Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

CHUYÊN ĐỀ: ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC VỚI BẢN ĐỒ TƯ DUY KĨ THUẬT HỢP TÁC, DẠY HỌC TÌNH HUỐNG VÀ TỔ CHỨC LỚP HỌC.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 44 trang )

TƯ LIỆU TÂM LÍ HỌC.

CHUYÊN ĐỀ
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
VỚI BẢN ĐỒ TƯ DUY
KĨ THUẬT HỢP TÁC, DẠY HỌC TÌNH
HUỐNG VÀ TỔ CHỨC LỚP HỌC.

HẢI DƯƠNG – NĂM 2014
LỜI NÓI ĐẦU
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát
triển năng động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu
hóa đang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển
giữa các nước trở nên thực tiễn hơn và nhanh chóng hơn. Đổi mối
giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Bối cảnh trên tạo nên
những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng
giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và
hệ thống giáo dục. Vì vậy, các quốc gia, từ những nước đang phát
triển đến những nước phát triển đều nhận thức được vai trò và vị trí
hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng
một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu
của sự phát triển đất nước. Trong giáo dục, quy trình đào tạo được
xem như là một hệ thống bao gồm các yêu tố: mục tiêu, chương trình
đào tạo, nội dung, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học.
Phương pháp dạy học là khâu rất quan trọng bởi lẽ phương pháp dạy
học có hợp lý thì hiệu quả của việc dạy học mới cao, phương pháp có
phù hợp thì mới có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của
người học. Bởi vậy, việc đổi mới giáo dục trước hết là việc đổi mới
phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, hình thức tổ chức giúp đỡ hs.
Trân trọng giới thiệu cùng quý vị bạn đọc tài liệu: “CHUYÊN ĐỀ:


ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TỔ CHỨC HOẠT
ĐỘNG DẠY HỌC VỚI BẢN ĐỒ TƯ DUY KĨ THUẬT HỢP
TÁC, DẠY HỌC TÌNH HUỐNG VÀ TỔ CHỨC LỚP HỌC”
Chân trọng cảm ơn!
TÀI LIỆU GỒM CÁC NỘI DUNG:
PHẦN I: Đổi mới: Tổ chức hoạt động dạy học
với bản đồ tư duy.
PHẦN II : Áp dụng kĩ thuật dạy học mang tính
hợp tác.
PHẦN III : Dạy học tình huống và tình huống
dạy học
PHẦN IV: Những phát kiến trong công tác chủ
nhiệm lớp.
PHẦN V: Bí quyết thành công của công tác chủ
nhiệm lớp.
PHẦN VI: Giáo viên làm gì để giúp đỡ học sinh
yếu kém?
PHẦN I :
Đổi mới: Tổ chức
hoạt động dạy học với
bản đồ tư duy.
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư
duy, lược đồ tư duy,… là hình thức ghi chép
nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ
thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,
… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời
hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư
duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở,
không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ
địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi

người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc,
hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng
một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện”
nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó
việc lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng
sáng tạo của mỗi người.
BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng
lưới liên tưởng (các nhánh). Có thể vận dụng BĐTD vào hỗ
trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học,
ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì
và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác.
Qua nghiên cứu và thực nghiệm giảng dạy cho thấy một số
GV còn gặp khó khăn trong việc tổ chức hoạt động dạy học
trên lớp với việc thiết kế và sử dụng BĐTD. Bài viết này sẽ
đưa ra một số gợi ý giúp GV giải quyết khó khăn trên.
Ví dụ 1: Dạy học bài Hình chữ nhật – Toán 8
Đặc điểm của bài này là HS đã có biểu tượng về hình chữ
nhật, biết một số tính chất về cạnh, góc của hình chữ nhật từ
các lớp tiểu học, mặt khác hình chữ nhật lại rất gần gũi với các
em trong cuộc sống. Hơn nữa, cấu trúc bài hình chữ nhật cũng
tương tự với các bài hình thang cân, hình bình hành mà các em
vừa học trước đó, các bài này đều có các đề mục như định
nghĩa, tính chất, dấu hiệu nhận biết. Vì vậy khi dạy học bài
này nên tổ chức cho HS hoạt động nhóm lập BĐTD với tên
chủ đề chính là hình vẽ một hình chữ nhật để HS thiết lập
BĐTD, qua đó tự xây dựng kiến thức về hình chữ nhật, việc
làm này sẽ phát huy được tính tích cực của HS, nâng cao hiệu
quả giờ học. Có thể tổ chức một số hoạt động sau đây:
Hoạt động 1: Lập BĐTD. Mở đầu bài học, GV có thể cho HS
lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với các gợi ý: tìm trong

thực tế các hình có dạng hình chữ nhật, viết những tính chất về
cạnh và góc mà em đã biết về hình chữ nhật, thử nêu định
nghĩa, dấu hiệu nhận biết hình chữ nhật theo cách hiểu của
em,…
Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về BĐTD. Cho một vài HS
hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về
BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này vừa
biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho
các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em
tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm
cần rèn luyện của học sinh nước ta hiện nay.
Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa,hoàn thiện BĐTD. Tổ chức
cho HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về
kiến thức của hình chữ nhật. GV sẽ là người cố vấn, là trọng
tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD về hình chữ nhật, từ đó dẫn dắt
đến kiến thức trọng tâm của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD. GV cho HS
lên trình bày, thuyết minh về kiến thức hình chữ nhật thông
qua một BĐTD do GV đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở
bìa), hoặc BĐTD mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh
sửa, hoàn thiện. GV có thể giới thiệu BĐTD sau đây (vì
BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm
HS có chung 1 kiểu BĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về
mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức-
nếu cần).
Khi HS đã thiết kế BĐTD và tự “ghi chép” phần kiến thức
như trên là các em đã hiểu sâu kiến thức và biết chuyển kiến
thức từ SGK theo cách trình bày thông thường thành cách
hiểu, cách ghi nhớ riêng của mình.
Ví dụ 2: Bài Phép đồng dạng - Hình học 11

Đặc điểm của bài này là HS đã có biểu tượng về hình đồng
dạng (từ lớp 8) và biết các phép dời hình, phép vị tự (vừa học
trước đó) nên HS có thể tự xây dựng được kiến thức mới
thông qua việc lập BĐTD theo nhóm. Vì vậy khi dạy học bài
này nên tổ chức cho HS hoạt động nhóm lập BĐTD với tên
chủ đề là “hình đồng dạng” để HS thiết lập BĐTD xây dựng
kiến thức của bài này. Cho HS thực hiện các hoạt động tương
tự ở ví dụ 1. Sau khi thực hiện các hoạt động trên, GV có
thể giới thiệu cho HS BĐTD có thêm các hình ảnh trực quan
về hình đồng dạng sau đây:
Ví dụ 3: Bài Lễ độ - Giáo dục công dân 6.
Tổ chức cho HS lập BĐTD theo nhóm hoặc cá nhân, gợi ý cho
các em tìm các biểu hiện lễ độ, các biểu hiện thiếu lễ độ, tìm
trong thực tế và trong sách báo về các gương lễ độ, kế hoạch
rèn luyện của bản thân,…để các em lập BĐTD với từ khóa “
lễ độ” ở trung tâm. Tiếp theo cho các nhóm HS trình bày,
thuyết minh về BĐTD của mình, cả lớp thảo luận, góp ý kiến,
GV kết luận dẫn đến kiến thức mới. Sau đây là BĐTD của một
HS:
Sau đây là một số BĐTD do HS thiết kế trong các giờ dạy thử
nghiệm:
Bài “Tế bào”- Sinh học 8
Bài Vị trí, hình dạng và kích thước của trái đất – Địa lý 6
Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD:
Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý
của GV.
Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo,
thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện
BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là

trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến
thức của bài học.
Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã
chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh
sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến
thức đó.
Lưu ý: - BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các
nhóm HS có chung một kiểu BĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa
cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu
sắc và hình thức (nếu cần).
- Các BĐTD giới thiệu trong bài viết này đều có nhiều màu
sắc (chữ thuộc nhánh nào thì cùng màu với nét vẽ của nhánh
đó). Tuy nhiên, do điều kiện in báo nên tất cả chỉ có màu đen
(bạn đọc có thể xem các BĐTD với đủ màu sắc này trên bài
cùng tên ở báo giáo dục thời đại điện tửwww.gdtd.vn).
Sử dụng BĐTD sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng,
tìm tòi xây dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ
cùng với màu sắc thích hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi
người, BĐTD giúp bộ não liên tưởng, liên kết các kiến thức đã
học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống… để phát triển, mở
rộng ý tưởng. Sau khi HS tự thiết lập BĐTD kết hợp việc thảo
luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của GV dẫn đến kiến thức
của bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
Có thể tóm lược tổ chức hoạt động dạy học với BĐTD như
sau:
Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học ở một số
trường cho thấy, sử dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới
giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động
được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với
sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo

hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo
và phụ huynh HS khi chứng kiến thành quả lao động của học
trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng
của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD),
hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó
để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình
bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến
thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Trước đây, các tiết ôn tập chương một số GV cũng đã lập bảng
biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và cả lớp có chung cách trình bày
giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ không phải do
HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng
biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Gần
đây, sau một số đợt tập huấn của Dự án THCS II, nhiều GV đã
áp dụng thành công dạy học với việc thiết kế BĐTD. Có
thể kể đến một số trường tham gia dự án THCS II sau khi
được tập huấn về đổi mới PPDH (trong đó có nội dung thiết
kế, sử dụng BĐTD) đã triển khai và bước đầu tạo một không
khí sôi nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong các sinh hoạt ở
tổ chuyên môn cũng như hoạt động dạy học của nhà trường, là
một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ
GD&ĐT đang đẩy mạnh triển khai.
BĐTD một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng
được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà
trường hiện nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng
phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng
có thể thiết kế trên phần mềm BĐTD. Với trường có điều kiện
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính
phần mềm Mindmap cho GV, HS sử dụng, bằng cách vào

trang web www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm
từ Mindmap, ta có thể tải về bản demo ConceptDraw
MINDMAP 5 Professional, phần mềm này không hạn chế số
ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản.
Bước đầu cho phép kết luận: Việc vận dụng BĐTD trong dạy
học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn
đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống,
khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy
học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính
khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với các
lớp ở cấp TH, THCS và THPT.
PHẦN II :
Áp dụng kĩ thuật dạy
học mang tính hợp tác

Những năm gần đây, phương pháp thảo
luận nhóm đã không còn xa lạ với giáo viên
(GV) và học sinh (HS). Chỉ cần GV yêu cầu
nhóm 6 là các em tự biết nhóm mình gồm
những bạn nào, ai là nhóm trưởng, ai là thư
kí. Và các em thảo luận rôm rả.
Tuy nhiên, mặt hạn chế của thảo luận nhóm là chỉ cần
nhóm trưởng đọc cho thư kí ghi sao cho nhanh nhất là được,
còn các em khác trong nhóm thì ngồi cho có… tụ. Ở đây
chúng tôi không phê phán việc sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm mà muốn nhắn nhủ với các GV là đừng thực hiện
cho có hình thức mà tùy nội dung kiến thức, trình độ HS mà
sử dụng phương pháp dạy cho hợp lí.
GV Trường TH Linh Đông trình bày kết quả thảo luận nhóm
của kĩ thuật dạy học hợp tác

Kĩ thuật “Khăn phủ bàn” là kĩ thuật tổ chức hoạt động mang
tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm. Hình
thức thực hiện: Các thành viên của nhóm ngồi xung quanh
bàn và ghi ý kiến cá nhân của mình vào giấy Ao chia sẻ và
ghi ý kiến thống nhất vào ô giữa của tờ giấy Ao trình bày
trước lớp. Rõ ràng khi sử dụng kĩ thuật Khăn phủ bàn, mọi
thành viên trong nhóm đều phải ghi suy nghĩ và ghi ý kiến
của mình (không thành viên nào ngồi cho có tụ). Để ghi
được ý kiến chung, cả nhóm phải thảo luận đi đến thống nhất
ý kiến. Còn kĩ thuật “Các mảnh ghép” là kĩ thuật tổ chức
hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và
liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức
hợp, kích thích sự tham gia tích cực của HS, nâng cao vai trò
cá nhân trong quá trình hợp tác.
Chúng tôi đã tổ chức chuyên đề về hai kĩ thuật dạy học trên
cho GV trong trường rút kinh nghiệm. Chúng tôi xin giới
thiệu và chia sẻ những nội dung đã thực hiện:
- GV thứ nhất cho một đề toán: Trong vườn có 12 cây chuối,
bố trồng thêm 3 cây chuối. Hỏi trong vườn có tất cả bao
nhiêu cây chuối? Sau khi làm các bước tìm hiểu đề bằng hệ
thống các câu hỏi gợi ý: Bài toán cho biết gì? (Trong vườn
có tất cả bao nhiêu cây chuối?), bài toán cho biết gì? (Trong
vườn có 12 cây chuối), bố trồng thêm mấy cây chuối nữa?
(bố trồng thêm 3 cây chuối nữa). Bước tiếp theo từng em ghi
vào giấy Ao bài giải của mình, sau đó thống nhất bài giải
đúng và ghi vào giữa tờ giấy Ao.
Chúng tôi nhận thấy cách tiến hành các bước thực hiện kĩ
thuật “Khăn phủ bàn” thì đúng nhưng về nội dung kiến thức
thì có thể chọn nội dung nào sao cho ý kiến cá nhân khác
nhau (dù rất ít) để tạo sự tranh cãi, thảo luận đi đến thống

nhất. Còn đối với bài giải toán khi HS đã hiểu bài thì các em
đều có bài giải giống nhau. Thư kí lại ghi một lần nữa bài
giải vào giữa giấy Ao rất mất thời gian mà không hiệu quả.
- GV thứ hai chọn một bài toán có hai cách giải. GV cũng
thực hiện theo hướng tìm hiểu đề xong rồi cho HS ghi vào
giấy Ao bài giải của mình. Sau đó nhóm thống nhất và chọn
cách giải hay. Chúng tôi thấy đây không phải là dạng toán
tính giá trị biểu thức bằng hai cách rồi chọn cách thuận tiện
nhất. Trong bài toán trên dù HS có thực hiện cách nào cũng
là bài giải được chấp nhận.
- GV thứ ba:Vòng 1 chia HS thành ba nhóm, mỗi nhóm thực
hiện một nhiệm vụ: Nhóm 1, tìm các nước có ngành khai
thác dầu, sản xuất ô tô; nhóm 2, tìm các nước có ngành sản
xuất lúa gạo; nhóm 3, tìm các nước có ngành sản xuất bông,
chăn nuôi trâu, bò. Các thành viên trong nhóm thảo luận với
nhiệm vụ được giao. Vòng 2 từng thành viên nhóm cũ di
chuyển và hình thành nhóm mới (nhóm 3), thông tin của
vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với
nhau. Sau khi chia sẻ thông tin vòng 1, nhiệm vụ mới sẽ
được giao cho nhóm vừa thành lập để giải quyết. Các nhóm
mới trình bày, chia sẻ kết quả nhiệm vụ của vòng 2. Chúng
tôi thấy vòng 1 nên chia thành nhóm 3, vì nếu chia thành 3
nhóm có thể lặp lại cái hạn chế ban đầu tôi đã nêu: chỉ có 1
hoặc 2 em nói thì các em khác lại có mặt cho có tụ và thống
nhất ý kiến. Rồi sau khi họp nhóm mới, liệu những em làm
thinh ấy có trình bày lại được ý kiến thống nhất tr
PHẦN III:
Dạy học tình huống và
tình huống dạy học


Người thầy giáo trước lớp cũng như
người chỉ huy trong chiến đấu, luôn phải
quan sát đối phương và diễn biến chiến
trường để ra các mệnh lệnh chiến đấu chứ
không thể dựa vào bản kế hoạch tác chiến đã
vạch sẵn trước khi xảy ra chiến sự.
1. Một khái niệm cơ bản

1.1 Dạy học tình huống: Là tư tưởng dạy học quan niệm rằng
khi dạy học người thầy đứng trước những hoàn cảnh, điều
kiện dạy học rất cụ thể. Thầy giáo phải luôn hiểu được nhu
cầu, nguyện vọng, hứng thú, năng lực… của người học, đồng
thời phải nắm được hoàn cảnh, điều kiện, môi trường… khi
quá trình dạy học đang diễn ra. Trên cơ sở đó quyết định dạy
cái gì, dạy như thế nào, sử dụng phương tiện và hình thức
gì? để tạo ra những hoạt động phong phú, hấp dẫn, nhằm
khơi dậy hứng thú, lòng ham học tập, tìm tòi, kích thích tư
duy sáng tạo của học sinh.

Vũ trụ là vô cùng và tư duy sáng tạo của con người cũng là
vô cùng. Nếu làm được điều đó thì lợi ích mang lại cho con
người sẽ không thể nào lường hết được.

Vì sự chú ý, hứng thú… của học sinh thay đổi từng giây,
từng phút trong quá trình học tập, nên người thầy giỏi phải
luôn nhạy cảm trước tình huống sư phạm mới có sự điều
chỉnh kịp thời các hoạt động của mình.

Người thầy giáo trước lớp cũng như người chỉ huy trong
chiến đấu, luôn phải quan sát đối phương và diễn biến chiến

trường để ra các mệnh lệnh chiến đấu chứ không thể dựa vào
bản kế hoạch tác chiến đã vạch sẵn trước khi xảy ra chiến sự.
Trong thực tế người thầy giáo giỏi đã làm như thế để có được
những giờ học thành công. Họ đã thực hiện theo tinh thần
dạy học tình huống. Đó là một trong những bí quyết quan
trọng của nghệ thuật sư phạm mà các sinh viên và thầy giáo
trẻ nên lưu ý học tập.

Vậy bản chất của dạy học tình huống là dạy học gắn liền với
thực tiễn, dạy học trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể
và luôn biến động.

1.1 Tình huống dạy học: THDH là khái niệm quan trọng nhất
của DHTH

THDH là khái niệm mô tả hoàn cảnh, điều kiện dạy học cụ
thể như: thầy, trò, sách giáo khao (SGK) có gì đặc biệt? Mục
đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, môi trường dạy
học… như thế nào?

THDH luôn luôn thay đổi, vì vậy để dạy học tốt đòi hỏi
người thầy phải quan sát thực tế, nhạy cảm và tập trung sự
chú ý của mình vào công việc. Người thầy thường tập trung
vào việc xác định THDH ở 3 giai đoạn: trước giờ học, trong
giờ học và sau giờ học.

2. Cấu trúc của tình huống dạy học (THDH)

THDH được tạo thành từ hai yếu tố cơ bản: con người và các
thành tố của quá trình dạy học


2.1 Con người: là thầy và trò. Muốn làm việc có hiệu quả
người thầy phải nắm được nhu cầu, nguyện vọng, hoàn cảnh,
điều kiện học tập của học sinh. Đối tượng lao động của người
thầy là học sinh, khác với công nhân, nông dân, đối tượng lao
động là những vật vô tri vô giác. Trong giờ lên lớp thầy giáo
phải quan tâm theo dõi sự chú ý và hứng thú của học sinh. Sự
chú ý như cửa sổ của tâm hồn con người. Khi cửa sổ này
khép lại thì mọi hoạt động của thầy không còn ảnh hưởng tới
tâm hồn họ nữa.

Hứng thú học tập của học sinh là động lực kích thích tính
tích cực sáng tạo, làm nâng cao chất lượng học tập.

Trong dạy học động lực được tạo ra từ sự kích thích hứng thú
là thế mạnh của người thầy, vì nó nằm trong tầm tay của họ
qua sự lựa chọn nội dung, phương pháp, phương tiện và tình
huống dạy học thích hợp.

Bản thân người thầy cũng phải hiểu mình, luôn luôn tự rèn
luyện, tu dưỡng để đáp ứng yêu cầu dạy học ngày càng cao
của xã hội. Có thể tóm tắt những điều đã nói trong sơ đồ sau:
THẦY TRÒ

×