Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHĨ TIẾP VỀ VAI TRÒ CỦA CHỦ THỂ SÁNG TẠO VÀ CHỦ THỂ TIẾP NHẬN VĂN HỌC" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.49 KB, 8 trang )



69
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 51, 2009



NGH
Ĩ TIẾP VỀ VAI TRÒ CỦA CHỦ THỂ SÁNG TẠO
VÀ CH
Ủ THỂ TIẾP NHẬN VĂN HỌC



Hồ Thế Hà
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

TÓM TẮT
Sáng tạo văn học là một quá trình đặc thù. Trong đó, vai trò của chủ thể sáng tạo và
chủ thể tiếp nhận được xem là nhân tố quyết định sự tồn tại của một tác phm. Trước đây, người
ta luôn coi trọng vai trò của chủ thể sáng tạo và thường xem nhẹ vai trò của chủ thể tiếp nhận.
Nhưng đến thời hiện đại, lý luận văn học, đặc biệt là mỹ học tiếp nhận hiện đại lại đề cao gần
như tuyệt đối vai trò của chủ thể tiếp nhận. Và tác giả hết vai trò của mình khi tác phm đến với
người đọc. Đó là một quan niệm có phần thái quá và bất công. Mục tiêu bài viết của chúng tôi
là muốn xác định lại vai trò bình đẳng của chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận trong quá trình
sáng tạo văn học.
I. Lý luận văn học từ xưa đến nay đều xem tác phNm văn học là đối tượng trung
tâm c
ủa mọi hoạt động văn học. Tuy vậy, giữa các thời kỳ, có sự quan niệm khác nhau
v
ề tác phNm văn học. Lý luận văn học truyền thống đề cao vai trò của tác phm và hiện


th
ực thm mĩ. Socrat là người chú tâm đến thuyết mô phỏng, còn Aristôte cũng coi
tr
ọng sự bắt chước, sự mô phỏng hiện thực, để thanh lọc tâm hồn con người, gây thích
thú cho ng
ười đọc. Thuyết mô phỏng của Aristote đã được ông đNy lên thành lý thuyết,
thành h
ệ thống thi pháp mang tính qui phạm, nhất là đối với công việc sáng tác thi ca.
Chúng có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến mỹ học, lý luận văn học thời Phục hưng, sau đó là
Ch
ủ nghĩa cổ điển và thời kỳ Khai sáng Các thời kỳ này, mỹ học của Aristote vẫn
được xem là mẫu mực, là phNm chất cổ điển, chứ người ta chưa thấy sự hạn chế của nó
trong quá trình sáng t
ạo của người nghệ sĩ, kể cả quá trình tiếp nhận của người đọc. Ở
đấy, vai trò của chủ thể sáng tạo đối với hiện thực thông qua lý thuyết phản ánh được
hình thành và phát tri
ển, tạo thành mỹ học từ thời Trung cổ đến thời Khai sáng; đặc biệt
đến chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX, thì vấn đề tác giả - hiện thực càng trở thành
nguyên t
ắc sống còn. Và thực tế, nó cũng đã tạo ra được những tác giả, tác phNm lớn.
Tuy v
ậy, không phải nhà văn nào cũng có cách hiểu giống nhau về văn học và hiện thực,
tác gi
ả và hiện thực. Đến thời kỳ hiện đại, lý luận văn học đã có sự phân biệt giữa văn
b
ản và tác phm văn học, nhất là vai trò của người đọc trong quá trình biến văn bản
thành tác ph
m, thành những giá trị văn học. Đặc biệt, khi Mỹ học tiếp nhận hiện đại ra
đời, thì vai trò của người đọc được xem như nhân tố quyết định sự tồn tại của tác phNm.



70
Và qua thời gian, qua nhiều thế hệ người đọc, những giá trị mới của tác phNm văn học
được làm đầy từ tính chỉnh thể nội tại của nó mà các nhà lý luận văn học gọi là khoảng
tr
ống vô thức của tác giả biến thành khoảng trống vô thức của nhiều thế hệ người đọc.
N
ếu lý luận văn học và mỹ học truyền thống, kể cả lý luận văn học mácxít sau
này
đều coi trọng tác giả trong quan hệ với hiện thực khi giải mã tác phNm, thì lý luận
v
ăn học và mỹ học tiếp nhận hiện đại lại quan tâm khám phá bản thể của văn bản nghệ
thu
ật với nhiều quan hệ khác nhau, trong đó, quan trọng nhất là quan hệ với người đọc.
Nhi
ều nước trên thế giới, sớm muộn có khác nhau, đều hưởng ứng và tìm thấy sự mới
m
ẻ, tích cực của quan niệm này. Và trong thực tế nghiên cứu, phê bình, tiếp nhận, nhiều
công trình
đã đạt thành tựu mới mẻ theo hướng nghiên cứu này. Theo đó, nhiều tác
ph
Nm lý luận văn học ở Việt Nam đã đồng thuận và đề xuất hệ thống lý luận và nghiên
c
ứu tác phNm văn học theo quan niệm này. Phương Lựu với công trình Lý luận phê bình
v
ăn học phương Tây thế kỉ XX và Lý luận văn học (chủ biên), Trương Đăng Dung với
T
ừ văn bản đến tác phm văn học và Tác phm văn học như là quá trình, Trần Đình Sử
v

ới Lý luận và phê bình văn học, Đỗ Lai Thúy với công trình phê bình phong cách thơ
m
ới Con mắt thơ, Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương với Lý luận văn học - Vấn
đề và suy nghĩ, Lê Ngọc Trà với Lý luận văn học đã chính thức đề cập đến vai trò của
ng
ười đọc (chủ thể tiếp nhận). Tất cả các nhà lý luận văn học trên đều thừa nhận tác
ph
m chỉ tồn tại khi tồn tại người đọc, dù mỗi người có cách quan niệm và lý giải khác
nhau (trong bài vi
ết ngắn này, chúng tôi xin không lược trích quan niệm của từng nhà
nghiên c
ứu). Dù vậy, trong thực tiễn nghiên cứu, phê bình ở Việt Nam cũng không tuyệt
đối vai trò của người đọc như các nước trên thế giới mà trong từng trường hợp cụ thể,
các nhà lý lu
ận phê bình có chú ý đến chủ thể sáng tạo. Nhưng ý hướng xem người đọc
là trung tâm v
ẫn được phát biểu chính thức trong các công trình nghiên cứu, nhất là
trong 3 th
ập niên trở lại đây. Vấn đề là ở chỗ chủ thể tiếp nhận đã nhận thức, đánh giá
và gi
ải mã tác phNm văn học như thế nào, trong trạng thái cảm hứng nào và với trình độ
v
ăn hóa, nghệ thuật và vốn sống như thế nào. Do vậy, vấn đề tài năng của người thưởng
th
ức trở nên quan trọng, quyết định sự làm đầy những giá trị mới cho tác phNm văn học,
tránh tr
ường hợp tiếp nhận võ đoán, thái quá và phi lý, đi xa với bản chất thNm mĩ và
c
ấu trúc chỉnh thể nội tại của tác phNm. Vì vậy, chỉ có chủ thể tiếp nhận đồng sáng tạo
hay ch

ủ thể tiếp nhận lý tưởng chỉ ra những nội hàm mới mẻ, độc đáo của tác phNm mới
được xem là có khả năng tạo nghĩa, tạo giá trị mới cho tác phNm. Dĩ nhiên, yếu tố quan
tr
ọng trung tâm để phát hiện, làm đầy những khoảng cách thNm mỹ giữa tác phNm và
ng
ười đọc đồng sáng tạo - người đọc lý tưởng, không gì khác ngoài ngôn ngữ. Bắt buộc
ng
ười đọc, trước hết, phải là người am tường và có năng lực ngôn ngữ, sau đó, mới nói
đến tâm thế thm mỹ, tiềm năng văn hóa và tiềm năng nghệ thuật để biến ngôn ngữ của
tác ph
Nm văn học (thông qua các phương thức, phương tiện thể hiện cuộc sống bằng
hình t
ượng) thành cấu trúc mở, thành “cấu trúc ngôn từ động”, thành quá trình tạo nghĩa
- t
ạo sinh nghĩa mà nhà thi học R. Jakobson đã khẳng định “Văn học không phải là cái
gì khác, mà chính là ngôn ng
ữ được tổ chức một cách đặc biệt”. Vì đặc biệt nên đem lại


71
nhiều phát hiện mới, nhiều giá trị mới ở người tiếp nhận (cả lịch đại và đồng đại).
Nh
ư vậy, thông qua người đọc, đời sống của văn bản và thực chất của văn bản là
gì? Và
đâu là bản chất, quy luật; đâu là thành tựu và đâu là hạn chế của mối quan hệ
này? Có nhi
ều quan niệm và cách lý giải về bản chất của người đọc. Dù có chỗ gặp gỡ
ho
ặc giao thoa hay khác biệt, thì cái lõi của vấn đề vẫn là xác nhận vai trò chủ động của
ng

ười đọc. Khi tiếp nhận tác phNm, Aristote gọi là sự thanh lọc tâm hồn; còn trong văn
h
ọc trung đại Việt Nam và Trung Hoa thì xem trọng sự tri âm, ký thác, mà ở đó, tác giả
và ng
ười đọc hiểu nhau, đồng điệu, thì tự nó, tác phNm nghệ thuật đã đạt đến sự viên
thành.
Đến mỹ học tiếp nhận văn học hiện đại, vấn đề tác phNm ngày càng được tiếp
t
ục khám phá. Những vấn đề như đặc trưng, bản chất và các mối quan hệ của tác phNm
được ý thức sâu sắc hơn. Không phải ý thức về mối quan hệ giữa tác phm với tác giả
là quan tr
ọng mà trái lại, ý thức về mối quan hệ giữa tác phm với người đọc mới là
m
ục đích và là đột phá mới. Người đọc qua các giai đoạn, các thời kỳ sẽ luôn đồng hành
và làm
đầy những ý nghĩa, giá trị mới cho tác phNm - dĩ nhiên là còn tùy thuộc vào quan
ni
ệm tiếp nhận của từng trường phái, từng khuynh hướng. Càng về sau, quan hệ trên
càng hoàn thi
ện và có bổ sung sâu sắc hơn và có cả phức tạp hơn (Hiện tượng học của
Husserl, T
ường giải học của Heiddegger, Quan niệm của Roman Ingarden trong Tác
ph
m văn học, của Phê bình ấn tượng chủ nghĩa, của Trường phái cấu trúc - Ký hiệu
h
ọc, của Hiện tượng luận, Tường giải học của H. G. Gadamer ).
Điều ấy, cho thấy vai trò của người đọc luôn được nhìn nhận bổ sung và điều
ch
ỉnh để phù hợp với bản chất của tác phNm văn học - loại hình nghệ thuật lấy ngôn ngữ
làm ch

ất liệu. Mà ngôn ngữ - vỏ vật chất của tư duy lại có khả năng vừa cụ thể hóa, vừa
tr
ừu tượng hóa, vừa ảo hóa, mơ hồ hóa nên sự khác biệt trong tiếp nhận, trong việc tạo
ngh
ĩa ở người đọc là một quá trình liên tục. Có thể xem ngôn ngữ chính là tiềm năng
ch
ủ động trước tiên về khả năng tạo nghĩa, rồi sau đó nó mới tác động đến tiềm năng tạo
ngh
ĩa của người đọc trong từng tình huống, từng hoàn cảnh và tâm lý tiếp nhận. Như
v
ậy, tác phNm giúp nâng cao trình độ cảm thụ cho người đọc. Và đến lượt mình, người
đọc đối thoại và tái tạo nghĩa bổ sung cho tác phNm.
V
ới thực tiễn và hệ quả trên, rõ ràng, mỹ học tiếp nhận hiện đại đã có công rất
l
ớn trong việc tạo ra hệ thống lý luận mới mẻ, làm cho văn học nhân loại có sự chuyển
động, đổi mới cách nhận thức về quá trình văn học, về vai trò của tác phm và người
đọc, làm cho tác phNm trở nên sinh động, đa nghĩa và luôn ở trong khả năng mới đối với
t
ừng tầm đón nhận và đón đợi của nhiều thế hệ người đọc - đặc biệt là người đọc tài
n
ăng, cao cấp. Ở Việt Nam ta, những thập niên vừa qua, vận dụng kinh nghiệm và sự
ti
ếp biến hệ thống lý luận nói trên cũng đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc
nhìn nh
ận, tiếp thu và đánh giá lại nhiều hiện tượng văn học, trào lưu văn học một cách
kh
ả thi và mới mẻ, lấp đầy những khoảng trống và sai lầm - do chịu ảnh hưởng của mỹ
học tiếp nhận truyền thống. Những người đi đầu trong thành tựu trên là Phương Lựu,



72
Trần Đình Sử, Trương Đăng Dung, Lê Ngọc Trà, Đỗ Lai Thúy, Trần Ngọc Vương, Trần
Nho Thìn, Ph
ạm Vĩnh Cư, Nguyễn Văn Dân, Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân Qua
các công trình c
ủa các nhà lý luận, phê bình văn học nói trên, giúp chúng ta thấy nội
dung, ch
ất lượng của văn học không phải chỉ là tổng số của các văn bản mà quan trọng
h
ơn chính là sự phát hiện bổ sung về chất lượng thNm mỹ của các tác phNm đó trong
l
ịch sử tiếp nhận và giải cấu trúc của người đọc.
II. Nh
ư một quy luật, nếu mọi thành tựu mới đã phát hiện ở thành tựu cũ những
gi
ới hạn của nó, thì đến lượt mình, sớm muộn gì, thành tựu mới cũng nảy sinh giới hạn
mà nh
ững người đi sau phát hiện ra. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến một khía cạnh
ng
ược lại là dù đề cao và chuyển trọng tâm của quá trình văn học vào chủ thể tiếp nhận

đúng và thành tựu của nó là không chối cãi, nhưng không phải mọi vấn đề đều trở
nên “nh
ất thành bất biến”. Vì điều đó, có thể đúng với tác phNm và tác giả quá khứ hoặc
v
ới tác phNm mà tác giả của chúng đã qua đời hay vì lý do nào đó mà họ không có trách
nhi
ệm với tác phNm của mình khi nó được ra mắt bạn đọc thì đối với các tác giả đương
đại, hiện còn sống, họ luôn quan tâm đến số phận tác phNm của mình sau khi được xã

h
ội hóa, thì cần phải có quan niệm bổ sung. Nghĩa là, lý luận văn học hiện đại cần phải
nhìn nh
ận lại vai trò của văn học, trong đó, vai trò của tác giả - chủ thể sáng tạo cần
ph
ải được chú ý giống như vai trò của người đọc - chủ thể đồng sáng tạo. Bởi vì, không
ph
ải sau khi tác phNm của họ đến với công chúng bạn đọc, thì họ không ngó ngàng gì
t
ới nó nữa, mà trái lại, hơn ai hết, họ là người theo dõi, hồi hộp, vui buồn và trăn trở
cùng v
ới nó. Và cao hơn, chính họ tham gia vào quá trình đọc, thNm định lại, lấp đầy
nh
ững khoảng trống vô thức trong khi sáng tạo mà họ chưa kịp nghĩ đến để tạo ra ý
ngh
ĩa mới cho tác phNm của mình. Họ có thể sửa chữa, nâng cấp cho các lần tái bản về
sau, ho
ặc họ tự mình nâng cao trình độ nghệ thuật cho các tác phNm mới sắp chào đời.
C
ứ thế, họ cũng là chủ thể tích cực trong quá trình sáng tạo và tiếp nhận, tiếp nhận và
tái sáng t
ạo. Chưa kể, những tác giả văn học đồng thời là nhà lý luận - phê bình văn học
t
ầm cỡ. Trên thế giới, có Léonard de Vinci, Shakespeare, H. de Balzac, C. Baudelaire,
Milan Kundera
Ở Việt Nam như Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nam Cao,
Nguy
ễn Đình Thi, Tố Hữu, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải
Nh
ững trường hợp như trên rõ ràng là, hơn ai hết, họ là người có chức năng kép: vừa

sáng t
ạo, vừa nâng tầm vóc của văn chương lên tầm cao mới, vừa phá và thay để tác
động và định hướng nhận thức thNm mỹ cho người đọc, để nâng tầm đón nhận, đón đợi
cho ng
ười đọc, trước khi, tự người đọc làm nhiệm vụ đó trong từng hoàn cảnh và tâm
th
ế cụ thể. Hans Robert Jauss cũng đã rất sâu sắc khi phân biệt và chỉ ra tầm đón nhận
chính là t
ừ bên trong văn bản nghệ thuật. Điều mà, theo ông, cái ảnh hưởng được quyết
định thông qua văn bản và sự tiếp nhận liên quan đến người đọc của một xã hội nhất
định, gọi là yêu cầu xã hội. Liên quan đến điều này, ông đNy xa quan niệm của mình lên
c
ấp độ ý nghĩa mới của lý luận mà ông gọi là “Sự căng thẳng giữa văn bản và sự tiếp
nh
ận văn bản là quá trình”. Quá trình ấy, cũng nói như nhà thi học nổi tiếng R. Jakobson
là nh
ờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ có tính vạn năng và luôn luôn tạo nghĩa nhờ cách tổ chức


73
đặc biệt của nhà văn trong tác phNm: “Văn học không phải là cái gì khác, mà chính là
ngôn ng
ữ được tổ chức một cách đặt biệt”. Mà trước tiên, không ai khác, chính là nhà
v
ăn sáng tạo ra ký hiệu ngôn ngữ đặc biệt cho tác phNm của mình. Vậy, nếu lý luận và
m
ỹ học hiện đại chỉ tập trung vào vai trò đồng sáng tạo của người đọc thì sẽ khó trả lời
m
ột cách thuyết phục thực tế như trên, khi họ cho rằng tác giả “đã chết” khi văn bản trở
thành tác ph

Nm - thông qua người đọc.
Nên ch
ăng, cần phải lý giải và đặt tác giả ngang hàng, nếu không muốn nói là
cao h
ơn người đọc, bởi vì, chính họ là người liên tục sáng tạo, liên tục cách tân, liên tục
làm
đầy những ý nghĩa và nội dung thNm mỹ mới cho tác phNm trong từng chặng đường
sáng tác, luôn t
ạo ra thực đơn tinh thần kỳ lạ, độc đáo cho người đọc. Tức là những dự
c
ảm và ý thức sáng tạo của nghệ sỹ trong từng thời điểm, từng bước ngoặt chuyển mình
c
ủa đời sống xã hội luôn được họ suy tư, nghiền ngẫm và thể nghiệm. Họ là người
ti
ền trạm của tâm hồn và nghệ thuật. Sau đó, mới đến lượt người đọc tìm đến và thưởng
th
ức, chiêm cảm theo tâm thế, góc nhìn riêng, vốn văn hoá riêng, vốn nghệ thuật riêng
c
ủa mình. Hơn ai hết, nghệ sĩ là người luôn năng động trong việc tìm tòi, trang bị kiến
th
ức và miêu tả cái mới, cái cần phải tồn tại bên cạnh cái đang tồn tại mà chứng chỉ hiển
minh nh
ất của họ là chất lượng tác phNm, làm thành từ trường văn học cho toàn xã hội.
GS. Ph
ương Lựu cho rằng: Nhờ thế "Nghệ thuật dần dần trở thành không phải chỉ là
tr
ường học của sự sáng tạo thNm mĩ mà còn là trường học trau dồi năng lực sáng tạo nói
chung c
ủa con người" (8, 172). Với những lý do trên, theo tôi, các nhà lý luận cần xác
định lại một lần nữa mối quan hệ giữa nhà văn - tác phm - người đọc một cách khách

quan, bi
ện chứng hơn.
Riêng v
ề phía người đọc (chủ thể tiếp nhận) cũng cần phải nhìn nhận và xác
định lại một cách thực tế. Cần phân biệt người đọc cấp bình thường và người đọc lý
t
ưởng - người đọc tài năng để thấy sự cộng hưởng, sự đồng sáng tạo ở mỗi kiểu người
đọc là hoàn toàn không giống nhau, có khi trái ngược nhau, làm nhiễu "lượng thông tin"
th
Nm mỹ vốn có và ổn định trong từng tác phNm. Dĩ nhiên là lý luận của mỹ học tiếp
nh
ận hiện đại chú mục vào người đọc lý tưởng để chuyển quá trình tác giả - tác phm
thành quá trình tác ph
m - người đọc. Nhưng dù vậy, theo tôi, vấn đề người đọc vẫn có
nh
ững chỗ còn bỏ ngỏ, chưa bàn tới nơi, tới chốn. Ví như vấn đề trình độ, sự nhạy bén
và v
ốn sống của người đọc không phải lúc nào cũng hơn nhà văn và thường trực, năng
động như nhà văn. Cho nên, trước những hiện tượng văn học mới, trước các khuynh
h
ướng, trường phái văn học mới ra đời, thì người đọc sẽ lúng túng và có một khoảng
cách gi
ới hạn thNm mĩ nhất định trong thưởng thức. Họ không kịp trang bị cho mình
nh
ững cơ sở, tiền đề cần thiết để tiếp nhận đúng, tiếp nhận đồng sáng tạo có giá trị.
Ch
ưa kể, có trường hợp hiểu sai, đọc sai quá xa với tính tự trị của tác phNm, khi ấy sẽ
d
ẫn đến hậu quả như thế nào đối với việc định hướng nhận thức thNm mĩ cho công
chúng?

Đó là những câu hỏi cần đặt ra để tiếp tục làm sáng tỏ cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Soi vào v
ăn học hậu hiện đại trên thế giới hiện nay, sẽ thấy vấn đề trên trở nên phức tạp


74
vô cùng. Và thực tế là, trước một hiện tượng văn học cụ thể, tầm đón đợi và đón nhận
c
ủa từng người đọc, rộng ra của từng dân tộc, thì sự nhận thức về nó rất khác nhau,
th
ậm chí gần như trái ngược nhau - chưa kể quá khác xa với ý đồ nghệ thuật ban đầu
c
ủa tác giả. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp, lúc này hiểu sai thì có lúc khác sẽ hiểu đúng
và th
ống nhất. Như vậy, để cho quá trình tiếp nhận không đến nỗi phức tạp, lệch pha thì
vai trò và kh
ả năng cần có của người đọc trong tính liên tục của tiến trình văn học là gì?
Ng
ười đọc có cần phải đào tạo, tự đào tạo để đón đầu những khả năng, tiềm năng văn
ch
ương giai đoạn tiếp theo nhằm định hướng, dự báo tầm đón đợi cho tác giả không?
Và n
ếu có, thì bằng cách nào để thông điệp đến nhà văn những điều còn mơ hồ, trừu
t
ượng trong đầu óc của họ để nhà văn được hỗ trợ, được mách bảo từ người đọc, để họ
nâng cao và cách tân ngh
ệ thuật của mình? Rõ ràng là sẽ đụng đến những vấn đề có tính
nan gi
ải và không ít thắc mắc. Vì người đọc thường hiếm khi thông điệp và tuyên bố
điều đó bằng những công trình lý luận của mình trước khi nhà văn sáng tạo ra tác phNm

(ngo
ại trừ các nhà lý luận văn học). Trong khi ấy, nhà văn thì ngược lại, lúc nào cũng
hi
ện hữu hình hài câu chữ, nhân vật của mình bằng tác phNm. Vậy, hoá ra, người đọc chỉ
d
ựa vào tác phNm mới trở thành người đồng sáng tạo. Chính điều này đã cho thấy lý
lu
ận về việc lấy vai trò của người đọc làm trung tâm trong quan hệ với tác phm của mỹ
h
ọc tiếp nhận hiện đại cũng có những hạn chế và lúng túng trong từng trường hợp và
th
ử thách cụ thể, nhất là khi bản thân văn học có những bước phát triển đột biến và phức
t
ạp. Và thực tế, nền văn học của bất kỳ dân tộc nào cũng luôn diễn ra và luôn tạo những
b
ất ngờ để tự làm đầy, làm mới những giá trị cho chính bản thân dân tộc mình và cho cả
th
ế giới (đặc biệt là các nền văn học lớn).
Nh
ưng như một quy luật, biết giới hạn thì sẽ vượt được giới hạn để tạo ra sự hợp
lý m
ới. Bởi vì, xét cho cùng, giới hạn chỉ nảy sinh từ những thành tựu đã có. Cứ thế,
thành t
ựu và giới hạn sẽ diễn ra theo quy luật phủ định của phủ định, tức phủ định có kế
th
ừa để tiếp tục dự báo khả năng mới, quan hệ mới, kinh nghiệm mới. Thoát giới hạn là
cách t
ốt nhất cần phải nỗ lực, không phải của một mà của nhiều người. Và phải mất
nhi
ều thời gian, công sức. Bởi không có gì là chân lý vĩnh cửu cả. Vậy, thay đổi bổ sung

v
ề quan niệm kiểu người đọc và kiểu người viết, có kế thừa thành quả của mỹ học tiếp
nh
ận hiện đại là cần thiết và hợp quy luật khách quan. Vì bản thân văn học đương đại
đang, sẽ vận động với tốc độ nhanh và bất ngờ, có khả năng đi trước, vượt tầm đón nhận

đón đợi của người đọc; nó có tính chủ động, tích cực hơn. Còn lý luận văn học thì
bao gi
ờ cũng sẽ tổng kết và trừu xuất từ cả hai phía sáng tạo và tiếp nhận. Cho nên,
trong quan h
ệ cùng thời giữa tác giả - tác phm - người đọc, xét ở thời đương đại, vẫn
luôn luôn làm cho khoa nghiên c
ứu văn học đứng trước những thử thách, bổ sung và
th
ức nhận mới. Có thể sơ đồ hóa quá trình sáng tác văn học và tiếp nhận văn học đó như
sau:


75






Qua s
ơ đồ trên (xét ở tính đồng thời, đương đại giữa tác giả - tác phNm - người
đọc), chúng tôi mạo muội đề cao ngang như nhau vai trò của chủ thể sáng tạo và chủ
th
ể tiếp nhận. Và có phần ưu tiên hơn cho chủ thể sáng tạo. Vì chính họ là chủ thể năng

động, liên tục nghiền ngẫm, đề xuất và liên tục sáng tạo bằng tác phNm và bằng hiệu
qu
ả nghệ thuật ở từng tác phNm. Rồi thứ đến mới là người đọc, đặc biệt là người đọc
đồng sáng tạo. Chúng tôi cũng đồng ý với ý kiến của Trương Đăng Dung rằng "Lý
thuy
ết mỹ học tiếp nhận không chỉ tạo ra khả năng để chúng ta xem xét ý nghĩa và hình
th
ức của tác phNm văn học trong sự phát triển của sự hiểu, mà còn đòi hỏi chúng ta phải
đưa từng tác phNm vào “dòng chảy văn học” phù hợp, để qua đó chúng ta nhận biết
được - trong những liên kết của quan niệm văn học - vị trí và ý nghĩa lịch sử của chúng"
[5, 197]. Trong tình hình th
ực tiễn và thành tựu của văn học hậu hiện đại diễn ra trên thế
gi
ới hiện nay, chúng tôi nghĩ, nên có sự điều chỉnh mối quan hệ như trên để có cái nhìn
khách quan và công b
ằng hơn.
TÀI LI
ỆU THAM KHẢO
1. Aristôte. Nghệ thuật thơ ca, NXB. Văn học, Hà Nội (1999)
2. Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến, Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn đề lý
thuyết, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội (2003)
3. Roland Barther. Độ không của lối viết (Nguyễn Ngọc dịch), NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
(1997)
4. Trương Đăng Dung, Từ văn bản đến tác phm văn học, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội
(1998)
5. Trương Đăng Dung. Tác phm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
(2004)
6. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, NXB.
Giáo dục, Hà Nội (1995)
7. Phương Lựu, Tiếp nhận văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội (1997)

8. Phương Lựu chủ biên, Lý luận văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội (1997)

Hiện thực

Tác giả
Văn bản
ngh
ệ thuật

Người đọc

Hiện thực
Tác phm
ngh
ệ thuật

Sáng tạo lại,

Sáng tạo mới


Tự thưởng thức
-
Tự đánh giá lại

-

- Thưởng thức
- Phát hiện
giá trị mới




Tiếp nhận
đồng sáng tạo



76
9. Phương Lựu, Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, NXB. Giáo dục, Hà Nội
(2001)
10. Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội (1997)

GO ON THINGKING ABOUT THE AUTHORS AND READERS’ ROLE
Ho The Ha
College of Sciences, Hue University
SUMMARY
Creating literature is a process in which the authors and the readers take important
roles. However, in the traditional literature theory, the authors’role used to receive great
attention while the modern literature theory, especially, the theory of modern conceptive
aesthetics focusses on the readers’role. It is said that the authors die as soon as the works are
conceived by the readers. The readers’ role is considered as a significant factor for the existence
of the works. These are subjective conceptions.
The purpose of this article is to reaffirm the equal roles of the readers and the authers.

×