ có thủ pháp
nghệ thuật, phạm vi đề tài và giá trị thẩm mĩ riêng [Xem thêm ở Phụ lục 2.1]. Từ
5
Âm nhạc của từ là yến nhạc (宴樂), một dạng thức âm nhạc hình thành thời Tùy - Đường, là sự kết hợp
giữa âm nhạc ngoại vực và Trung nguyên, chuyên dùng trong việc vui chơi, yến ẩm; phân biệt với nhã nhạc
(雅樂) và thanh thương nhạc (体商樂), vốn là loại nhạc có tính “chính quy”, thường dùng trong các hoạt
động có tính chất chính thống, quan phương.
24

×