Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.97 KB, 25 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
DANH SÁCH NHÓM 10 – XNK 14A (XNK 13L, M)
XNK 13L
1. Lưu Văn Cường
2. Trần Thanh Cường
3. Lê Phạm Quang Duy
4. Vũ Hoàng Giang
5. Nguyễn Văn Hòa
6. Nguyễn Văn Hưng
7. Nguyễn Tấn Luân
8. Nguyễn Đình Mùi
9. Lê Thị Ngọc Quý
10.Đinh Vũ Thiên Thanh
11.Huỳnh Minh Việt
XNK 13M
1. Lê Thị Thoại My
2. Nguyễn Phú Nam
Nhóm 10 – XNK 14A 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
PHỤ LỤC
Trang
Phần mở đầu 4
Phần I: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước 5
1. Cơ sở lý luận 5
2. Cơ sở thực tiễn 7
Phần II: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh
mẽ; xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả 9
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
9
1. Xây dựng một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp 10
2. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc


sống 13
3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước đủ đức, đủ tài
15
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả 17
1. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
17
2. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục
đạo đức cách mạng 19
Nhóm 10 – XNK 14A 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Phần III: Ý nghĩa, vận dụng 21
1. Ý nghĩa 21
2. Vận dụng 21
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

















Nhóm 10 – XNK 14A 3
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Phần mở đầu
Trong lịch sử của các dân tộc thường có các vĩ nhân mà cuộc đời và sự nghiệp,
tư tưởng và hành động gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử đầy sôi động, đầy biến
cố của dân tộc và thời đại mình: phản ánh ý chí, nguyện vọng của các dân tộc
thông qua các hoạt động của mình đã góp phần to lớn vào sự phát triển của thời đại
như Mác, Ănghen, V.I.Lênin…và Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những con
người như vậy.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn nửa thế kỷ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh
trí tuệ của dân tộc và thời đại, là sự vận dụng sáng tạo và bước phát triển của chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là linh hồn, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang ngày một vươn lên
sánh vai cùng các cường quốc năm châu, đang dần khẳng định vị thế của mình trên
trường quốc tế về một Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ.
Để đạt được thành quả trên là cả một quá trình đấu tranh gian khổ với những
hy sinh mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ông ta. Và để có được
nền độc lập, dân chủ của nước nhà thì ngoài sự cống hiến, hy sinh của cả dân tộc,
còn có những con người kiệt xuất với phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ
khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Con người kiệt xuất ấy mang tên
Nguyễn Tất Thành đã một mình bôn ba khắp năm châu, bốn bể để tim ra con
đường mang lại độc lập tự do cho tổ quốc mình. Nhắc tới Người là nhắc tới một vị
anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và
đặc biệt là người cha già kính yêu của dân tộc. Cả cuộc đời Người đã cống hiến sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Tư tưởng của
Người đã đưa dân tộc ta vượt qua muôn trùng khó khăn để đi đến những thắng lợi
Nhóm 10 – XNK 14A 4

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
to lớn, có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, là kim chỉ nam, sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt
động của Đảng và của nhân dân ta.
Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một nhà
nước kiểu mới – nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đây là tư tưởng
xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và Bác Hồ, đã được minh
chứng và kiểm nghiệm trong lịch sử đấu tranh giành chính quyền và xây dựng
chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân. Theo Hồ Chủ Tịch, nhà nước kiểu mới –
nhà nước pháp quyền phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đó là ý tưởng, ý
chí nhất quán trong tư tưởng của Người về nhà nước pháp quyền.
Thật may mắn cho chung ta vì đã được sinh ra, lớn lên và hưởng trọn những
thành quả mà cả đời Người đã cống hiến. Qua thời gian học tập, nghiên cứu, tìm
tòi trên sách vở, báo chí, đặc biệt là sự chỉ dạy tận tình của Thầy cô giúp chúng ta
được tiếp cận với hệ thống tư tưởng của Người, cho chúng ta hiểu được tầm quan
trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
Chính vì tầm quan trọng này và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi cũng như chia
sẻ những hiểu biết của mình mà chúng em quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ và xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.”
Về cơ bản đề tài đã hoàn thành nhưng do kiến thức còn hạn hẹp và thời gian
tiếp xúc với thực tế còn ít nên nội dung bài viết còn nhiều thiếu xót và khuyết
điểm. Rất mong nhận được những ý kiến đánh giá, nhận xét của cô để bài tiểu luận
của chúng em được hoàn chỉnh hơn.
Phần I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC
1. Cơ sở lý luận:
Nhóm 10 – XNK 14A 5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
a) Khái niệm nhà nước: Nhà nước là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực
chính trị, được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của

mình.
Nhà nước pháp quyền: Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó
nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của tất cả, của
mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Nguồn gốc ra đời của nhà nước:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Nhà nước là một phạm trù lịch sử,
nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội
và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa”.
Cụ thể, nhà nước ra đời có nguồn gốc sau:
“Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn tới chế độ tư hữu tư liệu sản xuất và từ đó
xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng, với những mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hòa được. Điều đó dẫn tới nguy cơ các giai cấp sẽ tiêu diệt lẫn nhau, và để
tránh nguy cơ bị diệt vong và điều tiết các mâu thuẫn giai cấp thì nhà nước đã ra
đời. Như vậy, nguyên nhân trực tiếp của sự ra đời của nhà nước là mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được.
b) Cơ sở lý luận
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã tích lũy
được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được phản ánh trong
các bộ sử lớn của dân tộc như “Đại việt sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến chương
loạn chí”… Kinh nghiệm trị nước cũng ghi lại trong các bộ luận nổi tiếng như
“Hình thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Trần), bộ luật Hồng Đức (đời Lê)…”
Những yếu tố tích cực của nhà nước thân nhân thời kỳ phong kiến hưng thịnh
trong lịch sử dân tộc: “ nước lấy dân làm gốc”, tiếp thu nho giáo… là những hành
trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một
mô hình nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành độc lập.
Nhóm 10 – XNK 14A 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Trong Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin coi nhà nước là một trong những vấn
đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, nhưng lại là vấn đề rất cơ bản và rất mấu chốt
trong toàn bộ chính trị mà giai cấp vô sản không thể không giải quyết trong cuộc

đấu tranh cách mạng nhằm thiết lập một chế độ xã hội mới về chất.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người yêu nước, thương dân nồng nàn tha
thiết. Người đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin bằng niềm tin mãnh liệt: “Bây giờ học
thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lê-
nin” và con đường duy nhất mang lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào là
con đường cách mạng vô sản, dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền về tay
nhân dân. Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng như V.I.Lê-nin
đã chỉ rõ: “Cùng với việc tổ chức xây dựng Đảng cách mạng thì trong cuộc đấu
tranh này, trước hết phải có Đảng cách mệnh”, “Đảng có vững cách mệnh mới
thành công”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nền tảng tư tưởng cho đường lối
chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng. Trong đó tư tưởng của Người về
vấn đề chính quyền nhà nước hình thành khá sớm và rõ nét.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà
nước; đồng thời, kế thừa và phát huy những giá trị nhân loại và truyền thống dân
tộc về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những tư tưởng sâu sắc về xây
dựng nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong xây dựng nhà nước kiểu mới, trước
hết bắt nguồn từ đường lối cách mạng của Đảng. Một mặt, Người khẳng định bản
chất giai cấp công nhân của nhà nước, mặt khác Người cũng khẳng định sự thống
nhất giữa bản chất giai cấp công nhân, tính chất nhân dân và dân tộc của nhà nước
pháp quyền vì nó là đại diện cho toàn thể nhân dân và toàn dân tộc.
2. Cơ sở thực tiễn
Với “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng cuộc
đấu tranh vì độc lập tự do cho dân tộc mình và các dân tộc thuộc địa bằng việc vạch
Nhóm 10 – XNK 14A 7
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
trần bản chất vô nhân đạo, phản tiến hóa mà thực dân , đế quốc thi hành ở các xứ
“bảo hộ”.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây bản “Yêu sách của nhân
dân An Nam” đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp

lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với các
quyền tự do, dân chủ của nhân dân, kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc và quyền con
người. Đây cũng là lần đầu tiên một người Việt yêu nước đã dũng cảm đứng lên lật
tẩy những chiêu bài bịp bợm của thực dân, đế quốc và buộc chúng phải thực hiện
những quyền dân tộc dân chủ mà chúng đã rêu rao.
Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã khảo sát mô hình Nhà nước tư sản
Mỹ, Pháp. Người phát hiện ra đằng sau những lời hoa mỹ về “ quyền bình đẳng,
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của tuyên ngôn độc lập 1776
đó là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết bao tàn bạo, bất
công khác. Người coi đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi” vì ở đó chính
quyền vẫn ở trong tay một số ít người, và vì cách mệnh đã thành công hơn 150
năm, nhưng công nông vẫn cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần hai.
Sau khi đến Liên Xô, Người đã tìm thấy mô hình nhà nước kiểu mới: “… phát
ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế mới,
để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng” đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà
nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai mà Người đã nêu ra trong
Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, chủ trì Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (5-1941), hoàn chỉnh sự chỉ đạo chuyển
hướng chiến lược, đề ra Chương trình Việt Minh. Hội nghị chủ trương “không nên
nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xô-viết mà phải nói toàn thể nhân dân
liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”. Chương trình Việt Minh cũng ghi rõ:
Nhóm 10 – XNK 14A 8
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
“Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”.
Từ mô hình nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình nhà nước đại biểu
cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng suốt của Hồ
Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp với sự chuyển
hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.

Sang năm 1945, Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập Khu giải phóng, các Ủy ban
nhân dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tập khởi nghĩa, vừa tập cho
nhân dân cầm chính quyền. Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào đã đi đến quyết định
lịch sử: phát động tổng khởi nghĩa, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng tại Việt
Nam, ra mắt Quốc dân đại hội, làm chức năng của Chính phủ lâm thời ngay sau
Cách mạng tháng tám thành công.
Trong gần ¼ thế kỷ, trên cương vị là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam mới,
Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công
đầu trong việc đặt nền móng xây dựng một nhà nước kiểu mới: của dân, do dân và
vì dân.
Tất cả những nghiên cứu, khảo sát cùng thực tiễn tổ chức hoạt động của Hồ Chí
Minh được đề cập ở trên là cơ sở hình thành nên tư tưởng của Người về nhà nước.
Di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước phong phú và hiện đại, từ đó chúng
ta sẽ nghiên cứu và tìm hiểu nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về một
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ và tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
Phần II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CÓ
HIỆU LỰC PHÁP LÝ MẠNH MẼ; XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG
SẠCH, VỮNG MẠNH, HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Nhóm 10 – XNK 14A 9
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong quản lý xã
hội. Điều này thể hiện ngay trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người ký
tên Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Sau này khi trở
thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Người càng quan tâm sâu sắc hơn
việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu quả bằng pháp quyền. Một
nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ được Hồ Chí Minh chú ý xây dựng thể hiện
trên những điểm sau đây:
1. Xây dựng một Nhà nước hợp hiến,hợp pháp:

Sau khi nhận được tin báo ngày 19-08-1945, Tổng khởi nghĩa thành công tại Hà
Nội và ngày 23-08-1945 thành công tại Huế, Đảng bộ miền Nam quyết định ngày
25-08-1945 tiến hành tổng khởi nghĩa tại Sài Gòn và các tỉnh còn lại. Giành lại
chính quyền từ tay phát xít Nhật. Đập tan ách thống trị của thực dân Pháp, sau 87
năm đô hộ dưới danh nghĩa “bảo hộ”, “khai hóa” Việt Nam, 2 lần bán nước ta
cho Nhật.
Chiều 30-08-1945 trước cửa Ngọ Môn, trước cuộc mít tinh hàng vạn người
tham gia, vua Bảo Đại đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng. Đại diện
chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa tuyên bố xóa bỏ chế độ quân chủ
tại Việt Nam.
Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Nhà nước Dân chủ
Cộng hòa đầu tiên ở châu Á.
Bản Tuyên ngôn độc lập Hồ Chí Minh đọc ngày 02-09-1945 đã nêu rõ:”Pháp
chạy , Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần
100 năm, gây dựng Việt Nam Độc Lập. Dân ta lại đánh đổ Chế độ Quân chủ mấy
mươi thế kỷ lập nên chế độ Dân chủ cộng hòa“. Hồ Chí Minh lại khẳng định
“chúng tôi lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn bộ nhân
Nhóm 10 – XNK 14A 10
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước
mà Pháp đã kí về Việt Nam, xóa bỏ tất cả các đặc quyền của Pháp trên Việt Nam”.
Bản Tuyên ngôn không chỉ tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới về sự
khai sinh của Nhà nước Việt Nam , qua đó biểu dương lực lượng và ý chí của toàn
thể dân tộc Việt Nam. Đây còn là cơ sở vững chắc để chính phủ lâm thời do cuộc
cách mạng của nhân dân lập nên có được địa vị hợp pháp.
Để đánh giá một quốc gia, người ta thường nhìn vào bản Hiến pháp bởi vì nó là
một hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thủ tục,
quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Bởi vậy, tất cả các quốc gia được
coi là hợp hiến đều rất cần có bản Hiến pháp dân chủ thể hiện nhà nước pháp

quyền.
Hiến pháp là một văn kiện thiêng liêng của mỗi quốc gia, là văn bản tối cao của
pháp luật quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước đó. Bản chất của Hiến
pháp là những quy định pháp luật mà văn bản pháp luật là những điều quy tắc ứng
xử , bắt buộc đối với mọi đối tượng sống trên lãnh thổ nhà nước cho nên khi sửa
phải rất thận trọng, bài bản, khoa học và thực tế. Hiến pháp của một quốc gia là
tiếng nói của nhân dân, của dân tộc làm chủ quốc gia đó. Người đứng ra nói trong
Hiến pháp là dân tộc, từng câu, từng chữ, từng lời trong Hiến pháp là câu, là chữ, là
lời của dân tộc, biểu thị sự lựa chọn và quyết định của dân tộc, ý chí và tâm nguyện
của dân tộc.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ 3/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đề nghị
tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các
cơ quan, bộ máy chính thức khác của Nhà nước mới. Và Người đã có chỉ thị nhiệm
vụ cấp bách phải xây dựng bản Hiến pháp để nhân dân được hưởng quyền tự do
dân chủ. Theo sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 của Hồ Chủ Tịch Ban soạn thảo Hiến
pháp 1946 của Chính phủ lâm thời do 7 người chủ trì: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy
(Bảo Đại), Đặng Thái Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng,
Nhóm 10 – XNK 14A 11
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Đặng Xuân Khu (Trường Chinh). Tháng 11-1945, bản Dự án Hiến pháp của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Chính phủ soạn thảo và được công bố để lấy ý
kiến các chính giới. Uỷ ban kiến quốc của Chính phủ cũng đã tự nghiên cứu và đưa
ra một Dự thảo Hiến pháp.
Ngày 06-01-1946, cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi với chế độ phổ
thông đầu phiếu và lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam
cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam Á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên,
không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo…đều đi bỏ phiếu
bầu những đại biểu của mình vào trong Quốc hội.
Ngày 02-03-1946, Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ
máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. HCM được bầu làm Chủ tịch Chính

phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để giải
quyết một các có hiệu quả những vấn đề đối nội và đội ngoại ở nước ta. Đồng thời,
Quốc hội đã bầu Ban Dự thảo Hiến pháp gồm 11 người: Trần Duy Hưng, Tôn
Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần
Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục
Viên. Đây là các trí thức tiêu biểu có người chưa phải là đảng viên. Căn cứ vào bản
Dự án của Chính phủ và đối chiếu với bản Dự thảo của Uỷ ban kiến quốc, tập hợp
những kiến nghị phong phú của toàn dân và tham khảo kinh nghiệm soạn Hiến
pháp của các nước, Ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội đã soạn thảo một Dự án
Hiến pháp để trình Quốc hội. Trong phiên họp ngày 29-10-1946, Ban Dự thảo Hiến
pháp của Quốc hội được mở rộng thêm 10 vị đại biểu cho các nhóm, đại biểu trung
lập, đại biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào dân tộc thiểu số để tham gia tu bổ thêm
bản Dự án.
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, từ ngày 28-10 đến ngày 9-11-1946, sau
nhiều buổi thảo luận và tranh luận sôi nổi, sửa đổi, bổ sung cho từng điều cụ thể,
ngày 9-11-1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam
Nhóm 10 – XNK 14A 12
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
dân chủ cộng hòa, Hiến pháp 1946 với sự nhất trí của 240/242 đại biểu dự họp.
Hiến pháp 1946 khá đơn giản, có 70 điều, được xây dựng trên tư tưởng pháp
quyền, tự do dân chủ của công dân, và quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà
nước. Đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946 được thể hiện trong 3 nguyên tắc
cơ bản, đó là: đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn
giáo trên cơ sở của nhà nước pháp quyền với quyền tự do dân chủ của công dân .
Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta thời ấy nên Hiến pháp 1946 tuy có nhiều tiến bộ
nhưng vẫn còn có mặt bị hạn chế, phải dung hòa…
2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào trong
cuộc sống
Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhau
nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất

là Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước. Các bản Hiến pháp năm 1946 và
Hiến pháp năm 1959 đã để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh
về bản chất, thiết chế và hoạt động của Nhà nước mới
Trong một Nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi chung với nhau,
nương tựa vào nhau mới đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Do đó, việc
xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa là mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí
Minh.
Người đã không ngần ngại kế thừa những điều trong bộ luật cũ để áp dụng vào
Nhà nước hiện tại. Năm 1919, trong bản Yêu sách 8 điểm , Nguyễn Ái Quốc đã đòi
thực dân Pháp cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng
các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Trong Việt Nam yêu cầu ca, Người đã
khẳng định vai trò của pháp luật:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Nhóm 10 – XNK 14A 13
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Theo Người, có Hiếp pháp và pháp luật nhưng không đưa được vào trong cuộc
sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ
cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Người đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệch và nhiều văn bản dưới luật
khác. Các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 do Người đứng đầu Ủy
ban soạn thảo, đã để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản
chất, thiết chế và hoạt động của Nhà nước mới.
Một mặt chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật, mặt khác Người
hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật
được thi hành. Theo Người, muốn nhân dân thực hiện tốt pháp luật thì cần phải
tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong nhân dân bằng nhiêu hình thức khác nhau.
Nhân dân ta chủ yếu là lao động chân tay, quen làm nông, do đó việc nâng cao dân
trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị. Bên cạnh việc nâng cao
trình độ dân trí, Người còn sử dụng các hình thức biểu ngữ, băng rôn để tuyên

truyền pháp luật tới người dân, khuyến khích nhân dân tham gia các công việc của
Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
Trong việc thực thi hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý
bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu lực của chúng. Người không ngừng nhắc nhở
cán bộ các cấp các ngành phải tuân thủ pháp luật, trước hết là cán bộ ngành hành
pháp và tư pháp. Trong thư gửi hội nghị tư pháp toàn quốc, Người viết”các bạn là
những người phụ trách thi hành pháp luật, lẽ tất nhiên các ạn phải nêu cao cái
gương phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư cho nhân dân noi theo”.
Người đòi hỏi pháp luật phải đúng và đủ, người thực thi luật pháp phải thực sự
công tâm và nghiêm minh, không có một trường hợp ngoại lệ nào đặc biệt trong
hàng ngũ cán bộ; đảm bảo cho luật pháp trở thành cán cân công lý đối với mọi
người,không có một trường hợp ngoại lệ nào, bất kỳ ai vi phạm cũng bị xử nghiêm
khắc, đúng người, đúng tội.
Nhóm 10 – XNK 14A 14
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức và
tài:
Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát
nhất về yêu cầu đối với đội ngũ này là vừa có đức vừa có tài, trong đó đức làm gốc;
đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả.
Cụ thể, Hồ Chí Minh nên lên những yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức sau đây:
Một là, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối
với đội ngũ này. Cán bộ, công chức phải là những người kiên định mục tiêu, lý
tưởng: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội; kiên cường bảo vệ chế độ
Xã Hội Chủ Nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó
phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác.
Hai là, hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Chỉ với
lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà

không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ này phải hiểu biết
công việc của chính mình, biết quản lý Nhà nước, do vậy, phải được đào tạo và tự
mình phải luôn luôn học hỏi. Hồ Chí Minh là người mạnh dạn sử dụng những công
chức của chế độ cũ phục vụ cho chính quyền cách mạng và nhiều người trong số họ
đã trở thành những người có công lớn đối với chế độ mới, đồng thời Người chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ, Người mở trường huấn luyện cán bộ Việt
Nam, thành lập khoa pháp lý học tại trường Đại học Việt Nam, đăng báo “tìm
người tài đức”.
Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh về công chức, trong đó có những quy định cụ
thể về tiêu chuẩn cán bộ tư pháp. Ngay trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76 ban hành quy chế công chức nêu rõ công
chức là người giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo tối
Nhóm 10 – XNK 14A 15
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
cao của Chính phủ. Sắc lệnh cũng nêu lên cách thức và nội dung thi tuyển để bộ
nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính trong bộ máy chính quyền. Nội dung thi
tuyển yêu cầu khá toàn diện , bao gồm sáu môn thi: chính trị, kinh tế, pháp luật,
lịch sử, địa lý, ngoại ngữ.
Ba là, phải có mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ
trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân
dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người ăn lương từ nguồn ngân sách của
Nhà nước mà nguồn ngân sách này do nhân dân đóng góp. Chính vì vậy, Hồ Chí
Minh luôn luôn nhắc nhở mọi cán bộ, công chức không được lãng phí của công;
phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy
sinh quyền lợi cá nhân cho Tổ quốc, lấy phục vụ cho quyền lợi chính đáng của
nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô,
quan liêu, lãng phí, phải luôn luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức
xa dân, quan liêu, hách dịnh, cửu quyền…đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ
làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước.
Bốn là, cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán,

dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không
kiêu, bại không nản”. Đó là những người có ý thức sẵn sàng là “công bộc”, làm
“đầy tớ” cho dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với
tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn luôn “có chí tiến thủ”, luôn luôn học tập
để nâng cao trình độ về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công
tác, học ở thầy, học ở bạn.
Năm là phải thường xuyên phê bình và tự phê bình, luôn có ý thức và hành động
vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước theo quan điểm của
Hồ Chí Minh cần gọn nhẹ, phù hợp từng giai đoạn cụ thể để phục vụ cho mục tiêu
hoạt động của Nhà nước, tất cả vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của Tổ
Nhóm 10 – XNK 14A 16
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
quốc, của nhân dân, không vì lợi ich của cá nhân nào. Chức vụ quyền hạn của cán
bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước là do nhân dân ủy quyền để làm việc ích lợi
cho nhân dân.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hoạt động có hiệu quả.
1. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân không
bao giờ tách với việc làm cho Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Khi nước nhà
giành được độc lập, chính quyền còn non trẻ hay khi cách mạng chuyển giai đoạn,
Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm sự trong sạch, vững
mạnh của của các cấp chính quyền, bởi vì những thử thách rất gay gắt và những
tiêu cực rất dễ trở thành biến nguy cơ biến chất Nhà nước.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra sáu bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư
túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã sai
lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên ai không phạm thì tránh đi, và gắng sức thêm
cho tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi trên này thì phải hết sức sửa chữa, nếu không tự
sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung…chúng ta phải ghi sâu những chữ

công bình, chính trực vào lòng”.
Hồ Chí Minh dùng các cụm từ “công bộc” ,“đầy tớ” để chỉ ra một mặt trách
nhiệm của người công chức, cán bộ trong xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh
thường chỉ ra các tiêu cực sau đây và nhắc mọi người đề phòng và khắc phục.
“Đặc quyền, đặc lợi”. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải
tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để hách dịch, lạm
quyền, đồng thời vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền làm lợi cho cá nhân, như thế
là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Nhóm 10 – XNK 14A 17
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
“Tham ô, lãng phí, quan liêu”. Hồ Chí Minh coi đây là những thứ “giặc nội
xâm”, “giặc trong lòng” nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Quan điểm của Người là
tham ô, lãng phí, quan liêu dù cố ý hay không, cũng là bạn của thực dân và phong
kiến… tội ấy cũng nặng như Viêt gian, mật thám. Ngày 27-11-1946 Người đã ký
sắc lệnh ấn định mức tù từ 5 đến 20 năm tù khổ sai và nộp số tiền gấp đôi cho
những ai nhận hối lộ.
Lãng phí là bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Bản thân Người luôn làm
gương tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hàng ngày.
Lãng phí ở đây được Người xác định là lãng phí sức lao động lãng phí thời giờ,
lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm , một vấn đề quốc sách
của mọi quốc gia.
Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không
vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy chứ không
kiểm tra đến nơi đến chốn”… thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà
không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững…
Thế là bệnh quan liêu ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí, thì trước
mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”.
“Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo”. Là những hành động gây mất đoàn kết, gây rối

cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè kéo cánh. Người có tài đức
nhưng không vừa ý mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là việc công, chứ
không phải của riêng dòng họ ai. Trong chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn
kết, không biết cách làm cho mọi người đoàn kết với nhau. Ngoài việc cậy thế, còn
có người kiêu ngạo “ tưởng mình ở trong cơ quan là thần thánh rồi… cử chỉ lúc nào
cũng vác mặt quan cách mạng” làm mất uy tín của Chính phủ.
Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội
xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”. Người nói: “Vì những người và
Nhóm 10 – XNK 14A 18
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế,
không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng.
2. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục
đạo đức cách mạng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh,
hiệu quả, trước hết phải tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo
đức. Từ nền kinh tế tiểu nông, quen sống theo luật tục hơn pháp luật, bỏ qua chế độ
tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, lại trải qua nhiều năm chiến tranh….muốn hình
thành ngay Nhà nước pháp quyền là một điều chưa thể làm ngay được. Trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật,
khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền,
giáo dục pháp luật trong nhân dân. Song song với việc nhấn mạnh vai trò của pháp
luật, cần đề cập tới vấn đề giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai lĩnh vực
khác nhau nhưng lại kết hợp và bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước.
Tiếp thu và vận dụng kinh nghiệm lịch sử của các bậc hiền tài trong văn hóa trị
nước, trong suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước, Người luôn chú trọng
giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của luật
pháp. Theo Người, một nền chính trị đạo đức và đạo đức cao nhất là “hết lòng hết
sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong
mọi việc.”

Giữa đạo đức và pháp luật vốn có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật
bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó và
biến thành thói quen . Chuẩn mực đạo đức càng khó bao nhiêu thì vai trò của pháp
luật càng quan trọng bấy nhiêu. Người nêu khẩu hiệu Cần, Kiệm đi liền với Liêm,
Chính để giáo dục đạo đức cho nhân dân cũng như cán bộ Nhà nước.
Đi đôi với giáo dục đạo đức, Người ban hành pháp luật . Ngày 26-01-1946
Người ký “quốc lệnh” khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Sau khi
Nhóm 10 – XNK 14A 19
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
thành lập chính quyền nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân hãy
tham gia giám sát công việc của Chính phủ.
Trong việc thi hành pháp luật, cái khó nhất là phải đảm bảo được tính vô tư
khách quan, công bằng, bình đẳng đối với mọi công dân trước pháp luật. Chúng ta
làm cách mạng để chống lại những tình trạng bất bình đẳng xã hội, vì thế Người
đòi hỏi pháp luật của ta “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ ở địa vị
nào, làm nghề nghiệp gì”.
Người nói và gương mẫu thực hiện. Trong kháng chiến chống Pháp, Đại tá Trần
Dụ Châu vốn cũng là một người cách mạng, nhưng khi làm cục trưởng cục quân
nhu đã lạm dụng chức vụ, bớt xén phần cơm áo vốn đã rất kham khổ, thiếu thốn
của bộ đội ta để cùng đồng bọn sống phè phỡn, lãng phí, trụy lạc…Vụ án được
khởi tố đưa ra tòa án quân sự y bị lãnh án tử hình. Trần Dụ Châu và gia đình kháng
án lên Hồ Chủ Tịch xin được khoan hồng. Vụ án đã gây cho Bác nỗi đau buồn sâu
sắc, nhưng đối với bọn sâu dân mọt nước, trị một người để cứu muôn người, dù rất
đau long nhưng Người đã ký lệnh bác đơn chống án của Trần Dụ Châu. Vụ án đã
được thi hành.
Người rất đề cao phép nước, “nhân trị” đi đôi với “pháp trị”. Người hết lòng
thương yêu, dạy bảo cán bộ, nhưng kẻ nào lạm dụng tình thương của Người, làm
hại đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và
Nhà nước, thì dù họ có là cách mạng kỳ cựu, là bộ trưởng, thứ trưởng… vẫn phải
được đem ra xét xử theo đúng pháp luật.

Dù hệ thống pháp luật có hoàn chỉnh đến đâu, việc thi hành vẫn không thể tốt
nếu như tăng cường pháp luật không đi đôi với giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán
bộ Nhà nước, trước hết là những người giữ chức năng bảo vệ pháp luật.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp thống nhất, biến chứng giữa giáo dục đạo
đức và tăng cường pháp luật cần được chúng ta kế thừa và phát huy trên con đường
xây dựng một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, trong sạch, vững mạnh, có hiệu quả.
Nhóm 10 – XNK 14A 20
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Phần III: Ý NGHĨA, VẬN DỤNG
1. Ý nghĩa
Với những giá trị khoa học to lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân chính là cơ sở, định hướng cho việc xây dựng, củng cố và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà giờ đây, Đảng ta xác định là
một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện
nay.
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang đứng trước những cơ hội và thách
thức chưa từng có. Xu thế toàn cầu hóa đang phát triển sâu rộng với tốc độ nhanh,
mở ra cơ hội cho các nước chậm phát triển có thể đuổi kịp các nước phát triển.
Nhưng từ chiến tranh chống ngoại xâm chuyển sang hòa bình xây dựng kinh tế, từ
cơ chế quản lí tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lí nhà nước, trong điều kiện mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế, làm ăn với nước ngoài,…đã có sự thay đổi rất nhiều, từ nội dung
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động cho đến yêu cầu về phẩm chất,
năng lực của con người vận hành bộ máy nhà nước. Trong tình hình đó nếu không
có một nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực, tranh thủ
nắm lấy vận hội, thì nước ta khó theo kịp cường quốc năm châu và vững mạnh nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
2. Vận dụng
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, liên hệ với tình hình hiện nay, có thể thấy nổi

lên mấy vấn đề cấp bách sau đây, tập trung đột phá nhằm tạo ra những chuyển biến
rõ rệt.
Phát huy dân chủ đi đối với tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân
Nhóm 10 – XNK 14A 21
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Để vượt lên tình trạng thấp kém của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách về trình
độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới, trong điều kiện cạnh tranh
quốc tế quyết liệt hiện nay, ta không còn đường nào khác là phải “phát huy cao độ
nội lực của dân tộc”, mà một trong những nhân tố cơ bản làm nên nội lực đó là phát
huy dân chủ. Chính khát vọng dân chủ đã tạo nên sức mạnh kiên cường đấu tranh
cho độc lập, tự do. Giành được chính quyền về tay nhân dân rồi thì quyền làm chủ
thật sự của người dân là nội dung đích thực của độc lập, tự do. Bởi như Bác Hồ đã
nói: “Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan
hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”. Bởi
vậy người nhắc nhở: “Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối
không được lên mặt “quan cách mạng, ra lện ra oai”.
Qua đó, có thể thấy dân chủ là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Người, thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được
mọi khó khăn. Mọi chủ trương, đường lối, thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị văn hóa xã hội…đều được Người xem sét và giải quyết từ địa vị người làm chủ
và quyền làm chủ của nhân dân.
Để người dân được hưởng quyền dân chủ trong thực tế, không chỉ xác nhận
quyền đó trong hiến pháp và pháp luật, chủ tịch Hồ Chí Minh còn tạo điều kiện vật
chất và văn hóa để người dân nâng cao năng lực làm chủ: nâng cao dân trí, bồi
dưỡng văn hóa chính trị, phát triển tính tích cực công dân, mở mang kinh tế, cải
thiện đời sống, vật chất và tinh thần cho nhân dân, khuyến khích nhân dân tham gia
giám sát công việc của các cơ quan nhà nước, từ dưới lên trên.

Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực hiện quản
lí xã hội bằng pháp luật. Nhà nước phải tiếp tục thể chế hóa bằng pháp luật các
quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là
Nhóm 10 – XNK 14A 22
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
trong hoạt động kinh tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống
vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật,
đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xét sử nghiêm minh, đúng người,
đúng tội, không phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin cho nhân dân vào tinh
nghiêm minh của pháp Luật nhà nước ta.
Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước, xây dựng một nền hành
chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh
Đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, pháp luật của nhà nước là điều kiện
tiên quyết, song nếu không có một nền hành chính mạnh, có hiệu lực thì chính
sách, luật pháp dù đúng, cũng không thể đi vào cuộc sống. nền hành chính yếu kém
là một trợ lực lớn cho đổi mới và phát triển. Do đó, cải cách và kiện toàn bộ máy
hành chính đang là một yêu cầu bức xúc. Nhân dân mong mỏi được sống và làm ăn
trong một môi trường an ninh, trật tự, dân chủ, không bị phiền hà, sách nhiễu,
người ngay được bảo vệ, kẻ gian bị trừng trị.
Cải cách hành chính để có một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc
lực nhân dân, giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội theo pháp luật. nó phải phục vụ tận
tụy, công tâm, đáp úng yêu cầu hàng ngày về quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
Muốn thế, bán thân nó phải trong sạch và có kỷ cương, phải thanh toán được những
căn bệnh mà từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng,
chia rẻ, kiêu ngạo, “lúc nào cũng vác mặt” quan cách mạng lên.không biết rằng,
thía độ kiêu ngạo đó sẻ làm mất lòng tin cậy của dân, sẻ hại đến uy tín của chính
phủ. Tóm lại, phải phấn đấu xóa bỏ ấn tượng hiện nay trong nhân dân: hành chính
là hành dân là chính!
Những vấn đề bức xúc nổi lên hiện nay thường biểu hiện tập trung ở các cơ
quan hành chính hàng ngày có quan hệ tiếp xúc trực tiếp với nhân dân. Cần phải

làm cho đội ngủ cán bộ, viên chức quán triệt nhận thức: Nhà nước là một tổ chức
công quyền thể hiện quyền lực của nhân dân, nhân viên nhà nước là công bộc của
Nhóm 10 – XNK 14A 23
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
nhân dân. Bên cạnh chức năng quản lí nhà nước,các cơ quan hành chính còn có
chức năng dịch vụ công. Để nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, cần thiết phải:
1. Cải cách thủ tục hành chính, ban hành và hoàn thiện chế độ công vụ.
2. Đề cao trách nhiệm giải quyết khiếu kiện của nhân dân, sao cho thủ tục khiếu
nạy đơn giản, nhanh chóng đúng pháp luật, không để nhân dân phải tốn nhiều thời
giờ, công sức đi lại, do tình trạnh đùn đẩy, “kính chuyển” vòng vo.
3. Sắp xếp lại đội ngủ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn, thực
hiện tinh giản biên chế; xử lí nghiêm minh, kịp thời những người vi phạm pháp
luật.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; gắn liền xây dựng,
chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính
Những năm gần đây, Đảng ta có nhiều nghị quyết về củng cố và tăng cường bộ
máy nhà nước, đấu tranh chống các tệ nạn làm suy giảm uy tín vả hiệu lực của Nhà
nước. tuy nhiên, yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, cửa
quyền, trù dập ức hiếp nhân dân,…đang đòi hỏi ở Đảng ta một sự tập trung hơn
nữa, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “cuộc vận động này là một cuộc cách
mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới,
giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư và kẻ địch là tệ
nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
Cuộc đấu tranh để khắc phục những khuyết tật của bộ máy nhà nước không thể
tách rời cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh thì Nhà nước manh.
Không thể có một Đảng mạnh mà nhà nước và hệ thống hành chính của nó lại yếu
kém. Để chỉnh đốn lại bộ máy nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, Đảng
phải tự chỉnh đốn, phải nêu gương về mặt trong sạch, vững mạnh. Đó là nhân tố cơ
bản và then chốt. Chỉ có sự lảnh đạo của một đảng trong sạch, vững mạnh mới đưa
cải cách bộ máy nhà nước đi đến thành công.

Nhóm 10 – XNK 14A 24
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Khi nghiên cứu tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước, đọc lại những gì
Người đã viết, đã nói về xây dựng Nhà nước, chúng ta càng thấy những việc,
những vấn đề mà Người đã đề cập đến trong lĩnh vực này vẫn còn nguyên giá trị,
còn mang tính thời sự nóng hổi đối với công cuộc xây dựng Nhà nước ta hiện nay.
Những tư tưởng đó của Người rất cần chúng ta nghiên cứu, kế thừa và phát huy
trên con đường xây dựng một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, trong sạch, vững
mạnh và có hiệu quả
Nhóm 10 – XNK 14A 25

×