Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Những giới hạn của cộng đồng diễn giải pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.58 KB, 11 trang )

Những giới hạn của cộng
đồng diễn giải
“Người đọc cần được quan niệm như một tổng thể các phản ứng cá nhân, hay
như sự hiện tại hóa một năng lực cộng đồng? Hình ảnh một người đọc có tự do
được giám sát, do văn bản kiểm soát, có phải là hình ảnh hay nhất không”?
(1)
Antoine Compagnon
ới việc nhận ra sự khác biệt giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học, xem tác
phẩm văn học là hình thức đọc đặc trưng, lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại đã có cái
nhìn mới về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học qua những khám phá về đặc trưng
bản thể của văn bản văn học trong quan hệ với những yếu tố liên quan đến người tiếp
nhận. Như vậy, phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, thực chất, chính là quá trình
tạo lập đời sống cụ thể của văn bản văn học qua sự tiếp nhận của người đọc. Nhưng vấn
đề người đọc không dừng lại ở đó. Ngày càng có nhiều ý kiến về thực chất tự do cũng như
quyền hạn của người đọc trong tương quan với tác giả, văn bản và với những áp lực của
cộng đồng diễn giải. Trên cơ sở triết học hiện tượng học, lí thuyết tiếp nhận đã đi được
một chặng đường dài với việc đề cao vai trò người đọc và sự đọc văn bản văn học, chống
lại những quan điểm thực chứng luận cũng như Phê bình Mới và chủ nghĩa cấu trúc. Tuy
nhiên, bên trong hệ thống lí thuyết tiếp nhận cũng có những quan điểm tương đồng và
khác biệt về vấn đề người đọc như mọi hệ thống lí thuyết khác. Có xu hướng nhấn mạnh
hành vi đọc mang tính cá nhân, liên quan đến tính ý hướng của chủ thể tiếp nhận, nhưng
cũng có xu hướng chịu ảnh hưởng của tường giải học, chú ý nhiều hơn đến năng lực tập
thể của sự đọc. Đọc là sự thể hiện năng lực cá nhân hay năng lực cộng đồng? Yếu tố nào
đứng đằng sau sự đọc, chi phối quá trình tạo nghĩa của văn bản? Tác giả, văn bản, người
đọc haycái thiết chế cộng đồng diễn giải với tất cả những khả năng và giới hạn của nó?
Để có thể thấy rõ hơn sự tiến triển của lí thuyết tiếp nhận trong việc giải quyết những
vấn đề trên, chúng ta cần nhìn lại những bước đi quantrọng của các nhà lí luận trên lĩnh vực
này, trước khi đến với vấn đề cộng đồng diễn giải. Người đầu tiên chúng tôi nói đến ở đây
là Roman Ingarden với công trình Tác phẩm văn học
(2)
nổi tiếng. Là học trò xuất sắc của


Ednumd Husserl nhưng Ingarden đã không mở rộng Chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm, ông
vẫn duy trì quan điểm về phương thức tồn tại hiện thực và lí tưởng của tác phẩm văn học.
Theo cách phân tích đối tượng của Hiện tượng học, R. Ingarden chorằng tác phẩm văn học
là vật có chủ ý nhưng những hoạt động ý thức của nhà văn không thuộc về tác phẩm mà chỉ
là cơ sở tồn tại của tác phẩm văn học mà thôi. Như là khách thể mang tính chủ ý, đời sống
của tác phẩm văn học phụ thuộc vào những hoạt động cụ thể hóa (đọc) có chủ ý của người
đọc hướng tới nó. Tác giả của công trình lí luận về tác phẩm văn học mang đậm yếu tố triết
học hiện tượng học này đã phân tích sự cụ thể hóa văn bản của người đọc như là hoạt động
có chủ ý của ý thức hướng tới đối tượng. Với việc vận dụng hiện tượng học vào nghiên cứu
lí luận văn học, Ingarden đã lưu ý đến mối liên kết của các yếu tố có trong văn bản văn học
trước tác động của ý thức người đọc hướng tới nó. Có thể xem Wolfgang Iser là người
cùng xu hướng đề cao tính chất cá nhân của hành động đọc giống như Roman Ingarden.
Trong các công trình Người đọc tiềm ẩn (1972), Hành động đọc (1976) và Thế giới của sự
diễn giải (2000)
(3)
, Iser đều cho rằng tác phẩm văn học có hai cực, (giống như Ingarden
cũng cho rằng tác phẩm văn học có 2 lần ý thức) đó là cực nghệ thuật (Văn bản của tác giả)
và cực thẩm mỹ (kết quả mà hành động đọc tạo nên). W. Iserxem văn bản văn học là sơ đồ
tiềm năng, tác phẩm văn học là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa mã văn bản và việc
giải mã văn bản của người đọc. Khái niệm người đọc tiềm ẩnđược hình thành từ những lập
luận của ông về các đặc điểm của văn bản, theo đó, văn bản tiềm ẩn nhiều khả năng tạo
nghĩa liên tục, các lớp kí hiệu trong đó đều có mối liên hệ với người đọc tiềm ẩn. Người đọc
tiềm ẩn được tạo ra bởi chính văn bản và nó không đồng nhất với bất kì người đọc có thực
nào. Văn bản luôn đóng vai trò chỉ dẫn. Dưới sự dẫn dắt của người đọc tiềm ẩn, người đọc
có thực vừa chủ động vừa thụ động. Người đọc như một du khách hành trình dọc theo văn
bản, mọi cảnh vật và sự kiện đều phụ thuộc vào tầm nhìn của anh ta, nhưng tầm nhìn đó lại
dovănbản quy định (!).
Một trong những người đại diện cho xu hướng nhấn mạnh yếu tố tập thể của sự
đọc, nhìn sự tiếp nhận văn bản văn học theo tinh thần tường giải học, là Hans Georg
Gadamer, học trò xuất sắc của Martin Heidegger

(4)
. Trong công trình triết học nghệ thuật
có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của tư duy lí luận văn học, Chân lí và phương
pháp (1960)
(5)
, Gadamer viết: “Tôi muốn chỉ ra rằng sự hiểu không bao giờ là sự liên hệ
chủ quan với một “đối tượng” nhất định, mà nó thuộc về lịch sử tác động, có nghĩa là nó
thuộc về hữu thể của cái mà chúng ta hiểu”
(6)
. Theo Gadamer, nghĩa của một tác phẩm
văn học không thể hiện trong chủ ý của tác giả. Quá trình các văn bản văn học đi từ tình
thế văn hóa – lịch sử này đến tình thế văn hóa – lịch sử khác là quá trình chúng có những
nghĩa mới hoàn toàn xa lạ với chủ ý của tác giả và công chúng một thời. Không có
phương thức nào để chúng ta nhận thức văn bản văn học như là nó, do tính không ổn định
của văn bản. Mọi sự hiểu một văn bản văn học nào đó đều là sự sáng tạo, là sự hiểu một
cách khác, nó luôn tìm kiếm những khả năng mới để làm thay đổi văn bản văn học trong
khuôn khổ những khả năng đó. H.G. Gadamer đã có bước đi quan trọng trong việc tạo ra
khái niệm ngôn ngữ tường giải học và trong việc phê phán quan niệm ngôn ngữ của lí
thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Ông đã bác bỏ quan niệm công cụ về ngôn ngữ và nhấn
mạnh rằng lời nói không thuộc về chúng ta, lời nói thuộc về các tình huống của hữu thể
mà trong đó lời nói hình thành và điều muốn nói được tạo ra. Đây cũng chính là yếu tố
chi phối sự đọc và hiểu văn bản văn học. Gadamer còn nhấn mạnh tính chất đối thoại giữa
quá khứ và hiện tại khi người đọc giải thích một tác phẩm xa xưa, và cho rằng lúc đó tầm
đón đợi của người đọc hiện tại và tầm đón đợi của người đọc quá khứ “dung hòa” với
nhau, sự hiểu xẩy ra trên cơ sở đó. Vậy là không còn người diễn giải chủ quan và nghĩa
văn bản khách quan, chỉ còn là khối thống nhất liên chủ thể tồn tại trong cùng một thời
gian. Cùng một xu hướng học thuật với Gadamer, Hans Robert Jauss đã phát triển quan
điểm của Gadamer về tường giải học, về lịch sử tác động của tác phẩm và về quá trình
dung hợp của các tầm đón đợi. Đối diện với lối cảm nhận và giải thích ấn tượng của
trường phái lịch sử tinh thần, H.R. Jauss diễn giải tác phẩm văn học trong hệ thống những

mối liên kết có thể khách thể hóa của nhiều loại tầm đón đợi. Trong công trình Lịch sử
văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học(1970)
(7)
, H.R. Jauss đã tập hợp
những quan điểm cơ bản nhất của mình về mỹ học tiếp nhận. Vấn đề Jauss quan tâm là:
Sự hiểu một văn bản văn học xảy ra như thế nào? Những người đọc thuộc các nhóm xã
hội – lịch sử và các thời đại khác nhau có những kinh nghiệm như thế nào trong việc tiếp
nhận văn bản? H.R. Jauss đã tổng kết những đề xuất của mình trong 3 hệ thống quan điểm
về những vấn đề bức xúc của khoa học văn học:
1- Quan niệm mới về tính lịch sử của văn học
2- Quan niệm mới về tường giải học
3- Sự thống nhất trong quan niệm mới về tính lịch sử và tường giải học.
H.R. Jauss đã phê phán Chủ nghĩa thực chứng chỉ biết cúi gằm xuống đống tư
liệu liên quan đến nguồn gốc và xuất xứ của tác phẩm, còn phương pháp lịch sử tinh
thần thì lại chỉ gắn chặt vào dấu vết vĩnh viễn và bất biến của các tư tưởng và môtip,
phương pháp mácxít chỉ lí giải mọi vấn đề từ cơ sở xã hội, còn các trường phái hình thức
thì đã thoái biến người đọc thành chủ thể nhận thức một cách đơn giản.
Đến đây, chúng ta đã thấy những nỗ lực của tư duy lí luận văn học hiện đại, hậu
hiện đại trong việc soi sáng thực chất mối quan hệ Tác giả - Văn bản – Người
đọc. Nhưng với việc khẳng định vai trò của người đọc, tư duy lí luận văn học hiện đại và
hậu hiện đại vẫn chưa giải phóng hoàn toàn được người đọc trước sự kiềm tỏa của tác
giả và văn bản, chưa đủ lập luận thuyết phục về năng lực quyết định số phận tác phẩm
của người đọc sau khi “tác giả đã chết”. Chúng ta thấy, các nhà lí thuyết tiếp nhận, từ
R. Ingarden. W. Iser, đến H.G. Gadamer, H.R. Jauss… đều có những lập luận tự mâu
thuẫn về người đọc. Đúng là những nỗ lực của họ đã cho thấy sự tiến triển của tư duy lí
luận văn học hiện đại, hậu hiện đại, cổ vũ cho cách tiếp cận vấn đề tác phẩm văn học
dựa vào người đọc, vượt lên cách tiếp cận văn học dựa vào văn bản của chủ nghĩa hình
thức và cách tiếp cận văn học chỉ dựa vào tác giả của chủ nghĩa biểu hiện. Nhưng nếu
nghiên cứu kĩ, chúng ta sẽ nhận ra những mâu thuẫn trong hệ thống lí thuyết tiếp nhận.
R. Ingarden và W. Iser đều nhấn mạnh đến tính chưa hoàn tất của văn bản văn học, nó sẽ

tự hoàn tất trong quá trình cụ thể hóa (đọc) văn bản: Tác phẩm văn học vừa tồn tại độc
lập với sự đọc, không đồng nhất với nó ở dạng tiềm thế, lại vừa trở thành cái cụ thể qua
việc đọc! Khái niệm người đọc tiềm ẩn của W. Iser, một cách gián tiếp, cho thấy những
giới hạn của người đọc có thực, khi người đọc có thực chịu sự chỉ dẫn của người đọc
tiềm ẩn mà cũng chính là văn bản! Do người đọc có thực phải tuân theo những chỉ dẫn
của văn bản nên người đọc có thực không phải lúc nào cũng chủ động trong việc cụ thể
hóa (đọc) văn bản. Như vậy, với nỗ lực ban đầu của các nhà lí luận nhằm phủ nhận tính
tự trị, khép kín của văn bản, khẳng định tự do và ưu thế của người đọc trước cả tác giả
và văn bản, rốt cuộc, từ những lập luận của họ về người đọc chúng ta lại thấy người đọc
chỉ là kẻ phụ thuộc văn bản và tác giả, là kẻ tự do trong những ràng buộc phức tạp. Cái
bóng ma của người đọc tiềm ẩn, thực chất, là hiện thân của tác giả hàm ẩn. Ý đồ xóa bỏ
tác giả và chủ ý của tác giả đã không thành công khi lí thuyết tiếp nhận dựng lên những
giới hạn không thể vượt thoát đối với người đọc trong quan hệ với tác giả. Ngay cả đến
Umberto Eco, người đã đề xuất tính chất mở của văn bản
(8)
cũng phải điều chỉnh lại
quan điểm của mình sau đó, khi ông nói về những giới hạn của sự mở. Cho dù Umberto
Eco và các nhà lí luận văn học đã nói đến yếu tố thỏa thuận giữa chủ ý của tác giả và chủ
ý của người đọc, W. Iser đã cố đề cao uy quyền của người đọc thì người ta vẫn thấy
bóng dáng của tác giả chi phối người đọc thông qua cái tôi thứ hai của mình là người
đọc tiềm ẩn. Vậy là vẫn còn một thiết chế nào nữa đứng sau văn bản và người đọc, nó
tạo lập và nuôi dưỡng cả hai, quy định phương thức tồn tại đặc trưng của tác phẩm văn
học.
Cái thiết chế đó có tên gọi là Cộng đồng diễn giải.
Khái niệm Cộng đồng diễn giải được Stanley Fish đề xuất năm 1980, trong
cuốn Có một Văn bản trong Lớp này không? (Is there a Text in This Class?)
(9)
cho đến
hôm nay đã tìm được tiếng nói chung và cả những ý kiến khác biệt trong giới nghiên
cứu lí luận văn học. Với khái niệm này, Stanley Fish vừa cho thấy những vấn đề còn tồn

tại trong lí thuyết tiếp nhận mà chúng tôi vừa đề cập ở phần trên, lại vừa gợi mở một cái
nhìn mới về bản chất của sự diễn giải văn bản văn học. Chúng ta có thể nhận ra những
giới hạn của cộng đồng diễn giải, cái thiết chế mà theo Stanley Fish, nó làm cho sự đồng
nhất hay ổn định của nghĩa phụ thuộc vào sự đồng nhất và ổn định của các nhóm người
đọc. Mối liên kết của nhóm người đọc này thể hiện qua việc các thành viên của nhóm
đồng thời thừa nhận tính đồng nhất và ổn định của các nghĩa của văn bản. Stanley Fish
quan niệm không thể tìm thấy nghĩa trong chính văn bản mà phải tìm ở trong hành động
sở hữu văn bản, trong cộng đồng người đọc thực hiện hoạt động này. S. Fish viết: “Cộng
đồng diễn giải chứ không phải văn bản hay người đọc tạo nên các nghĩa của văn bản”
(10)
.
Tức là các nghĩa này được hình thành với dấu ấn của một thiết chế cộng đồng. Sự tương
đồng ý kiến của các thành viên trong một cộng đồng cho thấy uy thế của cộng đồng diễn
giải đã tạo ra những yếu tố làm cho các thành viên của cộng đồng trong cùng một thời
gian có thể đồng ý kiến. Stanley Fish đã xây dựng khái niệm Cộng đồng diễn giải trên
cơ sở lí thuyết nghĩa. Xuất phát từ chỗ nghĩa không phải là của riêng của văn bản, nghĩa
không do bạn đọc (cá nhân) tạo ra mà là do cộng đồng diễn giải, cái cộng đồng quy định
không chỉ sách lược đọc mà còn cả sách lược diễn giải sự viết vì những mục đích của
nó. Stanley Fish viết: “Sự đồng nhất và ổn định của nghĩa là nhờ sự đồng nhất và ổn
định của nhóm người tạo ra nghĩa”
(11)
. Sự diễn giải và cộng đồng đều đặt điều kiện cho
nhau giống như mối quan hệ giữa paradigm và cộng đồng khoa học trong quan niệm
của Thomas S. Kuhn
(12)
. Tuy nhiên cộng đồng khoa học thì có thể độc lập với paradigm,
nhưng trong trường hợp cộng đồng diễn giải thì không thể nói như vậy, do tính chất trừu
tượng của khái niệm này. Thực ra, S. Fish đã để cho khái niệm này lơ lửng một cách có
ý thức.
Tại sao Stanley Fish đề xuất khái niệm Cộng đồng diễn giải (interpretative

community)? Có thể Fish muốn giải thích tại sao sự diễn giải văn bản văn học của một số
người nào đó lại giống nhau và ngược lại. Có thể Stanley Fishcho rằng nếu ai đó chuẩn bị
diễn giải một văn bản văn học thì người đó phải thuộc về một cộng đồng diễn giải nhất
định. Những giá trị và cách đánh giá, diễn giải của một cộng đồng là những yếu tố ít nhiều
chi phối sự diễn giải đã xác lập của mỗi cá nhân thuộc về cộng đồng đó. Cá nhân phải
tuân thủ những chuẩn mực mà cộng đồng quen dùng để đo các giá trị. Trên thực tế, khái
niệm cộng đồng diễn giải chưa thật phổ cập trong giới nghiên cứu văn học. Người ta thậm
chí dễ nhầm nó với những điều mà các nhà xã hội học văn học đã quan tâm từ lâu. Chúng
tôi nghĩ rằng, ở đây Stanley Fish muốn nhấn mạnh đến quyền lực của Cộng đồng diễn
giải, thứ quyền lực có sức mạnh tập hợp và tạo nên sự thống nhất ý kiến giữa các thành
viên của cộng đồng trong việc diễn giải văn bản văn học. Ông muốn lưu ý đến tác động
của thiết chế trong việc tạo nghĩa văn bản.
Chắc chắn Stanley Fish có ý thức để ngỏ mọi khả năng diễn giải về khái niệm quan
trọng này. Chúng tôi cho rằng để có thể chỉ ra những giới hạn của Cộng đồng diễn giải thì
trước hết chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại của nó. Tức là có một Cộng đồng diễn giải
đứng sau người đọc. Một mặt, nếu cộng đồng đó quy định các phương thức diễn giải mà
thành viên của nó có thể lựa chọn thì điều đó có nghĩa là có những yếu tố ngoại lệ đặc
trưng cho một nhóm xã hội nhất định, chúng tác động đến sự hiểu văn bản của các thành
viên cộng đồng. Điều này giống như một thứ quyết định luận, gợi nhớ đến quan niệm (thô
thiển) về tồn tại quyết định ý thức! Thực ra, những yếu tố xã hội của người diễn giải ảnh
hưởng đến sự diễn giải văn bản văn học của anh ta là điều không có gì phải bàn cãi, vì ai
cũng biết tầm đón đợi của một người đọc không ở trên trời rơi xuống. Nhưng nếu cách
nghĩ này trở thành hệ hình tư duy khoa học thì sớm muộn, nhà nghiên cứu sẽ cho rằng chủ
thể (người diễn giải văn bản văn học) chỉ đơn thuần là sản phẩm được quyết định trước về
mặt xã hội. Nghiên cứu vấn đề người đọc theo hướng này sẽ không đi sâu được vào thực
chất của nó: bởi vì ai mà chẳng là thành viên của một nhóm xã hội nào đó, thậm chí cùng
một lúc là thành viên của nhiều nhóm xã hội. Nếu nhà nghiên cứu thành công trong việc
mô tả các nhóm xã hội ảnh hưởng đến việc hiểu văn học của các thành viên như thế nào
thì rốt cuộc anh ta sẽ chỉ thấy việc hiểu văn học của các cá nhân qua lăng kính của các
nhóm xã hội. Mặt khác, nếu cộng đồng diễn giải là cộng đồng của những người diễn giải

văn bản văn học thì phải có cái gì đó chung cho những cá nhân cùng diễn giải giống nhau
một văn bản có sẵn. Cái chung này là gì? Phải chăng đó là sự đồng thuận? Stanley Fish
viết: “Sự đồng thuận không chứng minh cho sự ổn định của các sự việc, mà nó chứng tỏ
cái quyền uy của một cộng đồng đã tạo ra những đối tượng để các thành viên của nó có
thể nhất trí với nhau”
(13)
. Như thế là cộng đồng diễn giải tạo ra các đối tượng đồng thời với
việc tạo ra các thành viên của nó. Nếu tôi đồng ý với ai đó thì điều đó chứng tỏ chúng tôi
là thành viên của một cộng đồng. Sự đồng thuận đã kết nạp chúng tôi làm thành viên của
cộng đồng diễn giải và ngược lại, nếu chúng tôi không đồng ý kiến với nhau là vì chúng
tôi nhìn đối tượng từ những hướng khác nhau, vậy nên chúng tôi là thành viên của những
cộng đồng diễn giải khác. Với lập luận này, xem ra quyền uy của cộng đồng diễn giải là
siêu hình, nó vừa có khả năng tạo ra các đối tượng lại vừa tạo ra các thành viên? Chính lập
luận này cho thấy tại sao Stanley Fish không thể khoanh vùng được các cộng đồng diễn
giải, không nói được nhiều về bản chất của cộng đồng diễn giải, mặc dù Fish đã nói nhiều
về cái quyền uy của nó. Đấy là chúng ta chưa nói đến vấn đề ngôn ngữ. Phải chăng, như là
“ngôi nhà của Hữu thể”, (Martin Heidegger) ngôn ngữ quyết định một nền văn hóa nhất
định? Nếu đúng như vậy thì đâu là những giới hạn của ngôn ngữ? Nếu không đúng như
vậy thì có phải những con người nói các thứ tiếng khác nhau nhưng lại sống trong những
điều kiện môi trường xã hội giống nhau thì sẽ có những diễn giải giống nhau về cùng một
văn bản văn học? Liên quan đến vấn đề này, ý kiến của nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo
có thể gợi mở được rất nhiều điều: “Các ngôn ngữ khác nhau có thể giống nhau một cách
kì lạ về những khái niệm và ý nghĩa mà nó cần phân biệt và diễn đạt. Nhưng các ngôn ngữ
lại có thể khác nhau một cách kì lạ không kém về những phương tiện được dùng để truyền
đạt các khái niệm và các ý nghĩa ấy”
(14)
. Những đặc điểm của mối quan hệ giữa ngôn ngữ
và văn hóa cho thấy rằng các loại diễn giải liên quan đến những ngôn ngữ khác nhau đều
đại diện cho những cộng đồng diễn giải khác nhau. Ngoài ra, từ khái niệm cộng đồng diễn
giải mà Stanley Fish đề xuất, chúng ta cũng có thể hình dung về những cộng đồng diễn

giải được tạo ra thật sự vì mục đích diễn giải. Có những cộng đồng đặc biệt dành riêng
cho sự diễn giải mà không phải bất kì ai cũng có thể là thành viên. Những cộng đồng này
thường ra đời bên trong hệ thống thiết chế của đời sống khoa học như các viện nghiên
cứu, trường học, thư viện… Ở đó, sự diễn giải luôn xẩy ra trong cộng đồng diễn giải và
nghĩa của văn bản chỉ các cộng đồng diễn giải là có thể mang lại được. Stanley Fish đã có
những thể nghiệm, theo đó, các sinh viên đại học theo học ở chuyên đề nào cũng thấy
mình như đang tạo nên cộng đồng diễn giải, và giờ học văn có thể xem là một trong
những thiết chế của đời sống khoa học. Vấn đề là những sinh viên này có còn là thành
viên của cộng đồng diễn giải đó nữa không khi họ trở về nhà? Nếu họ không còn là thành
viên của cộng đồng diễn giải đó khi họ quên những điều đã học, thì đó là cộng đồng diễn
giải ảo. Thể nghiệm của Fish còn cho thấy các sinh viên có khả năng diễn giải danh mục
tên các nhà ngôn ngữ học thành bài thơ, nếu ở lớp học, với quyền uy của mình, thầy giáo
cố tình hướng dẫn họ đọc những cái tên viết trên bảng như đọc một bài thơ!
Sau những hình dung và phân tích trên đây về cộng đồng diễn giải, chúng tôi thấy
đây là một vấn đề phức tạp, có thể nghiên cứu từ nhiều hướng tùy theo cách diễn giải khái
niệm của nhà nghiên cứu. Chúng ta còn nhiều cách hình dung khác về cộng đồng diễn giải
mà Stanley Fish đề xuất. Điều cơ bản là Fish đã nhìn quá trình hoạt động của sự hiểu văn
bản văn học trong cơ chế được thiết lập, nơi sự thể hiện các ý kiến xẩy ra trong mối liên
kết của các ý đồ và mục đích nhất định. Điều này được chứng minh qua những cuộc tranh
luận nảy lửa ở Trung-Đông Âu vào thế kỉ trước, về “tính dễ hiểu” của văn học, nhất là văn
học hiện đại. Cái giáo điều tư tưởng cho rằng văn học phải là lĩnh vực ai cũng hiểu được,
đã tạo nên một công chúng đọc thuần nhất và duy nhất, không chỉ ở các nước Trung-
Đông Âu. Nhưng trong thực tế, quá trình phân hóa xã hội đã tạo nên những giới hạn bên
trong loại cộng đồng đọc này. Lí thuyết cộng đồng diễn giải, do đó, có thể giúp chúng ta
nhìn nhận rõ hơn bản chất phi lí của giáo điều trên đây, lưu ý chúng ta về một cơ chế đứng
sau sự diễn giải văn bản văn học có khả năng chi phối cách hiểu văn học, thậm chí làm
cho người ta đánh giá văn học tốt hay xấu bằng những yếu tố nằm ngoài văn học! Chính
vì thế, lịch sử phê bình văn học cần phải quan tâm nhiều đến các loại cộng đồng diễn giải
thay thế lẫn nhau ở một thời kì văn học, vì chúng ta sẽ không hiểu được sâu sắc những
mâu thuẫn trong cách đánh giá văn học và cả những vấn đề đặt ra trong các cuộc tranh

luận văn học, nếu chúng ta không nghiên cứu các cộng đồng diễn giải đã có tác động như
thế nào đến những hoạt động đó.
Điều chúng tôi muốn lưu ý ở đây là, khác với quan niệm của Stanley Fish, phần lớn
các cộng đồng diễn giải không tồn tại giữa bạn đọc và nhà văn, vì bạn đọc không có khả
năng tìm lại tư duy sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, không thể bắt rễ vào khung khổ thiết
chế mà từ đó nhà văn lên tiếng. Vậy thì chúng ta có thể nói về loại cộng đồng diễn
giải nào trong giao tiếp văn học? Để làm rõ điều này chúng ta cần xem xét đến bản tính tự
nhiên của sự diễn giải văn học, một cách cụ thể hơn, điều gì xảy ra trong quá trình diễn
giải văn bản văn học. Chúng ta có thể xem sự diễn giải là hành động hay là một loại kết
quả của hành động? Chúng tôi cho rằng, một lí thuyết diễn giải văn học cần tính đến hai
hình thức quan trọng của sự diễn giải: một là sự tiếp nhận văn học, hai là sự chuyển
hóa văn học. Trong hoạt động chuyển hóa, người đọc tạo ra một văn bản mới hơn so với
cái văn bản diễn giải. Văn bản này mang tính phê bình, phân tích thi pháp, lịch sử, nó
phản ánh những trạng thái tình cảm được xác lập trong người đọc qua việc chuyển hóa
văn bản. Diễn giải văn bản là công việc riêng của người đọc, không thể thấy được kết quả
diễn giải. Tuy nhiên, khó có thể phủ nhận sự chuyển hóa. Có thể nói, từ tường giải học
Gadamer đến chủ nghĩa hậu cấu trúc của R. Barthes đều cho thấy quá trình diễn giải văn
bản không thể dừng lại. Sự diễn giải có những kết quả, nhưng đó là những kết quả tạm
thời, giây lát, chúng đến rồi ngay lập tức đánh mất tính hiệu lực của mình. Nghĩa là không
thể xem kết quả của sự diễn giải văn chương như là một cái gì đó khép kín, trọn vẹn và bất
biến. Sự diễn giải văn bản văn học là quá trình các trạng thái tình cảm và những giây lát
của sự giải tỏa căng thẳng luôn nối tiếp, điều chỉnh và ghi nhớ lẫn nhau. Diễn giải không
phải là hoạt động viết văn bản mà là hoạt động tái tạo liên tục các cấu trúc tình cảm. Ở
một khía cạnh khác, nhà lí luận văn học người Pháp, ông Paul Ricoeur, trong công
trình Văn bản là gì
(15)
, cho rằng tất cả mọi sự viết đều liên hệ với lời nói có trước, rằng mọi
văn bản đều ở trong tình thế thực hiện mình trong quan hệ với ngôn ngữ, giống như lời
nói. Tuy nhiên, Paul Ricoeur cũng nhấn mạnh rằng sự giải phóng văn bản ra khỏi lời nói
làm đảo lộn mối quan hệ của ngôn ngữ và các chủ thể khác có liên quan, kể cả mối quan

hệ giữa tác giả và người đọc. Chính sự đảo lộn này chạm đến mối quan hệ thông báo giữa
ngôn ngữ và thế giới, khi văn bản chiếm chỗ lời nói. Đây là lúc xảy ra điều gì đó quan
trọng: một khi văn bản chiếm chỗ lời nói thì sự thông báo vận động về hướng sự hiểu bị
ngăn lại đồng thời với việc văn bản cắt đứt với sự đối thoại. Không phải văn bản không
thông báo mà sự đọc như là sự diễn giải sẽ có nhiệm vụ thực hiện sự thông báo. Điều
đáng nói ở đây là Paul Ricoeur đã có những lập luận hướng tới khái niệm sự diễn giải
mới xuất phát từ sự đọc. Theo ông có hai thái độ đọc: Có sự đọc làm kéo dài và gia tăng
sự bấp bênh liên quan đến sự thông báo của văn bản dành cho thế giới bên ngoài và của
chủ thể phát ngôn dành cho công chúng đọc. Đây là thái độ giải thích. Theo Ricoeur, có
thể xem xét văn bản theo những nguyên tắc giải thích mà ngôn ngữ học đã vận dụng
thành công đối với những hệ thống các kí hiệu đơn giản, giống như trong trường hợp ngôn
ngữ đối diện với lời nói. Ông cũng phê phán mô hình giải thích cấu trúc không quan tâm
tới những thái độ có thể có của người đọc đối với văn bản. Theo ông, có sự khác biệt giữa
giải thích và diễn giải văn bản. Đọc là sự kết nối sự biểu lộ mới với sự biểu lộ của văn bản.
Sự diễn giải văn bản là kết quả cụ thể của sự kết nối này và khả năng bắt đầu lại nhờ tính
chất mở của văn bản. Với khái niệm sự diễn giải mới này, Paul Ricoeur không hoàn toàn
bỏ qua khái niệm sự chiếm hữu mà các nhà tường giải học trước ông như Scheleimacher,
Dilthey và Bultman đã nói đến. Paul Ricoeur hiểu sự chiếm hữu là sự diễn giải văn bản
đến cùng, đạt đến đỉnh điểm trong sự diễn giải chính mình của một chủ thể nào đó. Bản
chất của quá trình diễn giải là sự chiến thắng cái khoảng cách văn hóa, sự nhất thể hóa
giữa văn bản và sự diễn giải bản thân của người đọc. Như vậy, giải thích nghĩa là chúng
ta giải phóng cấu trúc, cái mối quan hệ phụ thuộc bên trong làm nên sự tĩnh tại của văn
bản, còn diễn giải có nghĩa là chúng ta lựa chọn con đường suy tư để ngỏ của văn bản, lên
đường về nơi mà văn bản hướng tới. Như vậy, mặc dù không trực tiếp nói ra, Paul
Ricoeur cũng đề cao vai trò chỉ dẫn của văn bản văn học.
Chúng ta có thể xem những cấu trúc tình cảm như là yếu tố duy trì một cộng đồng
diễn giải, nó là cơ sở để mọi thành viên của cộng đồng diễn giải có tình cảm như nhau về
một văn bản văn học. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhầm lẫn, nếu chỉ nhìn cộng đồng diễn
giải văn học qua việc diễn giải văn bản bằng tình cảm chung, vừa mơ hồ lại vừa dễ “lây
nhiễm” nhất đó (chữ dùng của G.le Bon) của cộng đồng. Bởi vì trong phần lớn trường hợp

thì diễn giải là hoạt động cô đơn, ngay cả trong trường hợp hoạt động diễn giải mang tính
cộng đồng thì những cảm nghĩ của chúng ta vẫn giữ nguyên tính chất riêng tư của chúng.
Theo chúng tôi, yếu tố quy phạm là cái tạo nên sự liên kết của một cộng đồng diễn giải
văn học chứ không phải là bản thân hoạt động diễn giải được thực hiện chung. Các quy
phạm hoạt động trong cái chung này, trong kết cấu hiểu, hoặc nói theo ngôn ngữ của các
nhà lí luận văn học, trong cái cấu trúc – định trước, trong tri thức – thế giới, trong năng
lực văn học và tầm đón đợi, trong cộng đồng quy phạm. Cộng đồng quy phạm không phải
là nơi diễn ra hoạt động diễn giải chung của một cộng đồng, nghĩa là không phải hoạt
động diễn giải là cái chung mà là cái nền tảng của những quy phạm nằm sau sự diễn giải
văn bản. Đó là thứ quyền lực của sự cho phép và nghiêm cấm, là hệ thống của những quy
tắc chi phối người đọc. Chúng ta hiểu ở đây, những quy phạm không phải lúc nào cũng
đáp ứng được những lợi ích của sự diễn giải văn chương đích thực. Về vấn đề này, trong
một bài nghiên cứu gần đây
(16)
, chúng tôi có viết rằng cùng với sự phát triển của khoa học
văn học, đã hình thành hai hệ thống chuyển tiếp quan trọng được thiết chế hóa, đó là phê
bình văn học và giảng dạy văn học trong các nhà trường hàng ngày. Hai hệ thống này
chuyển tiếp những mô hình diễn giải văn bản văn học. Trong thực tế, mô hình diễn giải
tác phẩm văn học ở nước ta cho đến hôm nay vẫn chịu sự chi phối của mô hình phản ánh.
Một số nhà phê bình, giảng dạy văn học thay vì giúp mọi người nhận ra bản chất của văn
chương hay khả năng văn chương của ngôn ngữ, tiến tới chỉ ra sự vận động của tư duy
nghệ thuật qua từng giai đoạn phát triển của văn học, thì trái lại, người ta chỉ quan tâm tới
những yếu tố ngoài văn học qua nội dung được phản ánh, nhằm chứng minh một chân lí
nào đó ở bên ngoài, theomột hệ quy chiếu có sẵn.
Còn nhiều vấn đề để ngỏ. Người ta có thể thuộc về bao nhiêu loại cộng đồng diễn
giải, mỗi cộng đồng diễn giải chịu được bao nhiêu sự khác biệt ý kiến để nó không tan rã?
Cần nhìn nhận thế nào về mối quan hệ giữa diễn giải chuyên nghiệp và không chuyên
nghiệp? Về vấn đề tính đại chúng? Đối tượng của khoa học văn học là các văn bản văn
học với tất cả sự phức tạp của nó trong quan hệ với tác giả và người đọc. Những giới hạn
của cộng đồng diễn giải cũng chính là những giới hạn của khoa học văn học nói chung và

lí thuyết văn học nói riêng. Đúng như Gustave le Bon đã nói rất chí lí trong cuốn Tâm lí
học đám đông rằng: Chẳng gì chứng minh rõ hơn sự mê hoặc do một niềm tin chung gây
ra,nhưng cũng chẳng gì chỉ ra rõ hơn những giới hạn nhục nhã của trí tuệ con người
(17)
.
Điều quan trọng là chúng ta ý thức được về những giới hạn đó

×