Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Đài Loan tại Cty cổ phần đầu tư và thương mại - 3 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.65 KB, 12 trang )

- Bảo hiểm lao động: Chủ chịu 70%, người lao động chịu 20% và chính quyền trợ
cấp 10%.
- Bảo hiểm y tế: Chủ sử dụng chiu 60%, người lao động trả 30% và chính quyền
trợ cấp 10%.
3.5. Thuế thu nhập:
Thuế thu nhập áp dụng đối với người lao động nước ngoài được xác định theo thời
gian làm việc trong năm.
Những người sống ở Đài Loan dưới 183 ngày trong quy định mức thuế mỗi năm
(thuế niên, tính từ ngày 1-1 đến ngày 31-12) thì nộp 20% thu nhập.
Những người sống ở Đài Loan đủ hoặc trên 183 ngày trong thuế iên thì nộp 6% thu
nhập như người bản địa.
3.6. Giờ làm việc:
Giờ làm việc được quyết định giữa chủ và người lao động theo quy định cụ thể
trong hợp đồng lao động.
Theo luật về tiêu chuẩn lao động quy định thì giờ làm việc trong ngành công
nghiệp là 8h/ngày và 48h/tuần. Hiện nay là 84h/2 tuần.
Luật cũng quy định về chế độ làm thêm giờ, giữa buổi làm việc sau 4 tiếng được
nghỉ giải lao 30 phút. Tuỳ theo tính liên tục và khẩn trương trong sản xuất mà cống việc
được bố trí theo ca, trách nhiệm của chủ là phải sắp xếp ngày nghỉ bù cho người lao động.
3.7. Quan hệ giữa người lao động và chủ sử dụng lao động:
Lao động nước ngoài được phép tham gia công đoàn, nhưng không được bầu là
cán bộ công đoàn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Người lao động nước ngoài làm việc ở các doanh nghiệp có thể bị huỷ bỏ hợp
đồng lao động trong những trường hợp sau:
- Khi hoạt động sản xuất của doanh nghiệp bị thua lỗ, chủ sử dụng có thể cho lao động
thôi việc, hoặc (nếu có thể) chuyển tới chủ khác. Nhưng chủ lao động phải thông báo
trước cho lao động nước ngoài về ý định đó và phải cấp tiền bôì thường cho họ.
- Nếu lao động nước ngoài phạm lỗi hoặc phạm luật dẫn tới việc ngừng hợp đồng
lao động, người chủ có thể cho thôi việc mà không phải báo trước và có quyền từ chối
không thanh toán tiền bồi thường.


3.8. Nghỉ phép, nghỉ lễ và nghỉ việc:
Đối với các ngành công nghiệp không được luật tiêu chuẩn lao động điều chỉnh,
việc bố trí nghỉ phép và nghỉ việc được quyết định giữa người chủ với người lao động và
như đã nói ở hợp đồng với ngành công nghiệp phải tuân theo quy định của luật tiêu chuẩn
lao động thì phải tuân theo những nguyên tắc sau đây:
- Phải có tối thiểu một ngày nghỉ trong một tuần làm việc
Nghỉ phép: Vì lý do đặc biệt, người lao động có thể xin phép không hưởng lương
và có thể được chấp thuận nếu có người thay thế công việc hoặc khi nghỉ phép không ảnh
hưởng gì tới quá trình sản xuất. Yêu cầu nghỉ phép phải được viết thành văn bản gửi
những người có trách nhiệm. Thời gian nghỉ không quá 14 ngày 1 năm.
Nghỉ ốm: Do bị ốm, tai nạn hoặc những lý do cần phải chữa chạy, người lao động
có thể yêu cầu nghỉ ốm. Nghỉ ốm không nằm viện không được quá 30 ngày mỗi năm.
- Nếu bị tai nạn lao động thì được nghỉ phép để chữa trị
3.9. Những trường hợp không được cấp giấy phép lao động và cho thôi việc:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Với những tình huống sau đây có thể không được cấp giấy phép lao động hoặc cho
về nước.
- Những người mang theo gia đình sống với nhau
- Những người tay nghề không đủ để hoàn thành nhu cầu của công việc như giấy
phép họ đã xin.
- Những người không đạt sức khỏe khi kiểm tra.
- Những người đã có gia đình, có thai hoặc sinh đẻ khi đang lao động tại Đài Loan.
- Những người vi phạm các quy định khi làm các thủ tục cấp giấy phép.
3.10. Đổi nơi làm việc:
Không được giải quyết nếu không được phép trước của Uỷ ban Lao động.
Đổi chủ lao động không được thực hiện khi không xin phép trước của Uỷ ban Lao
động.
Làm thêm việc bên ngoài phải có giấy phép của Uỷ ban Lao động.
Lao động nước ngoài không được vi phạm hợp đồng lao động đã thỏ thuận giữa họ
và chủ sử dụng lao động, như việc nghỉ không xin phép quá 3 ngày.

Lao động nước ngoài phải tuân theo mọi pháp luật, quy chế và những quy định
công cộng của Đài Loan.
Trong trường hợp có khiếu nại về công việc đối với chủ sử dụng lao động thì
người lao động nước ngoài có thể báo cáo với Trung tâm Tư vấn lao động nước ngoài để
khiếu nại về chủ sử dụng lao động của mình.
II. Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong 4 năm qua, hệ thống cơ chế, chính sách về xuất khẩu lao động và chuyêngia
tiếp tục được hoàn thiện. Đặc biệt thông qua triển khai thí điểm mô hình liên thông xuất
khẩu lao động ở Hải Dương và Phú Thọ, đến nay đã có trên 50 tỉnh, thành phố có lao
động đi làm việc ở nước ngoài ( có 15 tỉnh, thành phố đưa đi được trên 1000 lao động
trong một năm). Trong 4 năm, cả nước đã được 224 ngàn người lao động đi làm việc ở
nước ngoài (đạt 73% so với kế hoạch 5 năm). Cùng với chính sách của Nhà nước, nhiều
địa phương đã có giải pháp hỗ trợ người lao động về vay vốn, dạy nghề, phí làm thủ tục,
hộ chiếu và khám sức khoẻ.
1. Số lượng và cơ cấu xuất khẩu lao động:
1.1. Số lượng lao động:
Tổng kết qua 4 năm thực hiện xuất khẩu lao động, chúng ta đã đưa đi 224 ngàn lao
động và chuyên gia. Riêng năm 2004 đã có 67.447 lao động Việt Nam làm việc tại nước
ngoài và lượng kiều hối chuyển về nước đạt mức 1,65 tỷ USD.
Cục quản lý lao động ngoài nước cho biết, năm 2004 tại Đài Loan có trên 33000
người lao động Việt Nam làm việc. Tuy nhiên tình trạng lao động bỏ hợp đồng ra ngoài
làm việc bất hợp pháp ngày càng nhiều, dẫn tới việc phía Đài Loan ngừng tiếp nhận lao
động Việt Nam. Để khắc phục tình trạng này Cục đã đưa ra một số giải pháp nhằm chấn
chỉnh công tác tuyển chọn, đào tạo giáo dục định hướng, quản lý lao động ở nước ngoài
của các doanh nghiệp, đồng thời cùng với Ban quản lý lao động Việt Nam tại Đài Bắc
phối hợp với phía Đài Loan tìm kiếm, vận động để đưa số lao động bất hợp pháp này về
nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Kể từ khi đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaixia tháng 4/2002 đến nay,

đã có gần 80.000 lao động làm việc tại đất nước này. Đây là thị trường lao động lớn thứ
hai sau Đài Loan. Tuy nhiên việc đưa lao động sang Malaixia giảm sút hơn trước, do năm
ngoái một số công nhân phải về nước trước thời hạn do mất việc và đến đầu năm nay phía
Malaixia tạm ngừng tiếp nhận lao động nước ngoài nói chung để lập lại kỷ cương rong
việc tiếp nhận và sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Malaixia.
Việc Malaixia ngừng tiếp nhận lao động nước ngoài trong lúc này cũng là thời
điểm tốt để các doanh nghiệp Việt Nam làm tốt công tác đào tạo, chuẩn bị nguồn lao động
để khi bạn có nhu cầu trở lại là có thể đáp ứng được ngay. Tuy nhiên Malaixia vẫn tiếp
nhận những lao động đã có lệnh cấp visa, cho nên doanh nghiệp vẫn tiếp tục đưa số lao
động có điều kiện này đi làm việc.
Đến nay đã có hơn 52.000 tu nghiệp sinh Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc.
Đặc biệt có khoảng 3000 lao động đang làm việc theo Luật lao động mới của Hàn Quốc.
Bộ Lao động, thương binh và xã hội đã lập 10 trường đào tạo tiếng Hàn và giáo dục định
hướng cho người lao động trước khi sang làm việc tại Hàn Quốc. Thời gian tới, phía Hàn
Quốc sẽ giúp đỡ Việt Nam trong việc cung cấp giáo trình và giáo viên đào tạo tiếng Hàn
cũng như phong tục tập quán, lối sống sinh hoạt của Hàn Quốc.
Nhật Bản là thị trường cao cấp tiếp nhận lao động của ta theo chế độ tu nghiệp
sinh, chi phí cao nhưng chỉ tiêu thấp. Năm 2004 cả nước chỉ đưa được hơn 2000 lao động,
thấp nhất trong số 4 thị trường chủ yếu của Việt Nam.
Nguồn: Cục quản lý lao động với nước ngoài- Bộ Lao động Thương binh Xã hội
Năm 2004: Xuất khẩu gần 68.000 lao động và chuyên gia
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trong đó: Thị trường Đài Loan: 37.740 lao động
Thị trường Malaixia: 14.560 lao động
Thị trường Lào: 6.660 lao động
Thị trường Hàn Quốc: 4.770 lao động
Thị trường Nhật Bản: 2.750 lao động
6 tháng đầu năm, cả nước xuất khẩu 31.000 lao động và chuyên gia, đạt 44,28% kế hoạch
năm. Cụ thể:
Đài Loan: 15.759

Malaysia: 7.779
Hàn Quốc: 3.275
Nhật Bản: 1.769
Anh: 66
Ảrập thống nhất: 153
Các nước khác: 2.474
1.2. Cơ cấu lao động xuất khẩu:
Hiện nay lao động Việt Nam đã có mặt ở hơn 40 nước trên thế giới, chủ yếu làm
việc trong các ngành nghề khác nhau như: Sỹ quan thuỷ thủ, thuyền viên đánh cá, công
nhân, giúp việc gia đình, chăm sóc bệnh nhân
1.2.1. Cơ cấu lao động xuất khẩu theo giới tính:
Nguồn lao động xuất khẩu của nước ta từ trước tới nay chủ yếu là nam giới. Nam
giới chiếm 84,5% trong tổng số lao động xuất khẩu của ta từ giai đoạn 1992-2002 vì các
thi trường tiếp nhận lao động yêu cầu lao động trong các ngành công nghiệp nặng và một
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
số ngành nghề đòi hỏi sức khoẻ tốt. Mặt khác các chính sách xuất khẩu lao động của ta có
phần chưa rộng mở đối với lao động nữ đi xuất khẩu như các nước trong khu vực như
Phillipine một nước có tỷ lệ lao động nữ xuất khẩu cao nhất trong khu vực ( vì họ còn cho
phép lao động nữ làm các công việc ở Việt Nam còn cấm). Lao động nữ của ta đi làm
việc ở nứoc ngoài do những đặc điểm giới tính cũng như tập quán dân tộc và chị em đều
chưa có điều kiện tiếp xúc với nước ngoài, mặt khác lại hạn chế về trình độ ngoại ngữ nên
họ thường phải chịu những thiệt thòi trong quá trình làm việc ở nước ngoài. Trong thời
gian đầu chúng ta thường xuất khẩu lao động sang các thị trường đòi hỏi sức khoẻ như
Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước Đông Âu nên tỷ lệ lao động là nữ thấp trong tổng số lao
động xuất khẩu. Từ năm 2000 trở đi chúng ta mở rộng thị trường mới đưa lao động đi làm
giúp việc gia đình ở Malaixia, Đài Loan thì tỷ lệ lao động nữ tăng lên rõ rệt, lao động nữ
đã chiếm tỷ lệ 24,18% trong tổng số lao động.
Nguồn: Cục quản lý lao động với nước ngoài-Bộ Lao động Thương binh Xã hội
1.2.2. Cơ cấu lao động xuất khẩu theo ngành nghề:
Thực hiện chủ trương của Chính phủ là hạn chế đưa lao động phổ thông đi xuất khẩu, Bộ

Lao động thương binh - xã hội đã chỉ đạo hướng dẫn các công ty mở rộng việc ký kết các
hợp đồng đưa lao động có nghề. Kết quả cho thấy, số lao động có nghề của Việt Nam
tăng lên rõ rệt. Nếu năm 1992 chủ yếu là lao động phổ thông thì số lao động có nghề năm
1993 tăng lên 25%, năm 1995 tăng lên 40% và hiện nay đạt gần 70% trong tổng số người
đi là có nghề. Đối với một số thị trường, chúng ta đã cung ứng 90-100% lao động có nghề
như Cooet, Libi, Angola, Nhật Bản, Cộng hoà Séc Còn một số lao động khi đưa đi chưa
có nghề nhưng hầu hết trong các hợp đồng đã ký, bên nhận cung ứng lao động đều thực
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hiện việc đào tạo nghề cho người lao động thông qua các hình thức đào tạo 3 tháng theo
chương trình do Bộ Lao động thương binh - xã hội quy định rồi mới sử dụng những lao
động này vào công việc.
Năm 2004, xuất khẩu lao động và chuyên gia sang Đài Loan lên tới 37.740 người
trong đó: Giúp việc gia đình - chăm sóc người bệnh chiếm 52,51%
Điện tử chiếm 6,81%
Cơ khí sản xuất chiếm 25,86%
Xây dựng chiếm 0,25%
Thuyền viên đánh cá chiếm 8,79%.
2. Chất lượng lao động xuất khẩu:
Theo đánh giá chung, lao động xuất khẩu của Việt Nam có khả năng làm việc,
chăm chỉ, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật tiên tiến và lao động sáng tạo, lao động có
chuyên môn kỹ thuật đã tăng đáng kể.
Bên cạnh những lợi thế vốn có ấy, lao động Việt Nam còn có rất nhiều hạn chế,
biểu hiện ở các vấn đề sau:
2.1. Về sức khoẻ:
Do xuất phát điểm kinh tế, Việt Nam là một nước nông nghiệp nghèo và đông dân
nên phần lớn lực lượng lao động ở nước ta chưa đủ điều kiện về sức khoẻ để đảm bảo cho
công việc của họ ở nước ngoài được liên tục, trôi chảy với mức lương hợp lý. Đây là khó
khăn đầu tiên khi tuyển dụng lao động cho xuất khẩu.
2.2. Về tác phong:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Cơ chế kế hoạch hoá tập trung tồn tại ở nước ta trong một thời gian dài đã có ảnh
hưởng lớn và in sâu vào tâm trí người lao động do vậy lề lối và tác phong của người lao
động là chậm chạp và tinh thần trách nhiệm chưa cao. Có thể coi đây là yếu kém lớn nhất
khi tiếp nhận lao động Việt Nam.
2.3. Về trình độ, tay nghề:
Lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài chủ yếu đã qua đào tạo tuy nhiên vẫn
chưa thể đáp ứng hoàn toàn nhu cầu của chủ sử dụng lao động do hạn chế về năng lực
chuyên môn, khả năng giao tiếp, không có khả năng ngoạingữ, ít hiểu biết về các yếu tố
như văn hoá, phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt cũng như hệ thống pháp luật của
nước sở tại. Ngoài ra người lao động Việt Nam còn rất thiếu về kinh nghiệm làm việc.
3. Hình thức và các tổ chức tham gia xuất khẩu lao động:
3.1. Hình thức xuất khẩu lao động:
Hiện nay, xuất khẩu lao động nước ta có thể có các hình thức sau: Hơp đồng cung
ứng lao động, hợp đồng sử dụng chuyên gia, hợp đồng nhận thầu công trình, hợp đồng lao
động vừa học vừa làm, hợp đồng nhận thầu nhận khoán khối lượng hợp tác chia sản
phẩm, hợp đồng liên doanh giữa các tổ chức kinh tế Việt Nam với tổ chức kinh tế hoặc cá
nhân ở nước ngoài, hợp đồng lao động giưã người Việt Nam với tổ chức kinh tế hoặc cá
nhân nước ngoài, cung ứng lao động trực tiếp theo yêu cầu của các công ty nước ngoài
thông qua hợp đồng lao động.
Trong đó, các doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu lao động phải chủ động
tìm kiếm thị trường, tự mình ký kết với bên nước ngoài để tiến hành làm thủ tục đưa lao
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
động xuất khẩu dựa trên chính sách của Nhà nước, đồng thời doanh nghiệp cũng có trách
nhiệm nếu hợp đồng không được thực hiện như ký kết.
Nếu doanh nghiệp nào có giấy phép xuất khẩu lao động mà trong vòng 18 tháng không
xuất khẩu được 100 lao động trở lên đi làm việc ở nước ngoài thì bị thu hồi giấy phép.
3.2. Các tổ chức tham gia xuất khẩu lao động:
Các tổ chức được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bao gồm:
- Doanh nghiệp có giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động.
- Doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, nhận khoán công trình ở nước ngoài có sử

dụng lao động Việt Nam.
- Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài có sử dụng lao động Việt Nam.
Ngoài ra còn có doanh nghiệp thuộc cơ quan trung ương, các tổ chức như: Mặt trận
tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội nông dân
Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam và các doanh nghiệp thuộc phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam.
Hiện nay có 128 doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hoạt động cung ứng nguồn
lao động sang thị trường Đài Loan song do tình trạng lao động bỏ trốn ngày càng nhiều
nên đã có một số doanh nghiệp bị tạm đình chỉ việc xuất khẩu lao động sang thị trường
này. Bộ Lao động cũng tiến hành cảnh báo 16 doanh nghiệp đưa lao động sang làm việc
tại Đài Loan có tỷ lệ bỏ hợp đồng tương đối cao và các công ty này phải báo cáo kết quả
việc khắc phục tình trạng bỏ hợp đồng của doanh nghiệp mình, nếu không có biện pháp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hữu hiệu cải thiện tình hình lao động bỏ trốn, Bộ Lao động thương binh - xã hội sẽ tiếp
tục thực hiện các biện pháp xử lý thích hợp.
III. Thực trạng xuất khẩu lao động của Contrexim-TM:
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 về việc sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp Nhà nước, Công ty Đầu tư xây dựng và xuất nhập khẩu Việt Nam -
Contrexim Holdings đã tiến hành đánh giá lại thực trạng về mô hình tổ chức kinh doanh
của công ty, những thành quả đã đạt được và đề ra phương án sắp xếp, cơ cấu lại bộ máy
tổ chức của Công ty trình Chính phủ và Bộ Xây dựng. Ngày 30/7/2001, Thủ tướng Chính
phủ đã ra quyết định số 929/QĐ-TTg phê duyệt mô hình " Công ty mẹ - Công ty con".
Theo đó, tổ hợp Contrexim bao gồm 26 đơn vị thành viên chia làm 2 khối: Khối các đơn
vị hạch toán độc lập gồm 9 đơn vị và khối các đơn vị hạch toán phụ thuộc gồm 17 đơn vị.
Contrexim Holdings hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, tư vấn
thiết kế, lập, thẩm định các dự án đầu tư, thực hiện xây lắp và kinh doanh các công trình
dân dụng, công nghiệp, công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị. Ngoài ra, Contrexim Holdings
còn sản xuất và cung cấp vật liệu xây dựng và trang trí nội thất, xuất nhập khẩu thiết bị,
vật liẹu xây dựng và các loại hàng hoá khác; đào tạo, xuất khẩu lao động, công nhân kỹ

thuật và nhận thầu công trình nước ngoài. Ngoài việc thực hiện chức năng quản lý, điều
hành các Công ty, đơn vị trực thuộc thì Contrexim Holdings còn thực hiện trực tiếp một
số hoạt động kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu và xuất khẩu lao động đi các nước.
Những hoạt động này đã mang lại cho Contrexim một nguồn thu đáng kể.
Ban lãnh đạo Công ty nhận thấy rằng cần phải có một hướng đi đúng đắn nhằm
đẩy mạnh và tạo điều kiện chủ động cho những hoạt động này phát triển hơn nữa. Do đó
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Contrexim Holdings đã có chủ trương trình Bộ Xây dựng về việc sáp nhập phòng xuất
nhập khâủ và phòng xuất khẩu lao động cùng với trung tâm đào tạo thành một đơn vị
thành viên hạch toán độc lập. Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại (Contrexim-TM)
được thành lập với mục đích thực hiện các hoạt động về thương mại và xuất nhập khẩu
một cách sâu hơn, tuy nhiên các hoạt động này đã có từ trước và đã đạt được những thành
công đáng kể. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bước đầu một cách
vững chắc.
Về hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia đã đạt được kết quả cụ thể như
sau:
1. Kết quả hoạt động xuất khẩu lao động:
Xuất khẩu lao động trong những năm gần đây là một lĩnh vực kinh doanh mới
được chú trọng nên đã gạp không ít khó khăn. Tuy vậy, qua kết quả đạt được thì xuất
khẩu lao động đã mang lại một mức lợi nhuận rất lớn, lớn hơn rất nhiều lần so với các
hoạt động khác dù doanh thu là nhỏ hơn. Có được như vậy là do hoạt động xuất khẩu lao
động không những giải quyết công ăn việc làm cho người lao động mà còn giúp người lao
động mang lại một nguồn thu nhập lớn từ các nước phát triển hơn. Ngày càng có nhiều
người lao động đi xuất khẩu lao động ra nước ngoài, vì vậy Contrexim- TM đã có được
một kết quả đáng kể. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Qua bảng số liệu trên cho thấy:
- Về doanh thu: Năm 1999 Công ty chỉ đạt 310 triệu đồng, do đây là những năm
đầu của hoạt động xuất khẩu lao động và chưa thực sự được chú trọng. Năm 2000 tăng so
với năm 1999 là 179%, tương ứng với số tiền là 555 triệu đồng. Đây là mức tăng đáng kể
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×