Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " XÁC ĐNNH CHỈ SỐ NGHÈO TỔNG HỢP (HPI) Ở CÁC KHU TÁI ĐNNH CƯ THÀNH PHỐ HUẾ" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.34 KB, 7 trang )


79
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 50, 2009

XÁC ĐNNH CHỈ SỐ NGHÈO TỔNG HỢP (HPI)
Ở CÁC KHU TÁI ĐNNH CƯ THÀNH PHỐ HUẾ

Lê Thị Nguyện
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
TÓM TẮT
Để đánh giá sự phát triển của một quốc gia, một lãnh thổ hay một khu vực có thể sử
dụng nhiều chỉ tiêu, nhưng để đánh giá mức độ nghèo khổ thì dùng chỉ số HPI. Đối với dân
nghèo ở các khu tái định cư thành phố Huế, chỉ số HPI vẫn còn khá cao so với tỉnh Thừa Thiên
Huế (HPI = 17,49) và so với cả nước (HPI = 15). Điều này nói lên rằng việc hình thành các
khu tái định cư không phải đơn thuần chỉ là để thay đổi nơi định cư cho dân nghèo mà cần phải
quan tâm đến sự thay đổi chất lượng cuộc sống của họ.
I. Mở đầu
Qua
điều tra năm 1979, thành phố Huế có 3.669 cư dân vạn đò và năm 1991 đã
t
ăng 6.278 người. Theo số liệu mới nhất, năm 2007, thành phố Huế có khoảng 1.000 hộ
dân v
ạn đò, tương ứng khoảng 8.000 nhân khNu đang tập trung ở các phường Phú Bình,
Phú Hi
ệp, Phú Hậu và Vĩ Dạ. Với cuộc sống lênh đênh trên sông nước từ bao đời nay,
c
ư dân vạn đò rất khó có thể cải thiện được cuộc sống do điều kiện sống không đảm bảo,
không
ổn định. Hơn nữa, chính sự tồn tại của cộng đồng dân cư này là mầm mống xuất
hi
ện các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự và đặc biệt là vấn đề vệ


sinh môi tr
ường của thành phố. Dưới chế độ cũ, cư dân vạn đò không những không được
quan tâm, giúp
đỡ mà còn bị miệt thị với tên gọi là dân “nốôc”, cuộc sống của họ gần như
d
ần dần bị tách khỏi cộng đồng cư dân trên đất liền.
Ngay sau ngày
đất nước thống nhất, mặc dầu còn nhiều công việc bề bộn nhưng
chính quy
ền cách mạng đã kịp thời quan tâm, cũng cố chính quyền địa phương nhằm dễ
qu
ản lý và tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt cho cư dân thuỷ diện và cả dân nghèo trong
khu v
ực sớm được ổn định cuộc sống. Với sự quan tâm này, các khu tái định cư ở thành
ph
ố Huế đã lần lượt ra đời. Tuy nhiên, theo thời gian, cuộc sống của cộng đồng dân
nghèo
ở các khu tái định cư vẫn chưa được cải thiện nhiều, tỉ lệ số hộ nghèo đói vẫn còn
khá cao.
Điều này sẽ được phản ánh qua chỉ số nghèo tổng hợp (HPI).
II. N
ội dung
2.1. L
ịch sử hình thành và biến động quy mô dân số ở các khu tái định cư
(TĐC)
T
ừ năm 1976, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế cùng với thành phố Huế đã vận
động nhiều hộ dân vạn đò và nhiều cụm gia đình nghèo trên đất liền đi lập nghiệp tại
các vùng kinh t
ế mới như Lương Miêu, Bình Điền, Hương Bình, Bình Thành thuộc


80
tỉnh Thừa Thiên Huế và kể cả các khu kinh tế mới xa hơn, như Tây Nguyên, Sông Bé
(c
ũ), Chủ trương này đã được nhân dân đồng tình ủng hộ, vì vậy, cư dân vạn đò về cơ
b
ản đã được giải quyết dứt điểm nơi định cư.
Tuy nhiên, vào những năm đầu thập niên 80, do sự buông lỏng quản lý của một
s
ố chính quyền phường, xã, đồng thời nhiều người dân tái định cư tại các khu kinh tế
m
ới cảm thấy bất lực trong việc ổn định cuộc sống nên những cộng đồng cư dân vạn đò
đã hình thành trở lại và phát triển một cách nhanh chóng ở những phường có sông ngòi
nh
ư Kim Long, Vĩ Dạ, Phú Hiệp, Phú Bình, Phú Cát, Vĩnh Ninh, Phường Đúc,
C
ơn bão lịch sử năm 1985 xảy ra ở Huế đã làm hư hỏng nhiều thuyền bè của cư
dân v
ạn đò, tạo nên một áp lực lớn cho họ về vấn đề cư trú. Trước tình hình đó, chính
quy
ền thành phố Huế được sự quan tâm của Tỉnh và Trung ương đã tạo điều kiện để
nh
ững hộ dân vạn đò gặp nạn lên định cư trên đất liền. Khu TĐC Vĩ Dạ và Phú Bình đã
ra
đời trong hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, do được hình thành trong điều kiện cấp bách nên
các khu T
ĐC này không được quy hoạch cụ thể, hệ thống cơ sở hạ tầng nơi đây hầu như
ch
ẳng có gì, chất lượng nhà ở ngày càng xuống cấp nghiêm trọng, tiện nghi sinh hoạt
không b

ảo đảm, môi trường ngày càng ô nhiễm, người dân tỏ ra chán nản nơi ở của
mình, vì v
ậy đã ảnh hưởng đến đời sống của họ rất nhiều.
Trước thực trạng đó, UBND thành phố Huế được sự hỗ trợ của Tỉnh và Trung
ương đã tiến hành những bước có kế hoạch cụ thể hơn trong việc di dời dân vạn dò trên
sông H
ương thuộc địa bàn thành phố Huế (Chỉ thị của thủ tướng Võ Văn Kiệt). Đặc biệt,
k
ể từ khi Kinh thành Huế cùng cụm di tích cố đô Huế được công nhận là Di sản văn hoá
c
ủa thế giới (1993), chính sách “Giải toả các khu lấn chiếm di tích Kinh thành” bắt đầu
được thực hiện. Chính sách này nhằm từng bước giải toả dần các khu ổ chuột, các khu
lao
động nghèo đang nằm trong khu vực thuộc diện quản lý của UNESCO, trả lại mỹ
quan cho Kinh thành Hu
ế. Đồng thời, việc đưa cư dân đến các khu TĐC còn nhằm mục
đích để thay đổi môi trường sống của dân nghèo và từ đó từng bước nâng cao dần chất
l
ượng cuộc sống cho người dân. Vì thế, các khu TĐC Trường An, Kim Long và Bãi Dâu
đã lần lượt ra đời nhằm đón nhận các cư dân thủy diện trên sông Hương, cư dân dọc Hộ
Thành Hào, Kinh thành Hu
ế và các khu vực thuộc diện giải tỏa khác trong thành phố
Hu
ế.
Bảng 1: Lịch sử hình thành và quy mô dân số ở các khu TĐC thành phố Huế
Khu TĐC
N
ăm hình
thành
S

ố hộ ban đầu

Số hộ năm
2007
S
ố nhân khu

Vĩ Dạ 1985 67 98 622
Phú Bình 1985 103 107 792
Trường An 1989 148 620 3.717
Kim Long 1995 346 647 3.882
Bãi Dâu 1998 20 337 2.022
[Nguồn: UBND các Phường
]


81
Với nơi định cư mới, cuộc sống của nhiều gia đình nghèo thực sự có thay đổi,
kh
ả quan hơn, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp, như điều kiện sinh
ho
ạt của nhiều gia đình vẫn thiếu thốn, thu nhập còn thấp bởi cuộc sống của họ chưa
được ổn định. Vì thế, việc tiếp tục hình thành các khu TĐC vẫn đang còn nhiều vấn đề
c
ần bàn cãi để công tác tổ chức tái định cư thật sự phù hợp với chiến lược phát triển
kinh t
ế - xã hội của thành phố Huế.
2.2. Xác định tỉ lệ nghèo đói và chọn mẫu điều tra ở khu vực nghiên cứu
Ngày 08 tháng 07 n
ăm 2005, Thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải đã có quyết

định số 170/2005/QĐ - TTg về việc đưa ra chuNn nghèo cho giai đoạn 2006 - 2010 như
sau:
-
Đối với khu vực thành phố: mức thu nhập trung bình dưới
260.000
đ/tháng/người.
-
Đối với khu vực nông thôn: mức thu nhập trung bình dưới
200.000
đ/tháng/người.
D
ựa theo chuNn trên, số hộ nghèo ở các khu TĐC thành phố Huế được hệ thống
qua b
ảng sau:
Bảng 2: Số hộ nghèo ở các khu TĐC thành phố Huế
Khu TĐC Tổng số hộ Hộ nghèo Số khu
T
ỉ lệ % số hộ nghèo
so v
ới tổng số hộ
Phú Bình 107 40 253 37,38
Vĩ Dạ 98 79 394 80,60
Trường An 526 23 152 04,37
Kim Long 576 83 539 14,40
Bãi Dâu 337 152 684 45,10

[Nguồn: Số liệu tự điều tra]

Với tổng số hộ nghèo của 5 khu TĐC là 377 hộ, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 246
h

ộ sống rải rác ở 5 khu TĐC để phỏng vấn trực tiếp, thu thập thông tin và số liệu. Số hộ
nghèo
được chọn ở các khu TĐC cụ thể như sau:
Bảng 3: Xác định mẫu điều tra ở các khu TĐC
Khu TĐC Số hộ nghèo Mẫu chọn (hộ) Tỉ lệ % Số người
Phú Bình 40 40 100 253
Vĩ Dạ 79 44 55,70 279
Trường An 23 23 100 152
Kim Long 83 60 72,28 387
Bãi Dâu 152 79 51,97 391
Tổng 377 246 65,25 1.462
[Nguồn: Số liệu tự điều tra]

82
Với tỉ lệ số mẫu được chọn như trên (62,25%), tương đối đảm bảo đủ độ tin cậy
để nhận định nội dung nghiên cứu.
2.3. Xác định chỉ số nghèo nhân văn ở các khu TĐC (HPI - Human poverty
index)
2.3.1. Phương pháp xác định chỉ số HPI
N
ếu chỉ số HDI (Human development index) được sử dụng để đánh giá sự phát
tri
ển của một lãnh thổ, thì chỉ số HPI được sử dụng để đánh giá sự thiếu thốn, bần hàn
hay không có kh
ả năng đảm bảo 3 yếu tố cơ bản của sự phát triển con người (tuổi thọ,
tri th
ức và vật chất). Các yếu tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
- Ch
ỉ tiêu phản ánh không có khả năng đảm bảo một cuộc sống dài lâu và khoẻ
m

ạnh, hay phản ánh tính dễ bị tổn thương dẫn đến cái chết ở độ tuổi tương đối trẻ. Chỉ
tiêu này
được kí hiệu là P
1
và được đo bằng tỉ lệ số người không có khả năng sống quá 40
tu
ổi.
- Ch
ỉ tiêu phản ánh sự thiếu thốn về tri thức, nghĩa là bị loại trừ ra khỏi thế giới
c
ủa những người biết chữ và có khả năng giao tiếp. Chỉ tiêu này được kí hiệu là P
2

được đo bằng tỉ lệ mù chữ (trên 15 tuổi).
- Ch
ỉ tiêu phản ánh sự thiếu thốn về vật chất, chẳng hạn như không được tiếp
c
ận với những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu như nước sạch, dịch vụ y tế, vệ sinh, nhà cửa
t
ạm bợ, không có khả năng tích lũy, chất lượng bữa ăn hàng ngày kém Chỉ tiêu này
được kí hiệu là P
3
.
Ph
ương pháp tính chỉ số HPI đơn giản hơn so với phương pháp tính HDI, đặc
bi
ệt đối với dân nghèo thì chỉ số HPI phản ánh rõ hơn về sự thiếu thốn, bần hàn của
ng
ười dân. Chỉ số HPI được xác định qua công thức sau:
HPI =

3
3
3
3
2
3
1
3
ppp
++

Giá tr
ị của HPI nằm trong khoảng từ 0 - 1, hay từ 0% - 100%. Giá trị này càng
l
ớn, sự nghèo khổ, bần hàn càng cao.
2.3.2. L
ựa chọn thông tin và xác định chỉ số HPI tại các khu vực nghiên cứu
D
ựa trên cơ sở các yếu tố chung đã được trình bày, khi xác định chỉ số HPI tại
các khu T
ĐC, chúng tôi đã chọn các thông tin cơ sở để tính giá trị chỉ số HPI như sau:
1. T
ỉ lệ số dân không có khả năng sống quá 40 tuổi, kí hiệu là P
1
.
2. T
ỉ lệ mù chữ ở người lớn, kí hiệu P
2
.
3. Ch

ỉ tiêu tổng hợp P
3
, bao gồm các thông tin:
- T
ỉ lệ số hộ nghèo không được vay vốn từ các tổ chức nhà nước hay các tổ chức

83
thị trường chính thức, kí hiệu P
3.1
.
- T
ỉ lệ số hộ không có khả năng tích luỹ, kí hiệu P
3.2
.
- T
ỉ lệ số hộ phải sống trong những căn nhà tạm, kí hiệu P
3.3
.
- T
ỉ lệ số hộ hoàn toàn không có đồ dùng sinh hoạt phổ biến trong gia đình (bằng
điện), kí hiệu P
3.4
.
V
ới các thông tin nêu trên đã phản ánh khá rõ ràng sự nghèo khổ và cuộc sống
b
ần hàn của người dân. Qua quá trình phân tích thực trạng cuộc sống của cộng đồng dân
nghèo
ở các khu TĐC thành phố Huế, chúng tôi đã hệ thống được các gía trị của các
y

ếu tố trên để xác định chỉ số HPI như sau:
Bảng 4: Giá trị các yếu tố để xác định chỉ số HPI ở các khu TĐC thành phố Huế
[Đơn vị: %])
Yếu tố Vĩ Dạ Phú Bình Trường An Kim Long Bãi Dâu
P
1
45,78 43,62 18,26 30,14 28,68
P
2
12,35 14,65 10,80 16,70 18,42
P
3.1
18,18 62,50 26,08 20,00 25,30
P
3.2
56,81 90,00 78,26 75,00 68,35
P
3.3
36,71 55,00 21,74 10,00 16,45
P
3.4
18,18 40,00 8,69 35,00 7,59
[Nguồn: Số liệu tự điều tra và xử lý]
Từ các giá trị trên, P
3
được xác định như sau:
P
3
= [1/4 (P
3.1

+ P
3.2
+ P
3.3
+ P
3.4
)]
P
3
lần lượt được xác định ở các khu vực nghiên cứu như sau:
- Khu T
ĐC Vĩ Dạ: P
3
= 1/4 (18,18 + 56,81 + 36,71 + 18,18) = 32,47
- Khu T
ĐC Phú Bình: P
3
= 1/4 (62,5 + 90,0 + 55,0 + 40,0) = 61,87
- Khu T
ĐC Trường An: P
3
= 1/4 (26,08 + 78,26 + 21,74 + 8,69) = 33,69
- Khu T
ĐC Kim Long: P
3
= 1/4 (20,0 + 75,0 + 10,0 + 35,0) = 35,00
- Khu T
ĐC Bãi Dâu: P
3
= 1/4 (25,30 + 68,35 + 16,45 + 7,59) = 29,42

Ch
ỉ số HPI ở các khu TĐC lần lượt được xác định qua các giá trị của các yếu tố
P
1
, P
2
và P
3
như sau:
1. Khu T
ĐC Vĩ Dạ (HPI1)
HPI
1
=
3
333
3
47,3235,1278,48
++
= 37,02

84
2. Khu TĐC Phú Bình (HPI2)
HPI
2
=
3
333
3
87,6165,1462,43

++
= 68,60
3. Khu T
ĐC Trường An (HPI3)
HPI
3
=
3
333
3
69,3380,1026,18
++
= 35,72
4. Khu T
ĐC Kim Long (HPI4)
HPI
4
=
3
333
3
00,3570,1614,30
++
= 42,15
5. Khu T
ĐC Bãi Dâu (HPI5)
HPI
5
=
3

333
3
42,2942,1868,28
++
= 38,10
Có th
ể hệ thống giá trị của chỉ số HPI ở các khu TĐC qua bảng sau:
Bảng 5: Chỉ số HPI ở các khu vực nghiên cứu
Địa điểm Vĩ Dạ Phú Bình Trường An Kim Long Bãi Dâu
HPI 37,02 68,60 35,72 42,15 38,10
[Nguồn: Số liệu tự điều tra và xử lí]
Với kết quả trên, giá trị HPI ở đây cao hơn so với tỉnh Thừa Thiên Huế, HPI =
17,49 và cao h
ơn rất nhiều so với cả nước HPI = 15. Điều này nói lên rằng, mặc dù nơi
định cư mới có nhiều ưu điểm để mở ra cho người nghèo một cuộc sống mới, nhưng
th
ực chất sự nghèo khổ vẫn đang mãi bám theo họ.
III. K
ết luận
Vi
ệc hình thành các khu tái định cư ở thành phố Huế là một chính sách đúng đắn,
b
ởi chính nó sẽ tạo ra một diện mạo mới cho đô thị Huế (cả hình thức và nội dung), góp
ph
ần đNy mạnh quá trình đô thị hoá đang diễn ra khắp cả nước. Tuy nhiên, để các khu
T
ĐC thực sự thể hiện đầy đủ những ý nghĩa này, thì việc di dân đến đây không đơn
thu
ần chỉ là sự thay đổi nơi cư trú mà là để thay đổi cuộc sống của họ sao cho ngày càng
ổn định hơn. Chính vì vậy, các nhà quy hoạch, các nhà lãnh đạo các cấp và các nhà xây

d
ựng chính sách có liên quan đến sự ra đời các khu TĐC trong tương lai cần phải suy
ngh
ĩ, phải quan tâm nhiều hơn nữa đến chất lượng cuộc sống của bộ phận dân nghèo,
m
ột thành tố quan trọng trong cấu trúc phân tầng xã hội không thể bỏ qua.

85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Hoè, Dân số - định cư - môi trường, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001.
2. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 -
2010 tỉnh Thừa Thiên Huế, Huế, 2006.
3. United Nations country team Vietnam, MDG and Viet Nam
/
s socio - economic
development plan 2006 - 2010. Ha Noi, 2005.
4. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Báo cáo phát triển con người Việt
Nam 2004, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

DEFINE HUMAN POVERTY INDEX (HPI)
AT RESETTLEMENTLY AREAS OF HUE CITY
Le Thi Nguyen
College of Sciences, Hue University
SUMMARY
There are some indicators to assess the development of a country, a territory or an area.
However, to assess the level of poverty, we can use HPI indicator. HPI of resettlement areas in
Hue city is higher than that of Thua Thien Hue province (HPI = 17,49) and of Viet Nam (HPI =
15). That means the formation of resettlement areas is not only to change settlement for the poor
but also to concern the quality of their lives, and so the formation of resettlement areas will be
of great meaning.

×