Những mối quan hệ chủ
thể với đối tượng trong
nghiên cứu văn học sử
Chính vì những chỗ bất cập và bất thông như vậy của Giải thích học cổ điển,
mà Giải thích học hiện đại đã được thai nghén dần từ những năm 30 và chính
thức xuất hiện trong những năm 60 của thế kỉ trước với những tên tuổi lẫy lừng
như M. Heidegger và G. Gadamer v.v Nếu Giải thích học cổ điển phủ nhận
chủ quan của chủ thể nghiên cứu nghĩa là phủ nhận luôn ý thức thời đại của
họ trong khi nghiên cứu di sản quá khứ, thì trái lại Giải thích học hiện đại khẳng
định mạnh mẽ vai trò to lớn của ý thức này trong khi tiếp cận di sản quá khứ. M.
Heidegger nêu ra khái niệm “tiền kết cấu của sự giải thích”, bao gồm “cái có
trước” (vorhsbe), “cái thấy trước” (vorsich) và “cái nắm trước” (vorgrifb) v.v
“Cái có trước”, ý nói bất kì chủ thể giải thích nào cũng tồn tại và bị điều khiển
trong một môi trường văn hóa lịch sử của mình, và M. Heidegger nói: “Sự giải
thích luôn luôn được đặt cơ sở từ trong cái có trước đó”. “Cái thấy trước”, ý nói
bất kì sự giải thích nào cũng sử dụng quan niệm và phương thức ngôn ngữ
trước mắt và nó sẽ chi phối phương thức lí giải, và M. Heidegger khẳng định:
“Trước nay, sự giải thích luôn luôn đặt cơ sở trong cái thấy trước đó”. “Cái nắm
trước”, ý nói bất kì chủ thể giải thích nào cũng vốn có quan niệm của mình làm
tiền đề về hệ tham chiếu, và M. Heidegger cũng khẳng định: “Vô luận thế nào,
sự giải thích cũng luôn luôn quyết định tán thành dứt khoát hoặc với ít nhiều
bảo lưu một phương thức khái niệm nào đó. Sự giải thích luôn luôn đặt cơ sở
từ “cái nắm trước đó” (Tồn tại và thời gian). G. Gadamer lại phát huy quan
niệm này với khái niệm “thiên kiến”, cho rằng trong khi tiếp cận với văn bản
quá khứ, chủ thể nghiên cứu không thể không đưa vào thiên kiến của mình,
kết quả của việc sinh tồn trong một thời đại với những bối cảnh lịch sử xã hội
và văn hóa nhất định. Trực tiếp hơn, G. Gadamer còn bàn đến tính hiện đại -
nói sát đúng hơn theo từng thời điểm lịch sử thì gọi là tính đồng đại - của sự
giải thích. Bởi vì mặc dù tác phẩm ra đời trong một thời điểm lịch sử nhất định,
nhưng nó như một hệ thống mở để cho các thế hệ sau tìm hiểu thưởng thức.
Nghĩa là tác phẩm quá khứ, trên một ý nghĩa nhất định, luôn luôn mang tính
đồng đại với chủ thể nghiên cứu trong bất cứ thế hệ sau nào: “Chỉ cần tác
phẩm văn học thực hiện thiên chức của mình thì nó sẽ mang tính đồng đại với
bất cứ thời đại nào Như thế chúng ta sẽ có trách nhiệm giải thích tác phẩm
theo thời đại của mình” (Chân lí và phương pháp). Đưa ý thức thời đại của
mình vào việc giải thích di sản quá khứ, thì kết quả nghiên cứu sẽ xuất hiện
“sự dung hợp tầm nhìn” (horizon verschmelzung) mà G. Gadamer đã nêu ra.
Ông cho rằng bản thân tác phẩm quá khứ cũng vốn có một tầm nhìn lịch sử,
bởi vì nó được sáng tạo ra bởi một cá nhân tồn tại trong những điều kiện lịch
sử xã hội nhất định. Còn chủ thể giải thích cũng vốn có một tầm nhìn lịch sử
của mình, nhưng tất nhiên không phong bế mà luôn luôn được mở rộng nâng
cao. Kết quả giải thích bao giờ cũng là sự dung hợp của hai tầm nhìn này là
như vậy.
Khắc phục nhược điểm của Giải thích học cổ điển, Giải thích học hiện đại
đề cao vai trò của ý thức chủ thể, mà then chốt là ý thức thời đại trong việc
nghiên cứu di sản quá khứ là tất yếu, dù có muốn hay không, có ý thức hay
không. Hơn nữa điều này nhiều khi rất bổ ích, nếu ý thức thời đại là tiên tiến.
Xưa kia Khổng Tử san định kinh Xuân thu với ngòi bút bao biếm theo tư tưởng
cao nhất của thời đại ông (thời Chiến quốc). Lịch sử thực tế thời Xuân thu
không hề mất đi, trái lại, đã hiện ra rõ ràng hơn dưới ánh sáng của lí tưởng
mới. “Bút pháp Xuân thu” này chính là một mẫu mực trong việc soi sáng lịch sử,
mà các sử gia kiệt xuất đời sau như Tư Mã Thiên đã phát huy với bộ Sử ký,
một đỉnh cao của văn hóa nhân loại v.v Tất nhiên khi chế độ phong kiến thoái
hóa dần, như đến đời Tống thì có chủ trương viết sử để “nêu gương”, “mài
gương” theo quan niệm “chính danh”, “định phận” không phản ảnh được toàn
diện thực chất của lịch sử như bộ Thông giám cương mục của Chu Hy. Bộ
Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn
nước ta cũng noi theo tinh thần như vậy. Trong chỉ dụ biên soạn bộ sử này, Tự
Đức có nói: “Việc làm sử là việc rất lớn trong nước , vừa quan hệ bởi sự làm
gương soi chung, vừa ngụ ý khuyên răn, cho nên việc nên ghi chép hay nên
bớt đi, phải rất nghiêm chỉnh” (Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam, Trần
Văn Giàu, tập I, 1973, tr.200). Nhưng nếu nghiêm chỉnh theo lập trường và
quan điểm của Tống nho, thì sẽ rất dễ tùy tiện trong việc thêm bớt sự thực
khách quan. Cho nên bản thân việc nêu gương, mài gương tự nó không sai trái.
Vấn đề là có trung thực với chân lí khách quan hay không? Nhưng trong thời
phong kiến mạt kì như để đối trọng lại với tư tưởng chính thống thoái hóa, thì
ngay trong tầng lớp Nho sĩ cũng manh nha dần tư tưởng duy vật, dân chủ và
nhân đạo. Từ đây cũng hình thành dần một khuynh hướng viết sử không phải
là không có “bao biếm” khen chê, nhưng có chú ý đến tính chất khách quan
của sự kiện hơn. Khi viết Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn trong lời Tự tựa có
nhấn mạnh mọi việc “đều phải chép sự thực”, và nói: “Đại để phép làm sử là
mọi sự kiện đều phải đầy đủ không bỏ sót, để cho người đời sau, khi mở sách
ra xem, rõ được manh mối, biết được đầu đuôi, tuy không được mắt thấy tai
nghe, mà rõ ràng như chính mình được thấy vậy” (Lê Quý Đôn toàn tập, tập III,
tr.21). Và nhận xét về công trình này của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú cũng viết:
“Thể thức làm sử không có chí truyện thì không thể chép được đầy đủ Sử
của nước ta chỉ dùng sử biên niên, công việc của các triều chỉ chép tóm tắt,
cho nên đầu đuôi việc diên cách, gốc ngọn việc thành bại, khó lòng khảo cứu,
cả đến điển chương chế độ cũng không khảo chứng vào đâu được” (Lịch triều
hiến chương loại chí, Nxb. Sử học, Hà Nội 1960, tập IV, tr.51). Và chính cuốn
Lịch triều hiến chương loại chí của ông thì được viết theo tinh thần và phương
pháp như sau: “Khảo xét dấu tích đời xưa mà không dám nói thêm lên, phân
tích mọi việc bằng lí để tìm ra lẽ phải, có thể tường tận mà không đến nỗi rườm,
có chỗ sơ lược mà nắm được cốt yếu, khiến cho công nghiệp chế tác các đời
rõ rệt đủ làm bằng chứng, đều ở trong sách này” (Lịch triều hiến chương loại
chí, Sđd, tập I, tr.12). Có thể thấy, vai trò của ý thức thời đại trong việc nghiên
cứu lịch sử là tất yếu, đó là chỗ đúng của Giải thích học hiện đại. Tất nhiên họ
chưa thấy được hai mặt của vai trò ấy tùy theo tính chất tiến bộ hay lạc hậu
của ý thức thời đại. Nói cho thật sát hợp là Giải thích học hiện đại không đặt ra
vấn đề đó, họ không quan tâm đến việc tiệm cận chân lí lịch sử, mà chỉ thiên
về việc bộc lộ bản chất hiện tồn của chủ thể giải thích. Tiếc thay điều này lại
bộc lộ nhược điểm của Giải thích học hiện đại. Như uốn một cây cong, người
ta thường có xu hướng bẻ mạnh theo chiều ngược lại, kết quả, do đó, từ cực
đoan này lại nhảy sang một cực đoan khác. Biểu hiện tập trung ở chỗ Giải
thích học hiện đại cho rằng Giải thích học không phải là phương pháp luận,
cũng không phải nhận thức luận, mà là bản thể luận. Có nghĩa rằng qua quá
trình giải thích đối tượng để bộc lộ bản chất hiện tồn của chủ thế giải thích.
Điều này nếu không muốn nói là thay đổi mục đích, thì chí ít ra cũng là mục
đích song trùng. Đã nuôi dưỡng cái động cơ nhằm bộc lộ bản thân, thì chí ít cái
mục tiêu giải thích đối tượng cũng bị chia xẻ và suy giảm, và dẫn đến nguy cơ
bóp méo hoặc hiện đại hóa lịch sử. Từ lâu Hégel đã từng cảnh báo: “Chúng ta
thường dễ có khuynh hướng đem phương thức tư tưởng của mình để cải tạo
các triết gia cổ đại” (Bài giảng về lịch sử triết học). Đã đành nghiên cứu lịch sử,
tự nó chưa phải là cứu cánh, mà để rút ra bài học cho hiện tại. Nhưng nếu
những bài học đó là giả, vốn không có trong thực tế lịch sử, thì càng vô bổ với
hiện tại, nếu không muốn nói là nguy hại. Nếu lấy việc bộc lộ bản chất hiện tồn
của mình thì thiếu gì cách, cần gì phải đội lốt nghiên cứu lịch sử.
Giải thích học nếu hàm chứa một bản thể luận, thì phải tìm trong thiên
chức nhận thức luận, phương pháp luận của nó. Thành phần chủ quan trong
giải thích đã đành là tất yếu, hơn nữa đất dụng võ cũng mênh mông. Bởi vì
như trên đã nói, giải thích lịch sử đâu có dễ, giải thích tuyệt đối đúng đắn là
không bao giờ có. Nhưng không phải vì thế để lùi lại dẫn đến việc giải thích thế
nào cũng được. Hoàn toàn ngược lại, chính vì không thể nào có chuyện tuyệt
đối đúng đắn, mà phải nỗ lực trên con đường tiếp cận hơn với chân lí. Và mỗi
một bước tiến dù nhỏ nhoi, cũng đã phải đổi lấy biết bao nhiêu công phu và tài
trí. Phải ra công sưu tầm thêm tài liệu, phải rút ra cho hết những bài học thành
công hoặc thất bại của người đi trước, phải vũ trang bằng những thành tựu
khoa học hiện đại về tư duy, trong đó có tư duy về lịch sử. Tất cả những mặt
đó, há chẳng phải sẽ bộc lộ được “bản chất hiện tồn” của người nghiên cứu
hay sao? Vả chăng nghiên cứu lịch sử, trong đó có lịch sử văn học, không phải
chỉ là giải thích, mà còn đánh giá. Song song, hoặc trên cơ sở những giải thích
tương đối đúng, phải tiến hành đánh giá, một khâu càng có liên hệ trực tiếp
hơn giữa lịch sử và hiện đại. Chính ở khâu này càng mở ra chân trời rộng rãi
bao la cho việc bộc lộ bản chất hiện tồn, cùng việc vận dụng ý thức tiên tiến
của thời đại của việc nghiên cứu lịch sử.
III. Lịch sử văn học và thiên hướng cá nhân
Thiên hướng cá nhân ở đây cũng có thể nói rộng cả về hai mặt quan
điểm và tài năng là của cá nhân nhà nghiên cứu lịch sử văn học. Vấn đề này
thật ra rất gắn với ý thức thời đại nói trên, bởi vì không cá nhân nào không
thuộc về một thời đại nhất định. Cho nên những kết luận trên kia, về cơ bản
cũng thích hợp ở đây. Đó dù là ý thức tiên tiến của thời đại hay tài năng kiệt
xuất của cá nhân, cuối cùng vẫn phải được đánh giá ở chỗ có càng tiệm cận
hơn với chân lí lịch sử hay không? Tuy nhiên vấn đề này cũng có một sắc thái
khác là xưa cũng như nay đều có khuynh hướng rất duy tâm chủ quan trong
việc đột xuất lên vai trò của cá nhân trong việc nghiên cứu lịch sử đến mức bất
chấp cả thực tế lịch sử như thế nào.
Từ ngàn xưa ở Trung Quốc đã xuất hiện khẩu hiệu “Ngã chú lục kinh”
(Tôi chú giải sáu kinh). Sáu kinh chỉ sáu bộ sách kinh điển của Nho gia: Thi,
Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu, ngày càng về sau có mở rộng chỉ điển tích, sử
liệu nói chung. “Ngã chú lục kinh”, như hàm ý đã rõ là người chú giải phải ra
sức làm rõ nguyên nghĩa của sáu kính, cho nên phải chú ý khảo chứng, tất
nhiên dần dần cũng đi đến chỗ cực đoan, chỉ chú ý bình diện vi mô của chữ
nghĩa. Đấy là lối nghiên cứu rất thịnh hành từ đời Hán. Nhưng dần dần cũng bị
đối trọng trở lại, và đến đời Tống với Lục Cửu Uyên đã xuất hiện khẩu hiệu
“Lục kinh chú ngã” (Sáu kinh chú giải cho tôi), ý nói lấy tôi làm bản vị, phát huy
thoải mái những kiến giải của mình trong luận bàn di sản, và cũng dần dần đi
đến cực đoan, bất chấp những nguyên ý của điển tích sử liệu. Nói một cách
khác, điển tích, sử liệu ở đây chỉ được làm dẫn chứng cho việc thuyết minh
những kiến giải cá nhân. Học phong này rất thịnh hành đời Tống, và cũng ảnh
hưởng mãi về sau. Thời Ngũ tứ, Hồ Thích cũng đã từng cho rằng, lịch sử,
trong đó có lịch sử văn học, chẳng qua như cô gái mười tám, có thể trang điểm
theo cách nào tùy ý.
ở phương Tây cũng có những cách nhìn tương tự. R.G. Collingwood nói:
“Lịch sử là không phải cái gì khác, mà chẳng qua là từ trong đầu óc của nhà
lịch sử, đã đem quá khứ chế tạo lại mà thôi” (Mỹ học tiếp nhận và lí luận tiếp
nhận). A. Toynbee, cũng là sử gia người Anh lại nói: “Nghiên cứu bất kì sự vật
gì của nhân loại cũng tất yếu mang tính lựa chọn, bởi vì bản thân lòng hiếu kì
là chủ quan, không phải chúng ta đều cảm thấy thú vị một cách phổ biến đối
với mọi sự vật Lại nữa cứ giả thiết như cho rằng tất cả các sự vật đều quan
trọng như nhau, nhưng họ cũng không thể có cách nào viết thành một bộ lịch
sử hàm chứa tất cả các sự thực, họ không thể không tiến hành chọn lựa, hơn
nữa lại cứ cho họ chuyển tải hết được mọi sự thực, thì cũng chỉ có thể đột xuất
một số sự thực này, và hạ thấp một số sự thực khác, cho nên trên một ý nghĩa
nhất định lịch sử chỉ là do con người nhào nặn lại mà thôi” (Toynbee bàn về
Toynbee) v.v Tất nhiên những ý kiến như thế này không phải hoàn toàn
không có cơ sở. Trước hết là vai trò chủ quan của cá nhân người viết sử, và
bất kì lịch sử nào được viết ra cũng không thể tuyệt đối chính xác. Nhưng
chính vì thế lại đòi hỏi phải làm cho sự nghiên cứu ngày càng tiệm cận hơn với
chân lí. Bởi vì lịch sử không phải chỉ là cái đã qua, mà còn là cái mà trong
tương lai người ta dần dần biết được, mặc dù không thể nào biết hết. Nếu cứ
bằng lòng với việc không thể nào có sự chính xác hoàn toàn rồi lùi lại để cho
rằng viết sử như thế nào là tùy thích cá nhân của nhà viết sử thì rõ ràng là sai
lầm.
Vấn đề ở đây còn có một khía cạnh là chính vì lấy cá nhân làm bản vị,
cho nên có người như Cát Hồng Tân và Ôn Phiên á ở Trung Quốc chủ trương
tư cách sử gia là ở giữa học giả và thi nhân: “ý của chúng tôi là văn học sử gia,
một mặt là học giả, mặt khác còn phải là một thi nhân, phải giỏi biết sử dụng
nhiệt tình giống như nhà thơ để xử lí chất liệu văn học sử, đặc biệt là những tư
liệu bình sinh của nhà văn” (Văn học sử hình thái học, Thượng Hải đại học
xuất bản xã, 2001, tr.287). Rất may là chính các vị tác giả này cũng đã tự thấy:
“Chúng tôi muốn nói: Văn học sử về cơ bản không phải là bộ môn khoa học”.
Đã như thế thì còn gì đáng nói nữa. Nhưng không nên lảng tránh hoàn toàn
vấn đề này. Không làm khoa học về lịch sử, nhưng vẫn có thể làm nghệ thuật
về lịch sử. Không phải chỉ làm thơ, mà viết tiểu thuyết, diễn kịch lịch sử. Đúng
là ở đây cái chủ quan của tác giả sẽ lớn hơn rất nhiều. Và từ đó cũng có thể rất
rộng tay trong việc thêm bớt, tô đậm hoặc làm mới những sự thực lịch sử theo
thiên hướng cá nhân. La Quán Trung chẳng đã chỉ dựa vào ba phần sự thực
và thêm bảy phần hư cấu cho thời Tam quốc đó sao? Bởi vì như L. Fueurbach
đã nói rất đúng rằng: “Nghệ thuật không đòi hỏi các tác phẩm của nó như là
hiện thực” (Bài giảng về bản chất tôn giáo).
Tuy nhiên ngay trong lĩnh vực này, mặc dù chân lí nghệ thuật không
đồng nhất, nhưng phải thống nhất với chân lí lịch sử. Nghĩa là mặc dù tha hồ
hư cấu, nhưng vẫn có giới hạn là không được vi phạm xuyên tạc chân lí lịch sử.
Lassalle trong giai đoạn còn là chiến hữu của Marx và Engels, đã viết vở kịch
Sickingen nói về nhân vật chính cùng tên, vốn là một quý tộc suy tàn đã thất
bại trong cuộc khởi nghĩa vào thế kỉ XVI ở Đức, nhằm thể hiện tính chất chung
trong bi kịch của lực lượng cách mạng. Mặc dù có đôi chỗ khẳng định, nhưng
Marx đã thẳng thừng phê phán tính chất xuyên tạc lịch sử, nhất là xoay quanh
nhân vật chính Sickingen:
“Sickingen không phải chết vì sự xảo quyệt của mình. Ông ta đã chết vì
đã nổi dậy với tư cách hiệp sĩ hay với tư cách người đại diện của giai cấp suy
tàn, chống lại cái chế độ hiện tồn, hay nói đúng hơn, chống lại hình thức mới
của (chế độ) hiện tồn Sickingen đánh lại bọn vương công (sở dĩ ông ta nổi
lên chống lại hoàng đế thì cũng chỉ vì từ chỗ là hoàng đế của tầng lớp hiệp sĩ
đã biến thành hoàng đế của bọn vương công), cho nên ông ta chẳng qua chỉ là
một Don Quichotte mà thôi” (Về văn học và nghệ thuật, Sự thật, 1977, tr.365).
Có nghĩa là, xét trên thực tế lịch sử, sự nổi dậy của Sickingen chỉ là một
hài kịch (cái lỗi thời vẫn cứ muốn chứng minh sức mạnh của mình) chứ không
phải là một bi kịch, càng không phải là bi kịch của lực lượng cách mạng. Cho
hay phản ảnh lịch sử bằng phương thức nghệ thuật mà vẫn không thể vi phạm
thực tế lịch sử như vậy. Huống chi khoa học về lịch sử, kể cả về lịch sử văn
học, hiển nhiên không thể không xen vào ý thức thời đại và thiên hướng cá
nhân, và do đó cũng không thể nào đạt được chân lí lịch sử tuyệt đối, nhưng
dứt khoát càng không thể xuyên tạc lịch sử được./.