Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Những cách tân thi pháp của Lê Đạt ở chùm thơ Chiều Bích Câu trong tập Bóng chữ (1994)" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.82 KB, 8 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


5
Những cách tân thi pháp của lê đạt
ở chùm thơ chiều bích câu trong tập bóng chữ (1994)

Nguyễn Thị Lan Chi
(a)


Tóm tắt. Chiều Bích Câu là một trong bốn phần của tập thơ Bóng Chữ (1994),
thể hiện sự đóng góp đáng kể của Lê Đạt vào việc cách tân thơ Việt Nam đơng đại.
Vị trí của chữ và cách đọc liên văn bản các bài thơ trong phần này là hai vấn đề cốt
lõi đợc chúng tôi làm rõ nhằm nhận diện đặc điểm thi pháp thơ Lê Đạt.

1. Lê Đạt sinh năm 1929 tại Yên
Bái, từng tham gia kháng chiến chống
Pháp, từng công tác tại Ban tuyên huấn
Trung ơng Đảng Cộng sản Việt Nam
và Hội Văn nghệ Trung ơng (tiền thân
của Hội Nhà văn Việt Nam). Ông là một
trong những thành viên chủ chốt của
nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đã từng bị
treo bút hơn ba mơi năm. Suốt thời
gian hoạn nạn này, Lê Đạt vẫn miệt
mài theo đuổi con đờng đổi mới thi ca
mà bản thân đã ấp ủ từ lâu. Trải


nghiệm một đời cùng bốn năm may mắn
đợc đọc sách tại th viện Khoa học Xã
hội đã tạo điều kiện cho nhà thơ hoàn
thành tập Bóng chữ năm 1994.
Tập thơ trình trớc ngời đọc một
trò chơi chữ hết sức thú vị - trò chơi có
khả năng đánh thức bản năng trò chơi
của độc giả, mà Roland Barthes gọi đó
là một sự chú ý bồng bềnh (attention
flottante). Với nó, ngời làm thơ rắp
tâm biến ngôn ngữ tiêu dùng thành một
thứ ngôn ngữ trò chơi, trong một trạng
thái nửa tỉnh nửa mơ. Tập thơ Bóng
chữ vừa trình làng đã gây d luận sôi
nổi trong giới phê bình văn học. Nhiều
ngời khẳng định đây là đóng góp mới
mẻ của Lê Đạt cho xu hớng muốn làm
mới thơ đơng đại.
Bóng chữ gồm có 138 bài thơ, nằm
trong dòng hiện đại chủ nghĩa, gồm
bốn phần với nội dung nh sau:
- Phần Giáo đầu là tiểu sử và chân
dung Lê Đạt.
- Phần thứ hai - Chiều Bích Câu -
một ẩn dụ về sự hội ngộ giữa ngời và
thơ.
- Phần thứ ba - Lão núi - một ẩn dụ
về lịch sử đất nớc.
- Phần thứ t - Mùi sầu riêng - tình
yêu và con ngời trong quá trình lịch sử

và văn hóa.
Bốn phần trong tập thơ đều thể
hiện sự phong phú và đa dạng của
những thể nghiệm đổi mới thơ. Riêng
Chiều Bích Câu đợc giới yêu thơ và
những nhà nghiên cứu - phê bình đặc
biệt chú ý, bởi qua chùm thơ này có thể
nhìn rõ ý đồ tạo dựng một phong cách
thơ riêng của Lê Đạt. Trong phạm vi
bài viết này, ngời viết tập trung làm rõ
đặc điểm thi pháp thơ Lê Đạt qua hai
vấn đề cốt lõi: vị trí của chữ và cách đọc
liên văn bản.

Nhận bài ngày 25/3/2008. Sửa chữa xong 31/3/2008.



Nguyễn Thị Lan Chi Những cách tân thi pháp của lê đạt , Tr. 5-12



6

Chiều Bích Câu viết theo thể thơ tự
do, có ba mơi hai bài và bài tựa. ở bài
tựa, Lê Đạt vừa lí giải cách đặt tên cho
các bài thơ, vừa gợi ra một không gian,
một địa chỉ cụ thể mà mơ hồ để trình
bày phơng thức làm thơ: có một tấm

lòng chân thành và một thái độ chăm
chỉ, siêng năng thì mới có cơ may gặp gỡ
chữ nghĩa của thơ:
Hẳn phải siêng năng, có lòng thành
Và nhất là biết chờ
Ngời đẹp vỏ chữ bớc ra
Giờ các con phe đi ngủ
Chữ trong thơ không chỉ là ngôn
ngữ giao tiếp. Hơn nữa cái hay của thơ
không thể nói một cách tờng minh,
cũng không ở chỗ thực dụng và chữ
trong thơ cũng không nằm hết ở nghĩa
tiêu dùng. Ngời làm thơ đòi hỏi con
chữ phải có sự sống riêng, tách rời
những từ điển và mẹo luật văn phạm
nh nàng Giáng Kiều trong truyện Bích
Câu, đã bớc ra khỏi bức tranh để
thành hiện thực. Bởi vậy, đối với ngời
làm thơ, thì một trò chơi chữ rất cần
thiết cho thơ, và trò chơi ấy bắt buộc sự

tham gia của cả ngời viết lẫn ngời
đọc. Theo Lê Đạt, do chữ bầu lên nhà
thơ, nên mỗi nhà thơ phải là một phu
chữ, nếu anh ta muốn mang đến một
điều gì mới lạ cho thơ, cho ngôn ngữ
tiếng Việt.
2. Thơ là nghệ thuật tạo hình bằng
chữ. Quả nh Lê Đạt đã đặt tên cho tập
thơ Bóng chữ, mỗi chữ trong thơ chỉ là

cái bóng của chữ khác, nó sống, nó
động, nó biến đổi, nó tự nhân lên. Bản
sắc của nó là đa ngã. Khảo sát và tìm
hiểu chùm thơ Chiều Bích Câu có thể
lập bảng thống kê sau về những sáng
tạo chữ của nhà thơ trên các cấp độ:
âm, từ, tiếng, hình ảnh, biểu tợng và
cấu trúc từ:

Tên bài thơ

Âm
Từ, tiếng (âm
tiết)
Hình ảnh và
Biểu tợng
Cấu trúc từ
Thuở xanh
hai
thuở xanh hai, thơ
nhỏ

Hoa mời giờ

lau quên mắt đuôi
Gốc khế tóc khế gốc nửa ngày khế
chát

Hái hoa hoa lúm, hoa bông
môi

anh hái hoa anh rừng, anh
lòng
Anh muốn quái chiều, xoe xập xanh xòe khuây hơng
Chiều Bích
Câu
mờ ơ mùi ma xa phố nhau đầu
Thủy lợi vỗ lòng, đong lúa một đàn ngày
trắng



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


7
Sông quê nghé sắt bầy em én
Quá em ò e trời mênh chim xe văn điển tu huýt yêu
Quen lạ ồ tóc hoa đèn áo buồm, cong nét
nắng
tim lần giở
Mới tuổi con thiến gáy phăn phăn, bổi hổi
Thu nhà em

lăm răm đồi cốm đờng thon
ngỏ cỏ
thu rất em,
xanh rất cao
Bóng chữ vờn thức em về trắng đầy
cong khung nhớ
chân cầu

Vào hè ô, hồ, ồ

anh đời, ngày thon

sóng đòng, buồm
nhấp nhô, thơm
trắng vỗ
Vờn màu vờn màu hoa đờng nắng cánh
sen
đèn hội
Thủy mặc bớc thon mắt thủy mặc
Mơ ngày ngã t may
Truyện bồ
câu
răm mát mắt lá nửa ngày
Nụ xuân ú ớ chớp đông, chợp
hồng, chũm cau tứ
thì
hè thon cong,
xanh nín lộc
Kênh chờ ngoại kênh chiều ngổn ngang,
Tỏ tình ngỏ, ngọng liễu đầu cành, đoạn
trờng xanh
ngữ ngoại
Chim ức lửa

giáng sơng khói Bích
Câu

Quê tầm

xuân
buột lau ăn lối đảo vô tâm, neo
buột nhớ
Chùa Hơng

u ơ suối giải oan ma
ngần
bến nụ hoa
Cấm vận kênh hoa sen, mùa
cấm vận, môi đèn

cong cánh mi rừng
chim vớng sớm

Thủy thủ tầm duyên, kênh
xanh
long mầy mò sóng mày thu,
mi rào
Anh ở lại à, ơi rứt én xanh, chữ
em, mới nghĩa
xuân biết, má hồng,
B52 Cống trắng
quả môi thơm



Nguyễn Thị Lan Chi Những cách tân thi pháp của lê đạt , Tr. 5-12




8
Thuở đầu
lòng
se se mùa nhỏ xa, lòng
mẫu tự
thuở đầu dòng,
đầu nhớ, đầu
trông
Những cái
hôn
o môi, phù sa sếu gọi đò ngang đất hẹn má
Phố nê ông hồ chành, mi thổi

em vờn hoa đảo
tím chân chim

át cơ
át cơ phố trò chơi,
mộng anh
hờng
Tuổi đèn tuổi đèn mộng khẩn, gió
ăng ten


Từ bản thống kê trên, có thể khẳng
định rằng khái niệm chữ có hàm nghĩa
rộng, đôi khi bao quát cả hình thức
ngôn từ của văn bản thơ. Tuy nhiên
điều Lê Đạt quan tâm trên hết vẫn là
từ hoặc tiếng (âm tiết) cùng hai mặt

ngữ âm và ngữ nghĩa của nó. Nhà thơ
nhiều lần nói rõ quan điểm: phải vợt
qua nghĩa tiêu dùng của từ đợc ghi
trong từ điển. Tất nhiên, từ sự quan
tâm khai thác các khả năng biểu đạt
của từ, của tiếng, ông đã làm mới cú
pháp thơ, làm mới cả bài thơ.
Đề cập đến sự đổi mới này trong thơ
Lê Đạt, cụ thể là trong chùm thơ Chiều
Bích Câu, trớc hết cần xét đến vị trí
của chữ biểu hiện ở ba phơng diện.
Đầu tiên là phơng diện ngữ âm - chữ
là âm. Hãy khảo sát một bài cụ thể -
bài Vào hè:
Anh đời bến nớc tên em mát
Đội mắt em qua mấy nắng rồ
Ơi em rất ô
Ơi em rất hồ
Trắng vỗ ồ hô trúc bạch
Bớc động ngày thon róc rách
Tìm nghĩa của chữ theo Từ điển
tiếng Việt, ta sẽ thấy chữ trong thơ Lê
Đạt thực sự là một mê cung. Các chữ ô,
hồ, ồ hô trong các câu thơ đã làm rõ
sáng tạo chữ của Lê Đạt trên phơng
diện ngữ âm. Chính ý nghĩa của âm
thanh từ các chữ nêu trên đã khiến
ngời đọc ngạc nhiên thích thú.
Xét đến phơng diện chữ là từ vựng,
ngữ nghĩa, ta thấy trong cả ba mơi hai

bài của chùm thơ Chiều Bích Câu, hầu
hết các từ đều đợc khoác thêm một bộ
áo mới. Điển hình là bài Anh muốn:
Anh muốn làm bông hoa
Đầu xuân cài cỏ mộ
Thơm em đôi nỗi hờng
Khuây hơng đừng khóc nữa.
Chữ hờng dùng trong đoạn này
rất hay, bởi nếu thay nó bằng một chữ
tơng tự nh hồng (thơm em đôi nỗi
hồng) thì ý tởng của câu thơ sẽ khác.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


9
Có nó, sự kết nối giữa câu đầu và câu
cuối, cũng nh sự kết hợp vần giữa hai
chữ hờng- hơng để miêu tả sự
day da, không dứt sẽ đợc đảm bảo.
Ngoài ra, chữ hờng còn gợi liên
tởng về một vẻ đẹp e thẹn, một niềm
hạnh phúc. Rõ ràng, việc làm mới chữ
buộc ngời đọc thơ ít nhiều phải chịu
khó t duy, tìm hiểu và đi sâu vào bản
chất đa nghĩa, đa ngã của chữ. Quả nh
Lê Đạt đã tuyên bố: trò chơi chữ nghĩa
đòi hỏi ngời sáng tạo phải siêng năng,

cần cù, tìm đợc bóng của chữ thì mới
đạt ý nguyện. Chữ lau ăn lối trong bài
Quê tầm xuân là một hình ảnh rất đa
nghĩa vì nó vừa gợi liên tởng về một
cảnh cụ thể, vừa bày tỏ niềm khát khao
tình ái không tiện giãi bày một cách
tờng minh. Sự sáng tạo chữ đã mở ra
một con đờng mới cho ngời đọc thơ đi
vào một thế giới ngôn ngữ khác. ở đó,
mỗi chữ có một nét nghĩa riêng luôn
luôn yêu cầu sự khám phá không mệt
mỏi.
Để hiểu sáng tạo chữ của Lê Đạt ở
phơng diện kết cấu, có thể xem xét bài
Chiều Bích Câu nh một ví dụ điển
hình:
Mùi ma xa
Lòng cha tạnh
Phố nhau đầu
Hay trong bài Tỏ tình:
Em trung tâm nào
Ngữ ngoại tim anh.
Lê Đạt mợn biện pháp đảo từ để
tạo các chữ mới: phố nhau đầu - đầu
phố có nhau, ngữ ngoại - ngoại ngữ.
Song, giá trị của chữ mới thể hiện ở
nghĩa biểu đạt của nó. Độc giả dễ bị
mắc lừa nếu cho rằng ngữ ngoại là một
cách nói của ngoại ngữ, bởi ở câu trớc
của nó có chữ trung tâm. Đó là cái bẫy

của trận đồ chữ. Thật ra, sáng tạo chữ
theo phơng thức này, Lê Đạt làm cho
trò chơi chữ thêm lôi cuốn. Trong câu
thơ, chữ ngữ ngoại là tiếng nói ở vùng
ngoài, hàm ý miêu tả một sự kiếm tìm
tín hiệu của tình yêu, một nỗi nhớ
nhung da diết cần phải tỏ bày. Nhân
vật anh đang chờ đợi tiếng nói của
ngời mình yêu, một sự đáp ứng từ em
đang ở một vùng nào đó. Cảm xúc tình
yêu phát ra, cần tìm thấy tín hiệu của
sóng. Câu thơ trở nên đa nghĩa nhờ chữ
phát sáng. ánh sáng yêu cầu độc giả
cùng nhà thơ đồng sáng tạo trên từng
con chữ.
Quen lạ là một bài thơ hay vì nó
đã chứng minh các yêu cầu vừa phân
tích: thơ hay không thể nói một cách
tờng minh, mà còn đánh đố ngời đọc
trong trò chơi chữ nghĩa. ở trò chơi này,
Lê Đạt bày trận đồ chữ bằng hình thức
lạ hóa, để từ đó mở ra nhiều chiều
nghĩa làm cho việc biểu đạt nghĩa luôn
đa dạng, sự liên tởng cũng không kém
phần phong phú. Bằng cách tân chữ
trong thơ mà Quen lạ đợc hiểu là
một bài thơ rất tình, rất trẻ. Phải chăng
với sự đổi mới này trong tập Bóng chữ
nói chung, Chiều Bích Câu nói riêng, Lê




Nguyễn Thị Lan Chi Những cách tân thi pháp của lê đạt , Tr. 5-12



10
Đạt đã xây dựng ở ngời đọc một nhận
thức mới về thơ và ngôn ngữ thơ. Khi
đối chiếu với những tác phẩm thơ trớc
đó, độc giả sẽ tìm thấy sự khác biệt.
Thứ nhất, chữ trong thơ không còn đợc
hiểu theo nghĩa trong từ điển. Ví dụ chữ
liễu trong bài Vào hè của Lê Đạt (Tóc
liễu trờng tân thơ cổ Trời xanh cô
ban rất Đờng) rất khác với những chữ
liễu trong các câu thơ sau:
Dới cầu nớc chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thớt
tha.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn
hàng.
(Xuân Diệu, Đây mùa thu tới)
Nói chung, sự cách tân mang dấu ấn
Lê Đạt nói trên đã góp phần làm giàu
cho ngôn từ thơ cũng nh từ trong ngôn
ngữ tiếng Việt.
Bài Thu nhà em đã đợc mở đầu:

Anh đến mùa thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Thật lạ, tại sao tác giả không viết
là:
Mùa thu anh đến nhà em
Vũng nhỏ lăm răm nắng cúc.
Nhng những cái lạ có trong câu thơ
gốc buộc ngời đọc phải luôn vận động
t duy và không ngừng đi tìm. Trên con
đờng đi tìm đó, độc giả buộc phải chú ý
đến mối tơng tác giữa mỗi con chữ với
các yếu tố cấu thành khác của bài thơ.
Bởi xét cho cùng, hai câu thơ trên
không thể đổi vị trí chữ đợc là vì Lê
Đạt dùng chữ vũng nhỏ để chỉ đôi mắt.
Nó kết hợp chữ nắng cúc và chữ lăm
răm trớc đó, đều gợi đến các câu ca
dao, đến bài thơ Gửi cô hàng cau của
Tản Đà và hình ảnh mùa thu trong thơ
Nguyễn Khuyến. Tất cả không ngoài
mục đích mở ra liên tởng về một cái
nhìn rất đằm thắm, thiết tha, ngất
ngây tình tứ. ở đây cần phải ghi nhận
sự sáng tạo cùa Lê Đạt trên phơng
diện cú pháp.
3. Tính liên văn bản là một đặc
điểm nổi bật khác của thơ Lê Đạt mà
độc giả phải nắm bắt để giải mã ngôn
ngữ thơ ông. Qua việc tìm hiểu cách
thuyết minh về khái niệm liên văn bản

của các nhà nghiên cứu nh Kristera,
Riffaterre, Roland Barthes, có thể hiểu
rằng: mỗi văn bản là một liên văn bản,
ở đó, các văn bản khác cùng hiện hữu
để góp phần chi phối và làm thay đổi
diện mạo của văn bản ấy, mỗi văn bản
là một sự hấp thụ và chuyển thể của các
văn bản khác. Thật vậy, khảo sát chùm
thơ Chiều Bích Câu ta luôn tìm thấy
tính liên văn bản ở hầu hết các bài thơ
và ngay cả ở phần tựa. Nó thể hiện
trớc hết ở dấu ấn truyền thống văn
hóa, văn học dân tộc in trên mỗi bài thơ
cụ thể. Đọc các bài thơ nh Gốc khế,
Chiều Bích Câu, Sông quê, Anh muốn
ta đều thấy sự có mặt của những thi
liệu dân gian. Còn trong các bài nh
Thủy lợi, Thủy thủ, Truyện bồ câu,



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


11
Kênh chờ, Tỏ tình ta lại thấy có
những thi liệu thơ cổ điển. Trong các
bài thơ vừa dẫn đều có sự tái sinh của
các quan niệm thẩm mỹ truyền thống
và môi trờng văn hóa cổ truyền. Đa

phần các bài trong chùm thơ Chiều Bích
Câu đều ngắn nhng lại chứa đựng
nhiều tầng nghĩa. Phải chăng nhà thơ
đang tiếp nối sự kiệm lời, ý tại ngôn
ngoại của thơ truyền thống? Cũng qua
thơ Lê Đạt, ngời đọc tìm thấy một
quan niệm rất Việt Nam về cái đẹp thể
chất, cái đẹp tình ngời, đồng thời cũng
nhận ra nhiều thói quen văn hóa của
ngời Việt.
Bên cạnh các dấu ấn vừa nêu, chùm
thơ Chiều Bích Câu còn cho thấy có một
cuộc chơi chữ nghĩa trên các văn bản
thơ truyền thống. Tác giả dùng các văn
bản thơ đã có từ trớc để làm phông cho
những tình ý mới nh bài Thủy lợi:
Một đàn ngày trắng phau phau
Bì bạch bờ xoan nớc mát
Chỉ hai câu thơ mà trong đó vừa có
câu đố dân gian về việc rửa bát:
Một đàn cò trắng phau phau
Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm
vừa có hình ảnh một vế đối của Hồ
Xuân Hơng: Da trắng vỗ bì bạch. Khi
đọc thơ Lê Đạt, việc liên hệ thờng
xuyên đến những văn bản thơ truyền
thống sẽ giúp độc giả cảm nhận đợc
tính đa nghĩa, đa ngã đặc trng cho chữ
nghĩa thơ Lê Đạt. Hãy đọc bài Chùa
Hơng:

Nớc ngực triều dâng con nhớ
Phấn vàng chim thỏ thẻ mơ non
Bến nụ hoa tròn môi đợi nói
Suối Giải Oan ma ngần
Lê Đạt đã làm trẻ lại những văn
bản thơ truyền thống thông qua những
hành động biến cải chủ đề. Tác giả đã
để các văn bản thơ truyền thống luôn
đồng hành với mình trong t duy sáng
tạo. Rõ ràng, muốn hiểu thơ Lê Đạt,
phải có một sự tích luỹ tri thức văn học
đáng kể. Xin nhắc lại bài tựa của Chiều
Bích Câu:
Làm cách nào có thơ hay?
Hỏi vậy khác gì hỏi làm cách nào
gặp
Tiên tại phờng Bích Câu ?
Mọi câu thơ hay đều kì ngộ.
Hẳn phải siêng năng, có lòng thành
và nhất là biết chờ
ngời đẹp vỏ chữ bớc ra
Giờ các con phe đi ngủ.
Qua bài thơ trên, Lê Đạt đã thâu
tóm toàn bộ quan niệm và qui trình
sáng tạo của mình, khẳng định một thi
pháp hoàn toàn mới mẻ đợc xây dựng
trên cơ sở kế thừa những nét đẹp của
bản sắc văn hóa, văn học dân tộc. Sự
đóng góp này của Lê Đạt đã mang lại
cho dòng thơ đơng đại một bớc tiến,

mà trớc hết là làm cho ngôn ngữ thơ
giàu sức sống. Việc đánh giá thơ Lê Đạt
gắn liền với một đòi hỏi: độc giả thơ bây
giờ cần đợc trang bị một trình độ t
duy và kiến thức văn học phù hợp để
hiểu thơ của hôm nay hay đúng hơn là
để nhập đợc vào thế giới thơ đang
trong xu hớng đổi mới.



Nguyễn Thị Lan Chi Những cách tân thi pháp của lê đạt , Tr. 5-12



12

TàI LIệU THAM KHảO

[1] Xuân Diệu, Công việc làm thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1984.
[2] Lê Đạt, Nghiệp thơ, Tia sáng, số tháng 7, 2003.
[3] Lê Đạt, Đờng chữ, Văn nghệ (phụ san Thơ), số 5, 2003.
[4] Lê Đạt, Lời xông đất, Tia sáng, số Xuân, 2007.
[5] Thụy Khuê, Từ lãng mạn đến siêu thực,

[6] Thụy Khuê, Cấu trúc thơ, Văn Nghệ xuất bản, California, Hoa Kỳ, 1996.
[7] Trần Đình Sử, Tuyển tập, tập 2, NXB Văn học, 2005.
[8] Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Xuân Sanh với Buồn xa, Ngôn ngữ số 6, 2002.
[9] Đặng Tiến, Lê Đạt và Bóng chữ, Ngời Hà Nội số 14, 15, 1995.



SUMMARY

LEDAT'S INNOVATIONS OF VERSIFICATION
IN A SET OF POEMS CHIEU BICH CAU IN BONG CHU VOLUME

Chieu Bich Cau - one of the four parts in Bong chu (the shade of words) volume
(1994) expressed the noticeable contribution of Le Dat to innovating Vietnamese
contemporary poetry. The position of words and the ways to read intertextual poems
in this part were the two key issues we clarified to identify the characteristics of
LeDats versification.

(a)
Cao học 13 Lý luận văn học, trờng Đại học Vinh.

×