LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường đầy sôi động của nước ta hiện nay sự cạnh
tranh của các doanh nghiệp nhằm chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm thu
hút khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp mình, đang trở nên ngày
càng gay gắt khốc liệt. Để chiếm lĩnh được thị trường thu hút được khách hàng
thì điều trước tiên phải kể đến là chất lượng và giá cả sản phẩm. Cùng với sự
phát triển của xã hội đời sống của con người ngày càng được cải thiện do đó nhu
cầu về hàng hoá không phải chỉ là về số lượng mà mặt chất lượng ngày càng
được đề cao nhưng đồng thời giá cả phải phù hợp. Để nâng cao chất lượng hạ
giá thành sản phẩm dẫn đến giảm giá cả sản phẩm hàng hoá thì đối với các
doanh nghiệp sản xuất hiện nay khâu tổ chức lao động đặc biệt phải được quan
tâm nhiều. Tổ chức lao động hợp lý là cơ sở để nâng cao năng suất lao động,
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một trong những vấn đề quan
trọng của tổ chức lao động khoa học là công tác định mức lao động. Định mức
lao động mà tốt sẽ làm giảm được các hao phí lãng phí trong quá trình sản xuất
dẫn đến giảm được các chi phí không cần thiết để sản xuất sản phẩm từ đó hạ
giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Tuy nhiên, không phải ở bất kỳ doanh nghiệp sản xuất nào công tác định
mức lao động cũng được quan tâm thực hiện tốt. Qua thời gian được thực tập tại
Công ty may Thanh Hoá em đã biết về công tác định mức tại công ty và thấy nó
còn một số vấn đề cần được quan tâm. Bởi vậy em đã đi đến việc lựa chọn đề
tài: "Hoàn thiện công tác định mức kỹ thuật lao động tại Công ty may Thanh
Hoá" làm luận văn tốt nghiệp cho mình. Với mục đích là nhằm đánh giá, phân
tích những mặt cũng như những mặt còn hạn chế của công tác định mức lao
động từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong công
tác định mức lao động tại Công ty may Thanh Hoá.
Với phương pháp nghiên cứu là khảo sát thực tế kết hợp với phân tích
tính toán các số liệu thu thập được mong rằng sẽ làm sáng tỏ những ưu nhược
Giáo trình hướng dẫn tìm hiểu về nền kinh tế thị
trường trọng điểm của nước ta và cách định mức
kỹ thuật lao động
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
điểm của công tác định mức tại Công ty đồng thời những giải pháp đưa ra sẽ
thiết thực và phù hợp với Công ty.
Do thời gian nghiên cứu có hạn cho nên việc nghiên cứu khảo sát chủ
yếu được tiến hành tại phòng kỹ thuật (nơi tiến hành công tác định mức) và một
số tổ thuộc phân xưởng may I Công ty may Thanh Hoá. Ngoài ra việc nghiên
cứu còn được tiến hành ở một số phòng ban có liên quan như phòng tổ chức,
phòng kế toán. Về các số liệu sử dụng trong đề tài chủ yếu là những số liệu mới
của một vài năm gần đây (từ năm 1995 đến nay).
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
PHẦN I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN TỚI CÔNG TÁC ĐỊNH MỨC
KỸ THUẬT LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP.
I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VÀ NHIỆM VU CỦA ĐỊNH MỨC KỸ THUẬT
LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm về mức lao động.
Lao động ngày nay trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng đều mang
tính tập thể và cũng cần được tổ chức lại để đảm bảo năng suất cao. Vì năng suất
lao động là cái quan trọng nhất, căn bản nhất quyết định cho trình độ phát triển
của xã hội mới.
Để tăng năng suất lao động, người lao động, nhà quản lý sản xuất cần
phải biết số lượng lao động tất yếu phải tiêu hao để hoàn thành một khối lượng
công việc, một sản phẩm, một chức năng nào đó là bao nhiêu; tức là phải đo
được số lượng lao động tiêu hao trong quá trình sản xuất.
- Thước đo số lượng lao động là thời gian lao động. C. Mác viết: “ Bản
thân số lượng lao động thì đo bằng thời gian lao động và thời gian lao động lại
được đo bằng những phần của thời gian như giờ, ngày ".
Thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm hay hoàn thành
công việc (bước công việc) là thời gian cần thiết cho bất cứ công việc nào tiến
hành với trình độ thành thạo trung bình và một cường độ trung bình, trong
những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội. Trong thực tế sản xuất, số
lượng cần thiết được xác định dưới dạng các mức lao động thông qua định mức
lao động.
Như vậy mức lao động là những đại lượng hao phí để hoàn thành một
dạng công việc, hoặc để hoàn thành một sản phẩm một chức năng nào đó quy
định cho một người hoặc một nhóm người có trình độ thành thạo tương ứng với
trình độ công việc được giao trong điều kiện sản xuất kỹ thuật nhất định. Nói
cách khác mức lao động là mức độ hao phí lao động được quy định cho một
người hay một nhóm người lao động để thực hiện một công việc nhát định trong
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
những điều kiện sản xuất nhất định. Để xây dựng mức lao động ta phải tiến hành
công tác định mức lao động.
2. Các loại mức lao động.
Mức lao động có nhiều dạng và mỗi dạng thể hiện một nội dung, điều
kiện kinh tế xã hội nhất định. Tuỳ vào từng loại công việc sản xuất và điều kiện
sản xuất mà mức lao động có thể xây dựng dưới các dạng khác nhau. Nhưng
chung quy lại có 4 dạng chính sau:
- Mức thời gian.
- Mức sản lượng.
- Mức phục vụ.
- Mức quản lý.
* Mức thời gian (T): là lượng thời gian cần thiết được quy định để một
hoặc một nhóm công nhân có trình độ thành thạo nhất định hoàn thành một công
việc (bước công việc, một sản phẩm, một chức năng) trong những điều kiện tổ
chức kỹ thuật nhất định.
Mức thời gian trong thực tế là cơ sở xuất phát để tính các loại mức khác
về thời gian làm việc là thước đo lao động nói chung và về nguyên tắc định mức
lao động là xác định hao phí thời gian lao động cần thiết để hoàn thành một công
việc này hay công việc kia.
* Mức sản lượng (Q): Là số lượng sản phẩm được quy định để một công
nhân hay một nhóm công nhân có trình độ thành thạo phù hợp với trình độ phức
tạp của công việc phải hoàn thành trong một đơn vị thời gian (ngày, giờ) với
những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định.
Mức sản lượng được xác định trên cơ sở mức thời gian vì vậy chúng có
mối quan hệ tác động qua lại với nhau.
Nếu ký hiệu T: Mức thời gian.
Q: Mức sản lượng.
Ta có công thức biểu diễn mối quan hệ giữa mức thời gian và mức sản
lượng như sau:
Q = 1
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
T
Mức sản lượng là nghịch đảo của mức thời gian tức là khi mức thời gian
tăng thì mức sản lượng giảm và ngược lại.
Nếu ta gọi X là % giảm mức thời gian.
Y là % tăng mức sản lượng.
Thì ta có công thức biểu diễn mối quan hệ giữa hai đại lượng như sau:
100Y 100X
X =
100 + Y
và Y =
100 +X
* Mức phục vụ: là số lượng đối tượng (máy móc, thiết bị, diện tích sản
xuất…) được quy định để một công nhân hay một nhóm công nhân phải phục vụ
trong những đièu kiện tổ chức nhất định.
Mức phục vụ thường được xây dựng để giao cho công nhân phục vụ sản
xuất hoặc công nhân chính phục vụ nhiều máy. Mức phục vụ được xác định trên
cơ sở mức thời gian phục vụ.
+ Mức quản lý: là số người hay số bộ phận do một người hay một nhóm
người lãnh đạo phụ trách với trình độ thành thạo và trình độ phức tạp tương ứng
phug hợp với điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định.
3. Định mức kỹ thuật lao động - Khái niệm và vai trò.
3.1. Khái niệm định mức kỹ thuật lao động.
Định mức kỹ thuật lao động đã xuất hiện vào giữa những năm 20 thế kỷ
20, thời kỳ công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân và cơ khí hoá các quá trình lao
động phát triển mạnh mẽ. Thực tế đòi hỏi phải tính toán đầy đủ hơn các yếu tố
kỹ thuật trong mức lao động và cá yếu tố sức khoẻ của con người trong quá trình
lao động. Vì tiến bộ kỹ thuật đang chi phối và ngày càng quyết định đến năng
suất lao động. Như vậy, định mức kỹ thuật lao động là : "Quá trình xây dựng
mức dựa trên các căn cứ kỹ thuật, tổ chức, kinh tế các yếu tố tâm sinh lý và
những kinh nghiệm tiến tiến trong sản xuất".
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
3.2. Vai trò của định mức kỹ thuật lao động.
Định mức lao động có vai trò rất quan trọng. Nó là cơ sở cho việc thiết
lập kế hoạch lao động, quản lý lao động tổ chức lao động và thực hiện việc phân
phối theo lao động một cách hợp lý.
3.2.1. Định mức lao động là cơ sở để thiết lập kế hoạch lao động.
Muốn lập kế hoạch lao động người ta phải căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất
của năm kế hoạch, hay nói cách khác là căn cứ vào số lượng sản phẩm được
giao trong năm. Nhờ có mức lao động cho bước công việc mà tính được lượng
lao động chế tạo sản phẩm, xác định được số lượng lao động cần thiết, kết cấu
nghề và trình độ lành nghề của họ, phân bổ công nhân cho thích hợp.
3.2.2. Định mức lao động là cơ sở để nâng cao năng suất lao động.
Việc nâng cao năng suất lao động chủ yếu do việc áp dụng khoa học kỹ
thuật tiên tiến nâng cao hiệu suát sử dụng máy móc thiết bị, nhưng con người
vẫn là yếu tố quyết định đến năng suất lao động.
Thông qua công tác định mức lao động ta nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến sản xuất phát hiện và loại bỏ các thao tác động tác thừa, cải tiến
phương pháp sản xuất hợp lý hoá nơi làm việc nhờ đó mà giảm được hao phí
thời gian để sản xuất ra sản phẩm nâng cao năng suất lao động. Mặt khác nhờ có
định mức lao động mới biết được (người nào hoàn thành mức cao) khả năng làm
việc của từng người, phát hiện ra những người có năng suất cao nghiên cứu
phương pháp sản xuất tiên tiến của họ từ đó áp dụng cho sản xuất. Đồng thời
nghiên cứu thao tác sản xuất của công nhân có năng suất lao động thấp giúp cho
họ phấn đấu đạt và vượt định mức.
3.2.3. Định mức lao động là cơ sở để tổ chức lao động hợp lý khoa học.
Như chúng ta đã biết, quy luật kinh tế quan trọng hàng đầu là quy luật
tiết kiệm thời gian. Quy luật này có liên quan trực tiếp đến tổ chức lao động
khoa học mặt khác một trong những nhiệm vụ quan trọng của tổ chức lao động
khoa học là tiết kiệm thời gian làm việc.
Những hao phí cần thiết để chế tạo sản phẩm (hay hoàn thành công việc)
phù hợp với điều kiện tổ chức và kỹ thuật nhất định đã được thể hiện trong các
mức. Chính sự thể hiện đó đã làm cho định mức lao động liên quan chặt chẽ với
tổ chức lao động khoa học.
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
Định mức lao động càng hướng tới xác định hao phí lao động tối ưu và
phân đấu tiết kiệm thời gian lao động thì nó càng ảnh hưởng tới quá trình hoàn
thiện tổ chức lao động khoa học. Thật vậy, việc tính thời gian hao phí để hoàn
thành công việc với những phương án tổ chức khác nhau sẽ tạo khả năng đánh
giá khách quan và chọn được những phương án tối ưu nhất, cả về mặt sử dụng
lao động và sử dụng mý móc thiết bị. Nhờ việc xác định các mức lao động bằng
các phương pháp khoa học mà việc tính hao phí thời gian theo yếu tố giúp ta
đánh giá được mức độ hợp lý của lao động hiện tại, phát hiện các thiếu sót làm
lãng phí thời gian cần có biện pháp khắc phục.
Mặt khác, việc áp dụng các mức lao động được xây dựng trong điều kiện
tổ chức lao động tiến bộ lại cho phép áp dụng rộng rãi những kinh nghiệm tiên
tiến trong tổ chức sản xuất và tổ chức lao động đối với tất cả công nhân và toàn
xí nghiệp. Sự ảnh hưởng của mức lao động tới quá trình hoàn thiện tổ chức lao
động khoa học còn thể hiện ở chỗ khơi dậy và khuyến khích sự cố gắng của
công nhân, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phân đấu hoàn thành vượt mức, động viên họ
tìm tòi biện pháp tiếp tục hoàn thiện tổ chức lao động.
Vai trò của định mức lao động đối với tổ chức lao động còn được thể
hiện rõ ở nội dung phân công và hiệp tác lao động. Thật vậy, để thực hiện phân
công lao động hợp lý cần phải biết không chỉ là nội dung công việc hợp thành
quá trình công nghệ mà còn phải biết tính toán hao phí lao động để hoàn thành
bước công việc. Việc xác định chính xác hao phí lao động để hoàn thành chức
năng phục vụ sản xuất cho phép tổ chức phân công lao động theo chức năng hợp
lý hơn.
3.2.4. Định mức lao động là cơ sở để phân phối theo lao động.
Mức lao động là thước đo hao phí lao động để hoàn thành một khối
lượng công việc nhất định. Vì vây, mức lao động là căn cứ để tiến hành trả công
theo hao phí lao động trong sản xuất. Đơn giá tiền lương được tính theo công
thức sau:
- Đối với lượng sản phẩm trực tiếp:
L
ĐG =
Q
hoặc ĐG = L.T
Trong đó:
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
+ ĐG: Đơn giá tiền lương.
+ L : Mức lương theo cấp bậc công việc.
+ Q : Mức sản lượng.
+ T : Mức thời gian.
- Đối với lương theo sản phẩm của tổ nhóm.
Hay ĐG = L.T
Trong đó: Q : Mức sản lượng thực tế của tổ, nhóm.
T : Mức thời gian.
L: Tổng mức lương cấp bậc công việc của cả tổ.
Để thực hiện tốt việc phân phối theo lao động thì điều kiện cơ bản là
phải định mức lao động theo phương pháp có căn cứ khoa học mới đánh giá
đúng kết quả của người lao động, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động,
theo số lượng, chất lượng sản phẩm làm ra của mỗi người lao động. Mức lao
động hợp lý chỉ có thể được xây dựng trong điều kiện tổ chức kỹ thuật hợp lý.
Đó là điều kiện không cho phép người công nhân lao động tuỳ tiện vừa không
tuân theo quy trình công nghệ, quy trình lao động vừa gây lãng phí thời gian.
Làm việc trong điều kiện đó buộc người công nhân phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật. Để trước hết đảm bảo tiền lương cho bản thân
và sau đó là đảm bảo lợi ích chung cho xí nghiệp.
4. Yêu cầu.
Định mức lao động chịu sự tác động của nhiều nhân tố nhất là những
thành tựu của khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó định mức kỹ thuật lao động còn
chịu tác động của các yếu tố sau:
- Sức khoẻ người lao động.
- Các điều kiện lao động khi tiến hành công việc.
- Các yếu tố liên quan đến vấn đề tổ chức sản xuất.
n
i 1
Q
Đ
G =
n
i 1
L
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
- Các yếu tố liên quan đến tâm sinh lý người lao động.
- Các yếu tố liên quan đến kinh nghiệm tiên tiến trong sản xuất.
Khi định mức lao động được tính toán đây đủ các yếu tố trên thì được
gọi là định mức lao động có căn cứ khoa học và các mức được xây dựng là các
mức có căn cứ khoa học. Những mức như vậy sẽ thúc đẩy công nhân vươn tới
những kết quả lao động cao nhất, trong điều kiện sản xuất nhất định. Do đó yêu
cầu của công tác định mức lao động là :
1/ Định mức lao động phải được xây dựng theo phương pháp có căn cứ
khoa học, tức là phải phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sản xuất và phải tổ chức
chụp ảnh ngày làm việc, bấm giờ thời gian tác nghiệp.
2/ Định mức lao động xây dựng trên cơ sở quy trình sản xuất, chỉ tiêu
chất lượng đảm bảo thể lệ thủ tục quy định. Tổ chức dây chuyền, tổ chức lao
động và tổ chức nơi làm việc hợp lý.
3/ Công nhân chấp hành tốt kỷ luật tích cực thực hiện định mức lao
động, tham gia cải tiến tổ chức lao động và xây dựng mức.
5. Nội dung của công tác định mức lao động.
Định mức kỹ thuật là công cụ quan trọng để quản lý sản xuất, quản lý lao
động trên cơ sở các mức lao động có căn cứ khoa học mà nhà quản lý sản xuất
có thể phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, tính toán khả năng sản xuất
của doanh nghiệp (tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, kế hoạch hoá
lao động, tổ chức lao động).
Xây dựng mức có că cứ kỹ thuật phải dựa trên các quy trình sản xuất
máy móc, thiết bị, dây truyền sản xuất, tổ chức lao động, và chuẩn bị tốt những
nội dung sau:
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
5.1. Xác định quá trình sản xuất ra sản phẩm.
Quá trình sản xuất là quá trình làm ra một loại sản phẩm nào đó cần thiết
cho tiêu dùng xã họi thường được thực hiện khép kín trong doanh nghiệp. Tuỳ
theo công nghệ sản xuất, tổ chức quá trình sản xuất thường chia ra cá quá trình
bộ phận.
Quá trình sản xuất bao gồm:
- Quá trình chuẩn bị sản xuất (thiết kế sản phẩm, xây dựng quy trình
công nghệ, chuẩn bị máy móc, nhà xưởng, nguyên vật liệu, năng lương…).
- Quá trình công nghệ.
- Quá trình kiểm tra kỹ thuật, phân loại sản phẩm.
- Quá trình phục vụ sản xuất (vận chuyển, sửa chữa, phục vụ năng lượng,
dụng cụ, nguyên vật liệu, phục vụ sinh hoạt…).
Quá trình công nghệ là quá trình quan trọng nhất của quá trình sản xuất,
là quá trình làm thay đổi chất lượng của đối tượng lao động (thay đổi hình dáng
kích thước, tính chất lý hoá…) để trở thành sản phẩm nhất định.
Tuỳ sự phát triển của sản xuất (công nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất các
quá trình công nghệ bộ phận còn được tiếp tục chia ra.
a. Bước công việc: bước công việc là một bộ phận của quá trình sản xuất
được thực hiện trên một đối tượng lao động nhất định (cùng loại nguyên vật
liệu, một chi tiết máy) tại nơi làm việc nhất định do một hoặc một nhóm người
thực hiện.
Bước công việc là đối tượng của định mức, khi tiến hàn định mức
thường căn cứ vào bước công việc để định mức.
b. Thao tác lao động.
Thao tác lao động là những nội dung công việc thực hiện trong mỗi bước
công việc. Thao tác là tổng hợp hoàn chỉnh các hoạt động của công nhân nhằm
mục đích nhất định.
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
Nhờ việc xác định thao tác ta có thể phân tích, xác định hợp lý quá trình
làm việc của công nhân, đảm bảo không có thao tác thừa, trùng lặp gây tổn thất
tăng thêm thời gian hoàn thành công việc.
c. Động tác.
Động tác là một bộ phận của thao tác biểu thị bằng những cử động chân
tay và thân thể người công nhân nhằm mục đích lấy hay di chuyển một vật nào
đó. Sự phân chia thao tác thành các động tác nhằm mục đích hợp lý hoá hơn nữa
quá trình lao động của công nhân.
d. Cử động.
Cử động là một phần của động tác được biểu thị bằng những cử động
của con người, sự thay đổi cá vị trí bộ phận cơ thể của công nhân.
Sự phân chia nhỏ các quá trình sản xuất thành cá bộ phận hợp thành tạo
điều kiện để đi sâu nghiên cứu độ dài chu kỳ sản xuất, để ra biện pháp rút ngắn
chu kỳ sản xuất sản phẩm, cho phép dự kiến kết cấu hợp lý các bước công việc
thực hiện, các phương pháp thao tác làm việc tiên tiến, trên cơ sở cải tiến tổ
chức sản xuất, tổ chức lao động xây dựng các mức lao động có căn cứ khoa học.
Sơ đồ 1: Sự phân chia quá trình sản xuất thành cá bộ phận hợp thành.
Quá trình sản
xu
ấ
t
Quá trình bộ
ph
ậ
n
Bước công việc
Giai đoạn chuyển tiếp
Bước công việc
Mặt công nghệ
Thao tác
Động tác
Cử động
Mặt lao động
.
LuËn v¨n tèt nghiÖp NguyÔn Träng Minh
5.2. Phân loại thời gian làm việc.
Để định mức lao động có căn cứ khoa học cần phải nghiên cứu có hệ
thống việc sử dụng thời gian trong quá trình làm việc. Qua nghiên cứu thời gian
hao phí sẽ tìm thấy những thời gian làm việc có ích cần thiết và thời gian lãng
phí trong ca sản xuất; tìm nguyên nhân của những thời gian làm việc lãng phí và
đề ra các biện pháp nhằm xoá bỏ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất những lãng
phí nâng cao tỷ trọng thời gian làm việc có ích trong ngày.
Thời gian làm việc trong ngày được chia làm 2 loại:
- Thời gian được tính trong mức.
- Thời gian không được tính trong mức.
a. Thời gian được tính trong mức.
Là thời gian công nhân làm công việc tác nghiệp ra sản phẩm một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp và thời gian nghỉ sau thời gian làm việc để phục hồi lại
sức khoẻ có thể tiếp tục làm việc. Thời gian trong định mức bao gồm các loại
thời gian sau:
- Thời gian chuẩn kết (Tck): là thời gian mà người lao động hao phí để
chuẩn bị và kết thúc công việc, nhận nhiệm vụ, nhân dụng cụ, thu dọn dụng cụ.
Thời gian này chỉ hao phí một lần cho một loạt sản phẩm không phụ thuộc vào
số lượng sản phẩm và độ dài thời gian làm việc trong công tác.
- Thời gian tác nghiệp: là thời gian người công nhân trực tiếp làm các
công việc để hoàn thành sản phẩm hay nói cách khác là thời gian người công
nhân trực tiếp làm các công việc nhằm thay đổi đối tượng lao động.
Trong thời gian tác nghiệp gồm:
+ Thời gian tác nghiệp chính.
+ Thời gian tác nghiệp phụ.
.