Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thực trạng và giải pháp cho quan hệ thương mại Việt Nam với Nhật Bản - 3 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.7 KB, 10 trang )

triển khả quan với nhiều sự kiện lớn trong quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế
giữa hai nước khiến cho các hoạt động xuất nhập khẩu đã diễn ra với tốc độ và
quy mô ngày càng mạnh mẽ, sôi động hơn hẳn so với giai đoạn từ năm 1986 đến
1991. Trước khi đề cập đến quan hệ giữa hai bên từ năm 1992 đến nay, chúng ta
cần có cái nhìn tổng quan nhất về động thái phát triển kinh tế thương mại giữa hai
nước giai đoạn trước năm 1992.
2.1 Sự tiến triển của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản từ năm 1973
đến năm 1991
Sau khi hiệp định Pari, về việc chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam được ký kết,
ngày 21/9/1973 Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao
giữa hai nước. Hai năm sau, vào tháng 10 năm 1975, cả hai bên đã cùng mở đại sứ
quán ở thủ đô của nhau. đã mở ra, một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác toàn
diện giữa hai nước. cũng từ đó, quan hệ hai nước bước sang một trang mới.
Trước năm 1986, ngoài quan hệ với các thị trường truyền thống khu vực 1 (các
nước XHCN) Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ thương mại với các nước
khác, các thị trường khu vực II (các nước TBCN và các nước đang phát triển).
Đặc biệt năm 1976, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn thứ hai sau Liên Xô về cả
xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
Bảng 1: Danh sách 5 bạn hàng xuất khẩu lớn nhất cuả Việt Nam giai đoạn (1976 –
1990)
Nước Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch Xuật khẩu Việt nam (%) Xếp hạng
Liên Xô 44.1 1
Nhật Bản 40.6 2
Singapore 7.0 3
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hồng Kông 7.0 4
Ba Lan 3.9 5
(Nguồn: Nguyễn Trần Quế: Kinh tế đối ngoại Việt Nam – Thực tiễn và chính
sách, viện Kinh tế thế giới, Hà Nội,1992)
Bảng 2: Danh sách 5 bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam giai đoạn (1976-
1990)


Nước Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch Nhập khẩu Việt Nam (%) Xếp hạng
Liên Xô 67.1 1
Nhật Bản 6.7 2
Pháp 2.7 3
Tiệp Khắc 2.3 4
Hồng Kông 2.1 5
Nguồn: Nguyễn Trần Quế - Kinh tế đối ngoại Việt Nam – thực tiễn và chính sách.
Viện kinh tế thế giới, Hà Nội, 1992
Trong ba năm liền từ năm 1976 - 1978, quan hệ mậu dịch của hai nước tiếp tục
phát triển, với tổng kim ngạch hàng năm tương ứng khoảng 159 triệu USD, 247
triệu USD và 268 triệu USD. Như vậy, có sự gia tăng quá nhanh về quy mô và giá
trị.
Bước sang năm 1979, do nhiều yếu tố phi kinh tế tác động nên mậu dịch song
phương của hai nước có sự giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu chỉ còn 50 triệu USD,
nhiều hợp đồng làm ăn bị hoãn lại. Lý do cơ bản là vì các năm này, Nhật bản
không vượt ra khỏi áp lực chính trị vì ảnh hưởng dư luận phản đối của các nước
tư bản chủ nghĩa trên thế giới mà đứng đầu không phải ai khác là Mỹ. Về thực
trạng diễn biến quân sự, chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc qua cuộc chiến
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tranh biên giới phía Bắc, cuộc dẹp bỏ chế độ Pôn-Pốt của Việt Nam ở Campuchia
phía Tây Nam, cộng thêm một số vấn đề khác nữa… đã dẫn đến quyết định tối
cao của Bộ ngoại giao Nhật Bản ngày 8/1/1987, là sẽ hoãn viện trợ cho Việt Nam
cho đến khi nào các vấn đề trên được giải quyết ổn thoả. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ
đình chỉ mọi cuộc tiếp xúc ngoại giao hoặc tài trợ nhân đạo. Nói cách khác, đồng
thời với việc đình chỉ tài trợ kinh tế, Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì sự giúp đỡ nhân
đạo cho việt Nam trong suốt thời gian từ năm 1979 đến trước khi nối lại tài trợ
ODA toàn diện cho Việt Nam năm 1992.
Từ năm 1983 – 1986, quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản có xu
hướng gia tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu được đẩy mạnh, điều này xuất phát từ
nhu cầu kinh tế của cả đôi bên như: Việt Nam muốn có các sản phẩm hàng hoá

công nghiệp cần thiết, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu, các thiết bị công nghệ hiện
đại, phục vụ cho việc CNH - HĐH đất nước. còn về phía Nhật Bản, họ lại muốn
khai thác tài nguyên thiên nhiên, thị trường, lao động… của Việt Nam. Do vậy mà
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 214 triệu USD vào năm 1985. Trong đó,
Việt Nam xuất sang Nhật Bản những sản phẩm thô có giá trị thấp và nhập từ Nhật
những hàng hoá có hàm lượng “chất xám” cao.
(Ghi chú: Từ năm 1973 – 1975, chỉ tính kim ngạch buôn bán với Bắc Việt Nam)
Giữa những năm 1980, nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng do
lạm phát ba con số (lạm phát phi mã) gây nên. đời sống của nhân dân rất khó
khăn. Bên cạnh đó, Mỹ lại thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, ngừng viện trợ
và đầu tư, kể cả các khoản đã cam kết với chính phủ Việt Nam. Trước tình hình
đó năm 1986, nước ta đã thực hiện một bước chuyển đổi cơ bản, từ chỗ nền kinh
tế đóng sang mở cửa nền kinh tế. Việc chuyển đổi này, đã giúp Việt Nam gặt hái
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
được nhiều thành công trong thương mại quốc tế. Được sự ủng hộ và quan tâm
hợp tác phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, trong đó có Nhật Bản. chỉ riêng
trong lĩnh vực ngoại thương, các hoạt động xuất nhập khẩu đều có sự tăng trưởng
và phát triển khả quan. Thực tiễn phát triển đã cho thấy, kể từ năm 1989 trở đi,
cùng với các sự kiện Việt Nam rút hết quân ra khỏi Campuchia, hoà bình dược
thiết lập lại ở Đông Dương. Kinh tế – xã hội Việt Nam sau một số năm thực hiện
đổi mới, đã ngày càng ổn định hơn… tạo ra những tiền đề kinh tế - chính trị cần
thiết đó, cũng là những động lực thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế – văn hoá
giữa Nhật Bản - Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. nhiều cơ quan
chính phủ và phi chính phủ, phụ trách về hợp tác kinh tế đối ngoại của Nhật Bản
đã đến Việt Nam để xúc tiến dần các hoạt động hợp tác kinh tế giữa hai nước. Đó
là, các cơ quan như Tổ chức xúc tiến mậu dich Nhật Bản (JETRO); Cục hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JICA); Quỹ hợp tác kinh tế với nước ngoài (OECF); Liên đoàn
các tổ chức kinh tế Nhật Bản (Keidanren)… để chuẩn bị cho quá trình hợp tác
kinh tế giữa hai nước ngày càng phát triển tốt hơn, phía Nhật Bản đã tổ chức các
hoạt động giao lưu: Diễn đàn “kinh tế và văn hoá Nhật Bản” vào tháng 6 năm

1989 tại Tokyo… Đến tháng 9 năm 1989, phía Việt Nam đã phối hợp với Nhật
Bản tổ chức hội thảo “giao lưu kinh tế Nhật - Việt” tại Hà Nội…
Nhờ những nỗ lực trên đây, các quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước đã có
những bước chuyển biến rõ rệt cả về thương mại và đầu tư. Kim ngạch xuất nhập
khẩu Việt – Nhật năm 1991, đạt 879 triệu USD tăng 70,3 % so với năm 1989 và
nếu so với năm 1986 là năm đầu tiên của thời kỳ Việt Nam đổi mới thì đã tăng
hơn 223,2 %. Đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật, ngay từ
những năm 1991 đã lên tới 662 triệu USD, tăng 697,7%. Nhật Bản đã vươn lên
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trở thành bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, thay thế vị trí của Liên Xô
(cũ) khi đó đã và đang bị tan rã cùng với các nước XHCN ở Đông Âu cũ.
Có thể nói tóm lại, tình hình trước năm 1992, cho phép chúng ta có thể rút ra được
những nhận xét như sau:
- Sau một loạt những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực Châu á Thái Bình
Dương từ chính trị, đến an ninh, kinh tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá trước những
năm 1992 đã tạo ra những cơ hội và thách thức cho các quốc gia trong quan hệ cả
song phương lẫn đa phương…, hối thúc các quốc gia thiết lập và mở rộng giao
lưu kinh tế song phương; quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt – Nhật được “tái lập”
lại và thúc đẩy mạnh hơn.
- Nếu chúng ta coi bối cảnh quốc tế và khu vực là yếu tố tác động “bề ngoài”, thì
yếu tố Việt Nam – sự tiếp tục đổi mới kinh tế, những lợi thế và nhu cầu lợi ích…
là những yếu tố “bên trong” quan trọng thúc đẩy sự tái lập và phát triển quan hệ
kinh tế với Nhật Bản. Cả hai yếu tố này đều không thế thiếu, trong việc tạo ra cơ
sở để cho quan hệ giữa Việt – Nhật được phát triển.
- “Yếu tố Nhật Bản”, cũng là yếu tố “bên trong” không kém phần quan trọng
trong việc thúc đẩy quan hệ của hai nước. Nói khác đi, chính tiếm lực kinh tế,
chính sách kinh tế đối ngoại hướng về Châu á và lợi ích của Nhật Bản trong quan
hệ với Việt Nam đã tạo ra cơ sở cho quan hệ song phương Việt Nam – Nhật Bản
được phát triển.
2.2 Thực trạng phát triển Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn từ

năm 1992 đến nay.
2.2.1 Tình hình chung của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản trong
giai đoạn từ 1992 đến nay.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 1996, là thời kỳ khó khăn nhất của Việt Nam,
do khối thị trường mà Việt Nam có quan hệ chính trong hơn 40 năm qua là Liên
Xô và các nước Đông Âu cũ đã bị sụp đổ vaò năm 1991. Thời kỳ có nhiều sự kiện
quan trọng, tạo bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta.
Trước năm 1991, khối thị trường Liên Xô và các nước Đông Âu cũ, chiếm tới hơn
50% thị phần xuất khẩu và gần 60% thị phần nhập khẩu của Việt Nam. Sự sụp đổ
của khối thị trường này, làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm 13% và
kim ngạch nhập khẩu giảm 15% vào năm 1991. Nhưng nhờ có chính sách đổi mới
của Chính phủ, Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực, thế
giới. Kết quả cho thấy thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng, từ
quan hệ ngoại thương với 40 nước năm 1990 đã tăng lên 174 quốc gia và vùng
lãnh thổ năm 2003, trong đó hai châu lục có nhiều bạn hàng nhất là Châu á
(27,9%) và Châu Phi là (25,6%). Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung
và ngoại thương nói riêng, nhờ có nỗ lực thực thi một chiến lược phát triển kinh tế
mở với nhiều giải pháp chính sách, cơ chế quản lý ngày càng thông thoáng hơn
trước, nên chúng ta đã được sự quan tâm ủng hộ hợp tác phát triển kinh tế của
nhiều quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị khác nhau trên thế giới, do đó đã
gặt hái được nhiều thành công trong mọi hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều khá
nổi bật, đang được nhiều nhà ngoại giao, nhà kinh doanh quan tâm. Và cũng chính
ở thời kỳ này, quan hệ Việt - Nhật được phát triển mạnh mẽ và toàn diện. mang
trong nó nhiều đặc trưng mới, điều mà không phải thời kỳ nào cũng có được nếu
không muốn nói là chưa bao giờ có. Vì vậy, người ta đã nói đến một thời kỳ mới
trong quan hệ Việt – Nhật. chính sự phát triển này, đã tạo lập những tiền đề vững
chắc trong quan hệ hai nước hướng tới thế kỷ 21. Đặc biệt từ năm 1992 đến nay,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đã có sự tiến triển khả quan với nhiều sự kiện đáng ghi nhớ trên các lĩnh vực

thương mại, đầu tư trực tiếp FDI và viện trợ phát triển chính thức ODA.
Sự kiện đầu tiên diễn ra trong tháng11/1992 đó là: khi chính phủ Nhật Bản tuyên
bố nối lại viện trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam thì mọi rào chắn đã
được tháo gỡ, quan hệ hữu nghị Việt – Nhật ngày càng trở nên thân thiện.
Cũng ngay sau đó, vào tháng 12/1992, chính phủ Nhật Bản tiếp tục tuyên bố huỷ
bỏ chế độ quy chế “hạn chế xuất khẩu một số hàng hoá kỹ thuật cao, hàng chiến
lược sang các nước XHCN trong đó có Việt Nam đã được áp dụng từ năm 1977”.
nhờ đó, Việt Nam đã có thể nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại của Nhật
Bản để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, điều mà
nhiều năm trước đó không thể làm được.
Chính vì thế năm 1992, đã được ghi nhận là năm có ý nghĩa rất quan trọng trong
quan hệ giữa hai nước, vì đó chính là một bước ngoặt trong sự tiến triển của quan
hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản. Việc Nhật Bản cung cấp trở lại ODA cho
Việt Nam, không chỉ đơn thuần có ý nghĩa khai thông quan hệ cung cấp viện trợ
của họ cho ta, mà còn là tín hiện bật đèn xanh khai thông cho cả quan hệ kinh tế
thương mại và đầu tư phát triển. từ đó trở đi, sẽ có thêm nhiều thuận lợi cho sự
phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Thực tiễn phát triển những
năm qua kể từ năm 1992 trở đi, đã cho thấy rõ tình hình khả quan này. Các quan
hệ thương mại, đầu tư trực tiếp FDI và viện trợ phát triển chính thức ODA đều gia
tăng liên tục và có điểm mới nhất là tất cả các quan hệ đó đều đaãtạo động lực hỗ
trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Nói tóm lại, hoàn cảnh môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi; công cuộc đổi
mới của Việt Nam với các chính sách phát triển kinh tế đối ngoại năng động, phù
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hợp với xu thế phát triển thời đại, lợi ích của hai bên Nhật Bản - Việt Nam đã là
những nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy các quan hệ hợp tác
kinh tế - thương mại giữa hai nước phát triển ngày càng mạnh mẽ, sôi động hơn
và cũng ngày càng đi vào thế ổn định hơn, vững chắc hơn. Đương nhiên, đó mới
chỉ là những nguyên nhân có tính khách quan bên ngoài đối với Nhật Bản. Điều
cần lưu ý là về phía những nhân tố chủ quan Nhật Bản đã tạo ra. Như đã phân tích

ở chương 1, sở dĩ trong suốt thập niên 90 vừa qua, đã có nhiều nỗ lực trong các
quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với Việt Nam còn là do sự chuyển hướng
chiến lược trong chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật
Bản đối với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.2.2 Thực trạng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn từ
năm 1992 đến nay.
Như đã phân tích ở trên, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản ngày càng
phát triển, nhất là từ năm 1992 trở lại đây, do chính sách hợp tác hữu nghị, đã làm
cải thiện thông thoáng hơn, sau khi có sự kiện Phía Nhật Bản đã chính thức nối lại
viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam vào tháng 11/1992. Đặc biệt
là sau một loạt các sự kiện quan trọng trong hai năm 1994 và 1995: Mỹ huỷ bỏ
chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam vàn tháng 7/1995; Việt Nam gia
nhập ASEAN cũng vào tháng 7/1995 thì các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ
thương mại Việt Nam - Nhật Bản càng được phát triển mạnh mẽ và sôi động hơn.
Nếu tính từ năm 1986, là năm khởi đầu công cuộc đổi mới với tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu giữa hai nước mới ở mức rất khiêm tốn chỉ có 272 triệu USD, thì
sau 5 năm đổi mới, năm 1991 con số đó đã lên tới 879 triệu USD tăng gần gấp 3,2
lần đến năm 2001 đã là 4.690 triệu USD tăng gấp 5,3 lần so với năm 1991. Năm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2003 trong 6 tháng đầu năm, xuất khẩu sang Nhật đạt 1.370 triệu USD (tăng 32,9
% so với cùng kỳ năm 2002) với các mặt hàng xuất khẩu chính là đồ thủy sản, dầu
thô và các sản phẩm dệt may. Đặc biệt là các sản phẩm từ sữa. Nhập khẩu 6 tháng
đầu năm từ Nhật đạt 1.470 triệu USD (tăng 2,98 % so với cùng kỳ năm 2002) các
mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc, thiết bị và phụ tùng máy móc thiết bị,
sắt/thép, máy tính và các linh kiện máy tính
(Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JETRO)
Ghi chú: (*) - Tính trong 6 tháng đầu năm
Từ Bảng 4, cho ta thấy tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật trong tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản tăng rõ rệt trong từng năm. Điều đó thể
hiện mối quan tâm của Nhật Bản đối với thị trường Việt Nam và triển vọng của

mối quan hệ thương mại này. Những bảng số liệu trên cũng cho thấy thương mại
của Nhật Bản với Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ bé 0,63 % năm 2001,
nhỏ hơn rất nhiều so với tỷ trọng các nước như Trung Quốc là 13,2 %; Singapore
là 2,9 %; Malaysia là 2,7%; Thái Lan là 2,6%; Philippin là 1,7%. Trong khi đó,
bảng 5 lại cho thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt – Nhật trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại khá cao, chiếm tỷ trọng trung bình 15,7%. Điều
này phản ánh sự phụ thuộc khá lớn của Việt nam trong quan hệ thương mại với
Nhật Bản. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong nền kinh tế Nhật Bản sẽ dẫn đến những
thay đổi lớn cho Việt Nam.
(Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JERTRO)
Ghi chú (*): Tính trong 6 tháng đầu năm
Tuy nhiên, đáng lưu ý là tỷ trọng KNXNK Việt – Nhật trong tổng KNXNK
của Việt Nam lại tăng giảm thất thường.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tình trạng đó là do một số nhân tố chủ yếu sau gây nên:
* Tình trạng quan liêu giấy tờ, sự mập mờ trong các chính sách vẫn còn đè
nặng mà nhà nước ta chưa có những biện pháp triệt để nhằm thúc đẩy sự phát
triển thương mại. Đây là, lực cản lớn đối với tiềm năng phát triển quan hệ hợp tác
thương mại song phương Việt – Nhật. Không những thế, về phía Nhật Bản, họ
cho biết: khá nhiều nhà doanh nghiệp Nhật Bản muốn hợp tác với các nhà doanh
nghiệp Việt Nam trong liên doanh đầu tư phát triển sản xuất và thương mại, đặc
biệt là tập trung vào khai thác những lợi thế so sánh sẵn có của Việt Nam, để phát
triển các mặt hàng có thể xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. song họ còn e ngại
môi trường đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam còn có những vấn đề gây hạn chế
bất cập cho họ. trong đó có sự e ngại về sự hay thay đổi chính sách và thủ tục
hành chính còn quá nhiều phiền phức của Việt Nam (mặc dù, sự thay đổi chính
sách của Chính phủ ta là; làm đơn giản thủ tục hành chính. nhưng sự thay đổi này,
luôn diễn ra hàng năm gây ra tâm lý nghi ngờ…). Đây rõ ràng là một trở ngại lớn
mà phía Việt Nam cần có giải pháp kịp thời khắc phục ngay;
* Cho đến nay, nhiều nhà doanh nghiệp Việt Nam thiếu chủ động trong

việc thanh toán nợ thương mại cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Trong khi đó,
Chính phủ Việt Nam lại chưa có những chính sách, biện pháp để giải quyết cho
nhanh chóng, rõ ràng vấn đề này. Đây cũng là những đề bức bách mà các nhà
doanh nghiệp Nhật Bản đang mong chờ sự hỗ trợ giải quyết của Chính phủ Việt
Nam.
* Mặc dù, quan hệ hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã có
một tiến trình phát triển khá lâu dài. Hai bên đã là bạn hàng tin cậy của nhau trong
nhiều năm qua. nhưng cho đến nay phía Việt Nam vẫn chưa có các văn phòng xúc
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×