Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

KẾ TOÁN CƠ SỞ DỒN TÍCH CÓ ĐIỀU CHỈNH: BAO HÀM VAI TRÒ CỦA SỐ DƯ QUỸ VÀ ỦY QUYỀN NGÂN SÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.14 KB, 51 trang )

TP. HỒ CHÍ MINH - 2012

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012
CHAPTER 3: MODIFIED ACCRUAL ACCOUNTING
CHAPTER 3: MODIFIED ACCRUAL ACCOUNTING
BÀI TẬP NHÓM
Thực hiện: Nhóm 2 – Kế toán đêm K20
1. Võ Thị Diệu Hiền
2. Đặng Quan Sang
3. Nguyễn Thụy Minh Tâm
4. Nguyễn Thị Bích Phượng
5. Nguyễn Thị Thùy Phương
6. Nguyễn Thị Xuân Linh
GV hướng dẫn: Ths. Phạm Quang Huy
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
ooOoo
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
*****




































Chương 3: Modified Accrual Accounting
CHƯƠNG 3
KẾ TOÁN CƠ SỞ DỒN TÍCH CÓ ĐIỀU CHỈNH: BAO HÀM
VAI TRÒ CỦA SỐ DƯ QUỸ VÀ ỦY QUYỀN NGÂN SÁCH
Khi người dân trở nên quan tâm đến chính phủ của họ thì chính phủ sẽ trở
nên có trách nhiệm giải trình hơn, xã hội chúng ta trở nên mạnh hơn, nhiều chế

độ hơn và được tổ chức tốt hơn trước những thách thức trong tương lai. Arnold
Schwarznegger, thống đốc thứ 38 của California
Chắc chắn là có những người không đáng tin cậy trong chính quyền địa
phương, nhưng trong chính quyền quốc gia cũng sẽ có. Richard M. Nixon, tổng
thống thứ 37 của Mỹ và là tổng thống duy nhất từ chức.
Mục tiêu nghiên cứu:
• Mô tả các tài khoản cơ bản được sử dụng trong các quỹ chính phủ.
• Xác định các điều kiện ghi nhận các khoản doanh thu và chi tiêu theo cơ sở
dồn tích có điều chỉnh.
• Phân loại các quỹ đối với các quỹ của chính phủ.
• Lập các bút toán ghi sổ cho chu kỳ chi tiêu sử dụng cho cả tài khoản ngân
sách và tài khoản hoạt động.
Nét đặc biệt dễ phân biệt nhất của kế toán công đó chính là việc sử dụng cơ sở
dồn tích có điều chỉnh (và đo lường các nguồn lực tài chính).
(1)
Mặc dù việc sử
dụng cơ sở dồn tích có điều chỉnh bị giới hạn trong một loại quỹ (là các quỹ chính
phủ) và duy nhất các báo cáo quỹ, nhưng không có nghĩa là nó không quan trọng.
Chúng ta nên chú ý rằng mỗi mục đích chung của chính phủ sẽ có ít nhất một quỹ
chung (General fund) và nguồn quỹ chung thì thường là lớn nhất khi tính các
khoản mục chi tiêu của chính phủ. Hơn nữa, do hầu hết thuế doanh thu thì được
ghi nhận vào nguồn kinh phí chung và nguồn kinh phí khác của chính phủ, do đó
các nguồn kinh phí này được quan tâm đặc biệt bởi những người nộp thuế.
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 1
Chương 3: Modified Accrual Accounting
(1)
Dồn tích có điều chỉnh được sử dụng xuyên suốt cả chương này để trình bày
cho cả đo lường các nguồn lực tài chính và cơ sở dồn tích có điều chỉnh của kế
toán
Trước khi mô tả chính xác cơ sở dồn tích có điều chỉnh là gì, có thể hữu ích để

mô tả cái gì không phải cơ sở dồn tích có điều chỉnh. Cơ sở dồn tích có điều chỉnh
không giống cơ sở tiền. Các quỹ chính phủ ghi nhận các khoản phải thu (ví dụ
như thuế phải thu) và doanh thu trước khi thu tiền, điều đó không đúng với cơ sở
tiền. Tương tự chính phủ ghi nhận các khoản nợ phải trả (ví dụ lương phải trả) và
chi phí phát sinh khi phải trả chứ không đợi đến khi thanh toán thực sự diễn ra.Cơ
sở dồn tích có điều chỉnh cũng không đơn thuần là phiên bản của cơ sở dồn tích,
Sự khác nhau duy nhất của chúng đó là việc ghi nhận tài sản dài hạn và nợ phải
trả.
Cơ sở dồn tích có điều chỉnh là hệ thống riêng biệt của kế toán công, chứa
đựng các yếu tố của báo cáo tài chính mà không xuất hiện ở kế toán khác. Trong
số đó là các khoản chi tiêu và số dư quỹ. Đồng thời, cơ sở dồn tích có điều chỉnh
chứa đựng các yếu tố khác cũng sử dụng cơ sở dồn tích, như tài sản và nợ phải trả.
Mặc dù doanh thu xuất hiện trên báo cáo tài chính của các quỹ dồn tích và các quỹ
dồn tích có điều chỉnh, doanh thu theo các điều kiện ghi nhận khác nhau giữa hai
cơ sở. Cuối cùng, không có khoản chi phí (expenses) trong quỹ dồn tích có điều
chỉnh. Các phần dưới đây sẽ mô tả cấu trúc tài khoản và các tiêu chuẩn ghi nhận
cho quỹ chính phủ. Cơ sở dồn tích có điều chỉnh phát triển từ yêu cầu về trách
nhiệm giải trình các nguồn lực công và do đó bị ràng buộc với chức năng ngân
sách. Kế toán ngân sách được minh họa trong phục lục của chương này.
CÁC TÀI KHOẢN DỒN TÍCH CÓ ĐIỀU CHỈNH
Các tài khoản Bảng cân đối kế toán
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 2
Chương 3: Modified Accrual Accounting
Minh họa 3-1 cung cấp cấu trúc điển hình cho một quỹ công đang sử dụng kế
toán dồn tích có điều chỉnh. Bảng 1 trình bày các tài khoản bảng cân đối kế toán.
Bởi vì các quỹ công được báo cáo theo mục tiêu đo lường các nguồn lực tài chính
ngắn hạn, tài sản dài hạn không được trình bày. Nói chung, tài sản đại diện cho
tiền mặt và tài sản có thể được dự kiến sẽ được chuyển đổi thành tiền trong quá
trình hoạt động thông thường. Tương tự như vậy, những quỹ này chỉ báo cáo duy
nhất nợ phải trả sẽ được thanh toán bởi các nguồn lực tài chính ngắn hạn. Do đó,

các khoản nợ dài hạn không được báo cáo trong các quỹ công.
Các loại tài khoản, chênh lệch chưa xử lý (fund balance), là duy nhất cho các
quỹ công. Không phải chủ sở hữu cũng không phải cử tri có yêu cầu pháp lý về
bất kỳ phần vượt nào của tài sản quỹ so với nợ phải trả. Do đó, chênh lệch chưa
xử lý (Fund balance) không giống như vốn đầu tư chủ sở hữu trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chênh lệch chưa xử lý (Fund balance) cũng tương tự như lợi nhuận giữ
lại, trong đó tất cả số dư của các tài khoản hoạt động sẽ được kết chuyển vào tài
khoản này vào cuối kỳ kế toán. Về mặt số học thì chênh lệch chưa xử lý khá giống
với lợi nhuận giữ lợi, nhưng về diễn giải thì rất khác.
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 3
Chương 3: Modified Accrual Accounting
MINH HỌA 3-1 CẤU TRÚC TÀI KHOẢN CỦA CÁC QUỸ CÔNG
Bảng 1: Các tài khoản chưa được khóa sổ ở cuối năm (bảng cân đối)
Tài sản Nợ phải trả
Tiền và tương đương tiền Các tài khoản phải trả
Đầu tư Các khoản nợ dồn tích
Các khoản phải thu: Thu nhập hoãn lại
Thuế được khấu trừ
Các khoản phải thu Chênh lệch chưa xử lý
Các khoản thu từ cơ quan khác Khoản không được chi (spendable)
(Due from other governments)
Hàng tồn kho Các khoản bị hạn chế (Restricted)
Các khoản cam kết(Committed)
Tài sản hạn chế (thường là tiền) Các khoản được giao (Assigned)
Các khoản chưa được giao (Unassigned)
Bảng 2: Các tài khoản đã được khóa sổ vào cuối năm
Báo cáo tài chỉnh
Các tài khoản ngân sách Các tài khoản họat động
Doanh thu dự toán Doanh thu
Thuế

Phí dịch vụ
Các khoản phân bổ Chi tiêu
Ngắn hạn
Kinh phí vốn (Capital outlay)
Dịch vụ nợ
Nguồn tài chính dự toán khác Nguồn tài chính khác (Other financing sources )
Các khoản chuyển vào (Transfers in)
Nợ tồn đọng (Debt proceeds)
Nguồn chi dự toán khác Các khoản chi khác
Các khỏan chuyển nhượng ra ngoài (transfer in)
Nghĩa vụ nợ (encumbrances)
Bởi vì chỉ các nguồn tài chính ngắn hạn được ghi nhận trong các quỹ này,
chênh lệch giữa tài sản và nợ phải trả (fund balance) đại diện cho giá trị ròng của
các quỹ hiện tại sẵn sàng cho các khoản chi tiêu trong tương lai. Tuy nhiên, các
nguồn tài chính ngắn hạn khác nhau về mức độ mà các nhà quản lý có quyền
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 4
Chương 3: Modified Accrual Accounting
quyết định sử dụng trong tương lai và điều này được phản ánh bởi việc phân bổ số
dư của năm loại quỹ (khoản không được chi, các khoản bị hạn chế, khoản cam
kết, các khoản được giao, các khoản chưa giao).
Một công bố gần đây của GASB (GASB 54, báo cáo số dư quỹ và xác định
các loại quỹ) thiết lập các yêu cầu báo cáo cho khoản chênh lệch chưa xử lý. Báo
cáo GASB 54 thiết lập 5 loại mới của chênh lệch chưa xử lý loại bỏ các loại dự
toán và không dự toán trước đó. (Báo Cáo GASB 54 được yêu cầu cho kết thúc
năm tài chính vào tháng 6/2011 và sau này). Các tiêu chuẩn chỉ ảnh hưởng duy
nhất tới nguồn vốn của bảng cân đối của quỹ công. Nó không thay đổi báo cáo tài
sản ròng của các quỹ ủy quyền và ủy thác hoặc báo cáo tài chính toàn chính phủ
của tài sản ròng.
Chuẩn mực mới là phản hổi của GASB đến những người tham gia thị trường
tín dụng đã tìm nhiều thông tin hơn về số dư sẵn có của các quỹ. Đặc biệt các nhà

đầu tư trái phiếu cũng muốn hiểu rõ phạm vi của nguồn tài chính ròng của các quỹ
công bị hạn chế và bằng cách nào. Ví dụ, các nguồn quỹ có thể bị giới hạn bởi các
chủ nợ, các nhà tài trợ hoặc các cấp cơ quan. Nguồn lực có thể là những cam kết
thông thường bởi các đại biểu cho các hoạt động cụ thể. Ngoài ra, khó khăn không
chỉ đơn thuần là những chỉ dẫn không bắt buộc của mục đích quản trị để sử dụng
cho một mục đích cụ thể. Báo cáo 54 thiết lập phân loại quỹ mới để phản ánh
những mức độ khác nhau của các giới hạn này.
Nonspendable Fund Balances Minh hoạ 3-2 tóm tắt các yêu cầu báo cáo
cho khoản chênh lệch chưa xử lý theo báo cáo 54. Bước đầu tiên áp dụng cho báo
cáo 54 là xác định các nguồn quỹ nonspendable. (bước 1 trong hình minh hoạ).
Hàng tồn kho và các khoản mục trả trước xuất hiện trong các quỹ công bởi vì
chúng là những tài sản hiện hữu. Tuy nhiên, các khoản này là không có khả năng
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 5
Chương 3: Modified Accrual Accounting
chi bởi vì chúng được sử dụng trong hoạt động chứ không chuyển đổi thành tiền
mặt. Nguyên tắc của quỹ cố định có thể không được chi tiêu nhưng bắt buộc phải
duy trì thì cũng có thể xem là nonspendable. Các ví dụ khác, bao gồm các tài sản
giữ để bán và các khoản phải thu dài hạn đôi khi được báo cáo trong các quỹ
công.
Các phần còn lại của quỹ (nợ phải trả) bao gồm tiền và các khoản có thể
chuyển đổi thành tiền trong kỳ tới. Các khoản không chuyển đổi thành tiền được
phân loại dựa trên tính chất của các hạn chế mà họ sử dụng. bằng cách sử dụng hệ
thống cấp bậc. Hệ thống cấp bậc từ “restricted” cho đến “unassigned”.
Restricted fund balances (item mục 2 trong phần minh hoạ) đại diện cho các
nguồn lực ròng của quỹ công bị hạn chế bởi các yếu tố bên ngoài hoặc luật.
Hạn chế bởi các yếu tố bên ngoài bao gồm: điều khoản nợ (như là yêu cầu
cho một khoản quỹ chìm) hoặc các hạn chế áp đặt bởi pháp luật hoặc các cơ quan
liên bang và tiểu bang về việc sử dụng các khoản thu liên chính phủ. Hạn chế
cũng có thể do thực thi các yêu cầu về mặt pháp lý rằng các nguồn tài nguyen chỉ
được sử dụng cho các mục đích cụ thể. Ví dụ, một số tiểu bang cho phép các

thành phố và các quận đề xuất các loại thuế đánh vào việc bán chế biến thực phẩm
và đồ uống. Nếu được chấp thuận bởi các cử tri, cuộc trưng cầu ý dân thường hạn
chế việc sử dụng số tiền thuế đã thu (thường với các dự án vốn). Các khoản không
dùng hết từ thuế sẽ được hiển thị như là các khoản chênh lệch chưa xử lý bị hạn
chế.
Những khoản mục ròng (ví dụ như vốn chủ sở hữu) trong báo cáo tài sản
ròng của quốc gia phân tài sản ròng thành 3 loại. Với một ngoại lệ, những khoản
được phân loại như tài sản ròng bị hạn chế trong báo cáo của chính phủ cũng được
phân loại như chênh lệch chưa xử lý bị hạn chế trong báo cáo quỹ cơ bản. Trường
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 6
Chương 3: Modified Accrual Accounting
hợp ngoại lệ này là nguyên tắc của quỹ cố định. Những khoản được phân loại là
tài sản bị hạn chế theo GASB 34 và chênh lệch chưa xử lý không chuyển đổi theo
GASB 54
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 7
Chương 3: Modified Accrual Accounting
MINH HỌA 3-2 Biểu đồ của GASB statement 54
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 8
Báo cáo như
“Nonspendable Fund
Balance”
Đây có phải là những tài sản
(hàng tồn kho hoặc trả trước)
không trong khoản mục có
khả năng chi tiêu? Hoặc CP
được yêu cầu phải duy trì
nguồn kinh phí thường
xuyên?
Đây có phải là số dư còn lại của
các nguồn kinh phí trong nguồn

kinh phí chung hay không?
Nguồn kinh phí ròng trong
nguồn kinh phí chung có được
chỉ định cho mục đích cụ thể
hay chưa?
Số dư
âm hay
dương?
Số dư
âm hay
dương?
Báo cáo như
“Committed Fund
Balance”
Số dư
âm hay
dương?
Báo cáo như “Assigned
Fund Balance”
Đây có phải là những nguồn
kinh phí ròng bị hạn chế bởi
luật hay là kết quả của các yêu
cầu của chủ nợ bên ngoài, đối
tác, hoặc các cơ quan?
Cơ quan quản lý đã cam
kết nguồn kinh phí ròng
cho các hoạt động cụ
thể? Có nghĩa vụ theo
hợp đồng nào đang treo?
Số dư còn lại trong nguồn kinh phí

chung
Trừ số dư kinh phí được
giao với số dư âm. Nếu số
dư âm vẫn còn
Báo cáo như
“Unassigned Fund
Balance”
+
-
+
+
-
-
1
2a
2b
2c
2d
Báo cáo như “Restricted
Fund Balance”
Chương 3: Modified Accrual Accounting
Committed fund balance (mục 2b trong hình minh họa) đại diện cho các
nguồn lực ròng của quỹ công đã được chỉ định cho từng khoản sử dụng cụ thể. Để
phân loại, các nguồn quỹ nên được chỉ định thông qua các sắc lệnh hoặc quy định
được ban hành bởi cơ quan có quyền lực cao nhất (ví dụ, cơ quan lập pháp, hội
đồng thành phố, hoặc hội đồng giám sát). GASB cũng đã chỉ ra rằng sự khác nhau
từ bị hạn chế cho đến bắt buộc thì phải do chính phủ áp đặt. GASB 54 cũng chỉ ra
rằng số lượng đại diện cho các nghĩa vụ bắt buộc của chính phủ cũng nên phân
loại như committed fund balance, các nguồn quỹ hiện có cũng được sử dụng cho
các nghĩa vụ bắt buộc đó. Các báo cáo thường không công bố các nghĩa vụ bắt

buộc nhưng nó vẫn hợp lý vì chúng là những thẩm quyền quan trọng cho những
hoạt động chính của chính phủ. Ví dụ, chính phủ chấp thuận các hợp đồng xây
dựng lớn là ví dụ tiêu biểu cho committed of the funds.
Assigned fund balance (khoản 2c trong hình minh họa) đại diện cho các
nguồn quỹ ròng mà chính phủ dự định cho các mục đích cụ thể. Các nguồn kinh
phí được giao khác với nguồn kinh phí cam kết là nguồn kinh phí cam kết sử dụng
cho các hoạt động chính của chính phủ. Điểm hạn chế của nguồn kinh phí được
giao đó là nó có thể dễ dàng bị sửa đổi hoặc gỡ bỏ. Quỹ chung so với các quỹ
công, thì đây là một loại trong các loại quỹ có dư. Lý do là việc chép nguồn kinh
phí trong doanh thu đặc biệt, dự án vốn, nợ, hoặc các quỹ cố định là minh chứng
cho việc chính phủ sử dụng các nguổn kinh phí cho mục đích cụ thể. Nguồn kinh
phí trong quỹ chung cũng có thể được giao cho các mục đích cụ thể nếu đó là chủ
ý của chính phủ. Chủ ý này có thể được thể hiện thông qua các cơ quan quản lý
bằng các phương tiện khác chứ không phải pháp lệnh, nghị quyết hoặc bởi ủy ban
hoặc cá nhân có thẩm quyền giao nguồn kinh phí cho các hoạt động cụ thể. Cấp
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 9
Chương 3: Modified Accrual Accounting
kinh phí trong quỹ chung thể hiện rõ mục đích sử dụng nhiều giới hạn hơn là hỗ
trợ mục đích chung của chính phủ.
Unassigned fund balance (mục 2d trong hình minh họa) là thể loại còn lại
của quỹ chung. Trong quỹ chung có thể chính phủ sẽ không báo cáo tổng số dư
của nguồn kinh phí được giao nếu số dư cho mục đích cụ thể này nằm trong trong
số dư âm của nguồn kinh phí không được giao. Số dư âm có thể xảy ra nếu chi phí
chi ra cho các mục đích cụ thể lớn hơn nguồn kinh phí được giao. Tuy nhiên, báo
cáo 54 không cho phép báo cáo âm các số dư của nguồn kinh phí restricted,
committed hoặc assigned. Nếu việc đó xảy ra, chính phủ nên giảm số dư của
nguồn kinh phí được giao (trong nguồn kinh phí này) bằng tổng số âm. Nếu thâm
hụt vẫn còn khi toàn bộ nguồn kinh phí được giao đã cấn trừ hết, thì số âm còn lại
sẽ được báo cáo trong nguồn kinh phí không được giao. Báo cáo 54 cũng cung
cấp các hướng dẫn về phân loại quỹ cố định và quỹ không cố định. Quỹ không cố

định là tổng số tiền dành cho kỳ kinh tế suy thoái trong tương lai. Tổng số quỹ cố
định đáp ứng 1 số tiêu chí nhất định được phân loại như committed hoặc
restricted, nếu bị áp đặt bởi yếu tố bên ngoài hoặc luật pháp. Quỹ không cố định
thì chỉ phân được phân loại duy nhất như committed khi có pháp lệnh cụ thể quy
định chúng là nguồn kinh phí có thể chi tiêu. Quỹ không cố định được để sẵn cho
trường hợp khẩn cấp hoặc trong gian đoạn thiếu hụt thu sẽ không được phân loại
như committed trừ trường hợp khẩn cấp hoặc điều kiện thiếu hụt cụ thể và cường
độ xảy ra thường xuyên. Quỹ không cố định không đáp ứng các điều kiện trên thì
được báo cáo như nguồn kinh phí không được giao trong kinh phí chung.
Minh họa 3-3 cung cấp 1 ví dụ về báo cáo số dư quỹ của thành phố Salem đã
được ví dụ trong chương 2. Lưu ý rằng bảng cân đối kế toán các quỹ chính phủ
chỉ là bảng báo cáo tài chính chịu tác động bởi statement 54.
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 10
Chương 3: Modified Accrual Accounting
Các tài khoản hoạt động trên báo cáo tài chính (Financial Statement
Activity Accounts)
Bảng 2 của mình họa 3-1 trình bày tài khoản hoạt động và tài khoản ngân
sách cho các quỹ chính phủ. Tài khoản hoạt động phản ánh nguồn quỹ và việc sử
dụng quỹ; các ví dụ được đưa ra chi tiết ở chương 4 và 5. Các khoản doanh thu
và các nguồn thu khác là nguồn (hay là dòng vào) của nguồn tài chính trong khi
các khoản chi tiêu và sử dụng tài chính khác thể hiện việc sử dụng (hay là dòng
ra) của nguồn tài chính. Các nguồn doanh thu khác (Other Financing sources
Revenues) được xác định như là tất cả các dòng thu vào khác và bao gồm thuế,
phí dịch vụ và các khoản được cung cấp bởi các cơ quan như là chính quyền bang
và liên bang. Do thuế và nhiều khoản doanh thu khác không liên quan đến các
giao dịch bồi hoàn, chính phủ không thể xác định thời điểm mà tại đó các khoản
doanh thu này được tạo ra. Vì thế, sự ghi nhận doanh thu xảy ra khi các nguồn lực
kết quả được cho là phải vừa đo lường được vừa sẵn có cho chi tiêu của kỳ hiện
hành. Sự ghi nhận doanh thu cho các dạng riêng biệt của giao dịch không bồi
hoàn được mô tả tiếp theo trong chương này.

Chi tiêu (Expenditure) là một khoản thay thế cho cả khoản giá phí (costs) và
khoản chi phí (expenses) sử dụng trong kế toán doanh nghiệp thương mại. Chi
tiêu được ghi nhận khi một khoản nợ đã xảy ra sẽ được trả bằng nguồn tài chính
hiện tại trong quỹ. Các khoản chi tiêu có thể chi cho lương (ngắn hạn), mua đất,
xây nhà, hoặc trang thiết bị (tài sản vốn) hay cho các khoản chi trả lãi và gốc của
nợ (dịch vụ nợ - debt service). Các khoản chuyển đi từ một quỹ sang quỹ khác
được phân loại là Chi khác (Other Financing Uses). Một ví dụ của công dụng
của tài khoản chuyển giao xảy ra khi một phần của thuế đã ghi nhận như là doanh
thu của quỹ chung (General Fund) được chuyển sang một quỹ dịch vụ nợ (debt
service fund) rồi sẽ ghi các khoản thanh toán lãi và nợ gốc của nợ vay chung. Quỹ
chung (General Fund) sẽ ghi các khoản thuế như là doanh thu thuế (Tax Revenue)
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 11
Chương 3: Modified Accrual Accounting
và các khoản được chuyển sang quỹ dịch vụ nợ như là các khoản chi khác –
chuyển ra (Other financing Uses – transfer out). Quỹ dịch vụ nợ sẽ ghi nhận việc
nhận được khoản chuyển nhượng này như là nguồn thu khác - chuyển vào (Other
Financing Sources – Transfer in) và các khoản chi trả theo sau đó về lãi và nợ gốc
là chi tiêu dịch vụ nợ (Debt Service Expenditure). Do vậy, việc sử dụng các tài
khoản chuyển nhượng đạt được mục tiêu mong muốn rằng các khoản doanh thu
được ghi nhận trong quỹ là thu các khoản thuế (tức là Quỹ chung – General Fund)
và các khoản chi tiêu được ghi nhận trong quỹ là tiêu dùng tiền (tức là quỹ dịch vụ
nợ).

Tài khoản ngân sách (Budgetary Accounts)
Chuẩn mực GASB yêu cầu chính phủ phải trình bày một sự so sánh kết quả
dự toán và thực hiện cho quỹ General Fund và các quỹ doanh thu đặc biệt (special
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 12
Khoản này bằng số dư của hàng tồn
kho trong phần tài sản của bảng
CDKT

Các khoản này thể hiện nguồn lực bị
hạn chế bởi các bên bên ngoài thông
qua tài trợ và các thỏa thuận vay trái
phiếu
Các khoản này thể hiện sự giới hạn
nguồn lực bởi hội đồng thành phố
như dự trữ thâm hụt doanh thu
(General Fund) và các nghĩa vụ theo
hợp đồng (Capital Projects fund)
Khoản này bao gồm phần dư của
special revenue & capital projects
funds. Cũng bao gồm các khoản
được phân bổ trong General fund với
mục đích được chỉ định (ví dụ bởi
đơn đặt hàng)
Là phần dư ra của General fund
Chương 3: Modified Accrual Accounting
revenue funds) với kế hoạch ngân sách đã được duyệt mang tính pháp lý. Dù
chuẩn mực GASB hướng dẫn định dạng của sự so sánh này, GASB không quy
định những thực hành kế toán ngân sách và không đòi hỏi chính phủ duy trì các
tài khoản ngân sách. Các tài khoản ngân sách không xuất hiện trong báo cáo tài
chính cho mục đích chung
3
. Tuy nhiên, chính phủ thường ghi theo ngân sách, và
hệ thống kế toán chính phủ được thiết kế để đảm bảo tuân thủ ngân sách.
3
GASB 54 loại ra khỏi báo cáo số dư quỹ ngân sách - Dự trữ cho nghĩa vụ nợ
trong phần số dư quỹ của bảng cân đối kế toán quỹ của chính phủ, bỏ đi chỉ
trường hợp các tài khoản ngân sách xuất hiện trong báo cáo tài chính cho mục
đích chung.

Các tài khoản xuất hiện bên trái của minh họa 3-1, bảng 2 phục vụ cho chức
năng ngân sách này của chính phủ (hơn là cho báo cáo ra bê ngoài). Một chính
phủ có thể tăng doanh thu chỉ trên các nguồn được cho phép theo luật. Các điều
luật thông thường thiết lập mức tối đa của một loại thuế hoặc áp mức thuế suất
cao nhât. Các khoản thu được tăng tuân theo luật trong kỳ ngân sách thì được
công bố trong một dự toán ngân sách là doanh thu dự toán (Estimated
Revenues). Nguồn tăng lên bởi chính phủ chỉ có thể chi tiêu cho những mục đích
và trong mức được duyệt bởi các cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan lập
pháp. Điều này được biết như là qui trình phân bổ ngân sách. Một dự toán các
phân bổ ngân sách, khi đưa vào luật, là sự ủy quyền pháp lý cho chính phủ để đảm
nhận trách nhiệm cho các mục đích được xác định trong trong quy chế hay qui
định phân bổ. Số tiền chi tiêu có thể không vượt số được phân bổ cho mỗi mục
đích. Trong cách thức này, một ngân sách chính phủ có tác động bởi luật bằng
cách giới hạn việc chi tiêu đến các mức được duyệt. Dự toán nguồn thu khác và
dự toán các khoản chi khác là các tài khoản ngân sách phản ánh dòng tài chính
vào và ra được tiên liệu trước từ các nguồn hơn là các khoản doanh thu và các
khoản chi trả. Khi một đơn mua hàng hoặc hợp đồng được phát hành đúng như ủy
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 13
Chương 3: Modified Accrual Accounting
quyền của một phân bổ ngân sách, chính phủ công nhận sự cam kết này như là
một nghĩa vụ nợ (encumbrance). Một encumbrance không là một khoản nợ vì
hàng hóa hay dịch vụ hầu như chỉ mới được đặt hàng, chưa nhận được. Qui trình
một chính phủ di chuyển từ ủy quyền ngân sách sang chi tiêu nguồn quỹ được mô
tả trong phần tiếp theo.
Chu trình chi tiêu (Expenditure Cycle)
Thuyết minh 3-4 vẽ ra chu trình chi tiêu và các bút toán nhật ký tương ứng
cho quỹ General Fund hay một quỹ doanh thu đặc biệt với một dự toán được
duyệt mang tính pháp lý. Để giữ mạch lạc, chúng ta giải thích các bút toán nhật ký
sử dụng các tài khoản kiểm soát cho hoạt động (doanh thu và chi tiêu) và các tài
khoản ngân sách (doanh thu dự toán, phân bổ ngân sách và các nghĩa vụ nợ -

estimated revenues, appropriations, and encumbrances). Các bút toán cho tài
khoản kiểm soát sẽ được hổ trợ với các bút toán chi tiết trong tài khoản con. Các
khoản kết chuyển tổng hợp đủ để giải thích các quan điểm kế toán được chỉ dẫn.
Với sự phát triển của kỹ thuật danh mục sổ xuống (drop-down) và sự phát triển kỹ
thuật khác, nhiều hệ thống thông tin đã ngưng việc sử dụng các tài khoản kiểm
soát. Bạn có thể muốn sử dụng các tài khoản chi tiết (ví dụ doanh thu theo nguồn)
khi làm các bài tập kết thúc chương.
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 14
Chương 3: Modified Accrual Accounting
Quy trình bắt đầu với việc hội đồng chính phủ hay cơ quan chức năng duyệt
ngân sách. Nhìn tổng quan đầu tiên, tài khoản ngân sách có thể xuất hiện để có sự
cân đối đối ứng với những số liệu dự toán – doanh thu dự toán (Estimated
Revenue) có số dư nợ và phân bổ ngân sách có số dư có. Tuy nhiên bút toán được
thiết kế để phản ánh tác động được tiên đoán trước đến nguồn quỹ ròng (số dư
quỹ ngân sách - Budgetary Fund Balance) nếu mọi thứ diễn ra theo đúng kỳ
vọng. Vì dự toán doanh thu và thu nhập khác vượt các khoản dự toán chi tiêu và
chi khác, số dư quỹ được kỳ vọng là tăng (credit).
Tuy nhiên nếu dự toán chi tiêu và chi khác được dự đoán vượt dự toán
doanh thu và thu khác, số dư quỹ ngân sách sẽ ghi nhận nợ trong bút toán này.
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 15
Nhận HH và DV
và hóa đơn được
xuất trình để t/toán
đểt.toán
Các BP của thành
phố đặt đơn đặt hàng
hóa, dịch vụ
Hội đồng thành phố
duyệt ngân sách năm
cho quỹ chính phủ

Chương 3: Modified Accrual Accounting
Phụ lục cho chương này trình bày chi tiết hơn các bút toán ngân sách, bao gồm
các điều chỉnh ngân sách.
Một bộ phận của chính phủ (chẳng hạn là cảnh sát hoặc là cơ quan y tế)
không thể giao chính phủ chi các nguồn đến khi nó là một ủy quyền ngân sách
được duyệt thông qua các phân bổ ngân sách của nó. Một khi sự ủy quyền đó tồn
tại, các bộ phận có thể bắt đầu giao các nguồn lực này bằng cách đặt các đơn mua
hàng hoặc là ký hợp đồng. Những giao kết này được phản ánh trong các tài khoản
ngân sách thông qua việc ghi nhận những nghĩa vụ nợ và số dư quỹ ngân sách
tương ứng – dự phòng nghĩa vụ nợ. GASB 54 yêu cầu rằng những nghĩa vụ nợ
được công bố trong các thông báo cùng với những công bố được yêu cầu về các
cam kết khác. Tuy nhiên không có báo cáo riêng các khoản nghĩa vụ nợ trong
phần số dư quỹ của Bảng cấn đối quỹ chính phủ. Hơn nữa, những nguồn lực đảm
nhận sẽ được báo cáo trong những khoản mục giới hạn, cam kết, hoặc phân bổ
theo một cách thưc phù hợp với tiêu chuẩn cho sự phân loại đó.
GASB54 không cung cấp ví dụ làm hướng dẫn cho việc làm sao phân loại
các nghĩa vụ nợ. Ở mức độ rất nhỏ, sự tồn tại của một nghĩa vụ nợ kiến nghị rằng
chính phủ có mục tiêu được chú trọng để sử dụng những nguồn lực cho các mục
đích đặc biệt và do đó những nguồn lực này sẽ không được phân loại là không
phân bổ (unassigned). Kế toán nghĩa vụ nợ cũng có thể được sử dụng trong những
trường hợp những nghĩa vụ hợp đồng, như là hợp đồng xây dựng. GASB54 yêu
cầu rằng những nguồn lực có nghĩa vụ theo nghĩa vụ hợp đồng được phân loại là
cam kết (commited). Chúng ta sẽ kiểm tra sự liên hệ của các khoản nghĩa vụ nợ
đến việc phân loại các số dư quỹ chi tiết hơn trong chương 4 & 5.
Một khi hàng hóa và dịch vụ được nhận, chính phủ có một khoản nợ. Về
điểm này có hai bút toán nhật ký cần thiết. Bút toán đầu tiên dự phòng nghĩa vụ
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 16
Chương 3: Modified Accrual Accounting
nợ theo giá trị gốc. Vì chính phủ có một khoản nợ thật, không còn cần phản ánh
một khoản cam kết cho đơn hàng hay hợp đồng nào còn treo. Bút toán số 2 ghi

nhận nợ (Accounts Payable) và một khoản chi tiêu theo giá trị hóa đơn. Nhắc lại
rằng những khoản chi tiêu đó có thể là cho những hoạt động hiện tại, tài sản vốn,
hoặc là dịch vụ nợ, bao gồm chi trả lãi và nợ gốc dài hạn.
Chính phủ có thể chọn không ghi nhận tất cả nghĩa vụ nợ, đặc biệt là những
khoản mà có thể tương đối tiên đoán được giá trị. Ví dụ: các khoản lương có thể
được ghi nhận ban đầu như là những khoản chi tiêu khi đến hạn mà không có
nghĩa vụ nợ nào một cách chính thức. Vào cuối kỳ ngân sách không có nghĩa vụ
nợ, phân bổ ngân sách chưa chi hết thì hết hiệu lực, nghĩa là, người quản lý không
còn ủy quyền gánh những món nợ dưới những phân bổ ngân sách quá hạn. Trong
hầu hết tất cả trường hợp, người quản lý tiếp tục có quyền chi tiêu tiền trong việc
thanh toán những nghĩa vụ nợ gánh chịu về mặt pháp lý (và được ghi nhận như
những khoản chi tiêu) trong một kỳ trước. Tuy nhiên, những phân bổ ngân sách
gánh nghĩa vụ nợ có thể hoặc không thể tiếp tục thực hiện trong kỳ kế toán tiếp,
phụ thuộc vào chính sách của chính phủ. Nếu chúng không diễn ra tiếp tục và phải
được phân bổ ngân sách lại trong năm tiếp theo, những nghĩa vụ nợ được cho là
hết hiệu lực (lapse). Bút toán ghi nhận một nghĩa vụ nợ hết hiệu lực giống như bút
toán đảo khi một hàng hóa hay dịch vụ được nhận (ghi nợ số dư quỹ ngân sách -
dự phòng nghĩa vụ nợ và ghi có nghĩa vụ nợ - kiểm soát - debit Budgetary Fund
Balance—Reserve for Encumbrances and credit Encumbrances—Control)
SỰ GHI NHẬN DOANH THU CHO GIAO DỊCH KHÔNG BỒI HOÀN
Theo như kế toán dồn tích điều chỉnh, doanh thu được ghi nhận khi nó thỏa
mãn cả 2 điều kiện đó là có thể đo lường và có thể tài trợ cho chi tiêu của thời kì
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 17
Chương 3: Modified Accrual Accounting
hiện tại. Rất nhiều khoản doanh thu của chính phủ thu được từ những giao dịch
không bồi hoàn (không hoàn lại).
Những giao dịch không hoàn lại là giao dịch trong đó chính phủ nhận được
tài sản có giá trị mà không trực tiếp đưa ra giá trị ngang bằng trong trao đổi. Đây
là những trái ngược so với giao dịch bồi hoàn, chẳng hạn như mua hàng hoá hoặc
dịch vụ. Các hình thức phổ biến nhất của giao dịch không hoàn lại là khoản thu

thuế và các khoản trợ cấp liên chính phủ. Hầu hết các hoạt động của các quỹ của
chính phủ được hỗ trợ bởi doanh thu được tạo ra thông qua giao dịch không hoàn
lại. Trước khi một chính phủ có thể ghi nhận doanh thu từ các giao dịch không
hoàn lại, nó phải đáp ứng một số điều kiện đòi hỏi. Các yêu cầu đó như sau:
1. Đặc điểm yêu cầu của người nhận: Người nhận phải có các đặc điểm
được chỉ định bởi người cung cấp. Ví dụ, một nhà nước có thể cung cấp kinh phí
trên cơ sở học sinh một trường công lập. Để ghi nhận doanh thu này, đơn vị phải
là một trường công lập theo quy định của pháp luật của Nhà nước.
2. Yêu cầu về thời gian: Nếu yêu cầu về thời gian (đối với chi tiêu) được
quy định bởi nhà cung cấp nguồn lực hoặc pháp luật, phải được đáp ứng những
yêu cầu thời gian. Ví dụ, một nhà nước có thể cung cấp kinh phí để hỗ trợ các
điểm đỗ xe (công viên) ở các huyện cho tài chính năm tiếp theo. Trong trường hợp
đó, doanh thu sẽ không được công nhận bởi các huyện cho đến khi tài chính năm
đó. Nếu bên cung cấp nguồn lực không xác định yêu cầu thời gian, thì không có
điều kiện tồn tại và doanh thu sẽ được công nhận ngay sau khi các điều kiện đòi
hỏi khác được đáp ứng.
3. Sự hoàn trả. Đối với những khoản tài trợ và quà tặng là có thể trả chỉ khi
dựa trên các khoản chi tiêu đã đủ điều kiện, doanh thu sẽ được ghi nhận khi các
chi tiêu này phát sinh.
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 18
Chương 3: Modified Accrual Accounting
4. Sự kiện ngẫu nhiên: những nguồn lực được hứa hẹn có một sự không
chắc chắn kèm theo không được công nhận như là khoản doanh thu cho đến khi
sự không chắc chắn này đã xảy ra. Ví dụ, nếu một nhà tài trợ chỉ định rằng $
100.000 sẽ được tặng để xây dựng thêm một thư viện cho thành phố khi các quỹ
có được số tiền bằng như vậy được cam kết bởi những người khác, doanh thu sẽ
được công nhận chỉ sau khi $ 100.000 đã được huy động từ các nhà tài trợ khác.
Minh họa 3-5. xác định bốn loại giao dịch không hoàn lại và mô tả khi
doanh thu từ các nghiệp vụ này được ghi nhận theo cơ sở của kế toán dồn tích sửa
đổi. Cột cuối cùng của minh họa 3-5 cung cấp cho đại diện các bút toán, minh họa

việc áp dụng các tiêu chuẩn công nhận và có thể đo lường được. Trong một số
trường hợp, doanh thu từ các giao dịch không hoàn lại được công nhận trong các
giai đoạn khác nhau trong báo cáo tài chính chính phủ. Vì lý do này, chúng tôi sẽ
xem xét lại điều này minh hoạ trong Chương 8, trong đó giải quyết việc lập báo
cáo chính phủ.
Giao dịch không hoàn lại bắt buộc là thuế và các khoản ấn định khác áp đặt
bởi các chính phủ nó không bắt nguồn từ các giao dịch cơ bản. Ví dụ như thuế tài
sản, các khoản ấn định đặc biệt, tiền phạt và bồi thường. Một quy tắc đặc biệt
được áp dụng đối với thuế tài sản. Thuế tài sản thu được trong vòng 60 ngày sau
khi kết thúc năm tài chính có thể được coi là có sẵn và ghi nhận là doanh thu trong
năm ấn định, chứ không phải là năm thu. Số tiền dự kiến thu được hơn 60 ngày
sau khi kết thúc năm không được công nhận là doanh thu khi ấn định, nhưng được
coi như một khoản doanh thu chậm (một khoản nợ).
Doanh thu có nguồn gốc thuế thu từ thuế dựa trên giao dịch bồi hoàn. Các
ví dụ bao gồm thuế trên doanh thu bán lẻ, thu nhập, và xăng. Số tiền phải trả được
ghi nhận trong khoảng thời gian giao dịch cơ bản đã diễn ra. Ví dụ, doanh thu từ
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 19
Chương 3: Modified Accrual Accounting
các khoản thuế do bán xăng dầu nên được ghi nhận cùng với các khoản phải thu
(từ các nhà bán lẻ) trong tháng mà xăng đã được bán. Doanh thu được ghi nhận tại
thời điểm giao dịch bồi hoàn cung cấp tiền mặt được dự kiến sẽ được thu ngay sau
khi năm tài chính hiện tại. Nếu khoản thu dự kiến diễn ra sau khoảng thời gian
được coi khả thi để thanh toán nợ đến hạn (ví dụ, 60 ngày), điều này cần được ghi
nhận vào doanh thu chậm của kỳ hiện hành.
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 20
Chương 3: Modified Accrual Accounting
Minh họa 3 -5 Phân loại và xác nhận thời gian ghi nhận doanh thu từ giao dịch không hoàn lại
Loại Mô tả và ví dụ Cơ sở dồn tích điều chỉnh
(Cơ sở của các quỹ chính phủ)
Giao dịch tiêu biểu Bút toán nhật ký ví dụ

(Governmental Fund Basis Reporting)
Doanh thu không
bồi hoàn bắt
buộc
Thuế và những khoản ấn
định mà không phải kết quả
từ một giao dịch cơ bản.
Ví dụ bao gồm thuế tài sản,
những khoản ấn định đặc biệt
thu chủ sở hữu tài sản bao
gồm phạt và bồi thường
Ghi nhận khỏan phải thu (và dự phòng cho khoản
không thu được) khi tồn tại khung pháp lý.
Doanh thu được ghi nhận trong kỳ mà các khoản
thuế được thu (tức là được dự toán) , nhưng cũng
dựa theo quy tắc sẵn có. Doanh thu từ thuế tài sản
được ho là thu > 60 ngày sau kết thức năm thì đựợc
hoãn lại.
1. Thuế tài sản được thu
2. Hoãn lại một phần được
cho là sẽ thu được sau 60
ngày sau khi kết thúc năm
1. Thuế phải thu… Dr
Dự tính thuế không thu đựơc Cr
Kiểm sóat doanh thu …. Cr
2. Kiểm soát doanh thu… Dr
Doanh thu hoãn lại – thuế tài sản. Cr
Doanh thu nguồn
gốc từ thuế
Đây là thuế ấn định trên

những giao dịch bồi hoàn,
được kiểm sóat từ các doanh
nghiệp hoặc công dân, bao
gồm thuế doanh thu, thu
nhập và các khoản thuế nội
địa
- Ghi chép nợ phải thu khi các giao dịch cơ bản của
người nộp thuế diễn ra
Doanh thu sẽ được ghi nhận khi sẵn có và đo lường
được. Doanh thu không mong đợi là thu đúng thời
hạn để thanh toán nợ ngắn hạn thì hoãn lại (tức là
điều kiện đã xảy ra và đo lường được)
1. Thuế thu nhập hoãn lại
được thu
2. Công thêm thuế thu
nhập kỳ vọng được nhận
sau khi hết năm. Một phần
của thuế này sẽ không
được nhận đúng thời gian
để sẵn có giải quyết các
khoản phải trả hiện tại
1. Tiền mặt …Dr.
Revenues Control Cr
2 Tax Receivable … Dr.
Revenues Control … Cr
Deferred Revenues - Income
Taxes …Cr
Các giao dịch
không bồi hoàn
Chính phủ được

ủy quyền
Trợ cấp từ những cấp trên
của chính phủ (liên bang
hoặc bang) được định sẵn
một chương trình. Từ khi
chương trình được yêu cầu,
cấp thấp của chính phủ
không có sự lưa chọn nhưng
phải tham gia
Những nguyên tắc ghi nhận thì giống nhau giữa
được ủy quyền và tự nguyện. Ghi nhận doanh thu
khi tất cả điều kiện thích hợp theo yêu cầu. trong
trường hợp hoàn trả lại khoản tài trợ, doanh thu
được ghi nhận chỉ khi chi tiêu đã xảy ra.
Kiểu hoàn trả lại khoản trợ
cấp :
1. Xảy khoản chi tiêu đúng
tính chất.
2. Ghi nhận doanh thu
1. Expenditures Control Dr
Accounts Payable/Cash Cr
2. Due from grantor Dr
Revenues Control Cr
3. Cash Dr
Deferred Revenues—Grants Cr
4a. Expenditures Control …Dr
Accounts Payable/Cash Cr
4b. Deferred Revenues—
Grants Dr
Revenues Control Cr

Doanh thu giao
dịch không bồi
hoàn tự nguyện
Ban tặng và trợ cấp giúp đỡ
một chương trình. Từ khi
chương trình không được
yêu cầu, đề nghị chính phủ
ủy quyền đồng ý để tham gia
Trong trường hợp tạm ứng trợ cấp từ ngân sách,
ghi nhận doanh thu đủ điều kiện khi chi tiêu đã xảy
ra
Tạm ứng trợ cấp từ ngân
sách:
3. Nhận tạm ứng trợ cấp
4. Xảy ra chi tiêu và ghi
nhận doanh thu với giá
trị tương đương
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 21
Chương 3: Modified Accrual Accounting
Các giao dịch không bồi hoàn chính phủ được uỷ quyền và những giao dịch
không bồi hoàn tự nguyện được ghi nhận là doanh thu khi đã đáp ứng các yêu cầu
và điều kiện. Nói chung khi chính phủ nhận được khoản chi đủ điều kiện theo các
thỏa thuận tài trợ. Một khi chi phí hội đủ điều kiện đã được thực hiện, Chính phủ
ghi nhận doanh thu tài trợ. Hai loại tài trợ khác nhau là chính phủ có khả năng từ
chối tham gia hay không. Ví dụ, các khoản trợ cấp của chính phủ thông thường là
từ các cấp cao hơn của chính phủ (liên bang hoặc tiểu bang) được đưa ra để hỗ trợ
một chương trình cần thiết. Bởi vì chương trình là cần thiết, chính quyền cấp thấp
hơn không có sự lựa chọn để chấp nhận. Ví dụ, một nhà nước có thể yêu cầu hệ
thống trường học để dạy cho một số sinh viên nhất định trong trường và cung cấp
tài chính để thực hiện nhiệm vụ này.

TÓM TẮT
Trọng tâm đo lường nguồn lực tài chính ngắn hạn và cơ sở của kế toán dồn
tích có điều chỉnh là điểm riêng biệt đối với các quỹ chính phủ. Trọng tâm là tập
trung vào dòng tài chính hơn là đo lường thu nhập. Các yếu tố chính bao gồm:
- Doanh thu: Dòng tài chính vào thuần từ các nguồn khác với chuyển nhượng
các khoàn quỹ và thu tiền nợ. Doanh thu được ghi nhận khi vừa có thể đo lường và
vừa có sẵn để tài trợ cho chi tiêu hiện tại.
- Chi tiêu: Dòng tiền ra thuần từ các nguồn khác với chuyển nhượng các
khoàn quỹ, được ghi nhận khi một quỹ của chính phủ phải gánh chịu một trách
nhiệm pháp lý phù hợp theo ủy quyền ngân sách được cung cấp bởi phân bổ ngân
sách.
- Số dư quỹ: Số dư ròng (Tài sản ít hơn nợ) của quỹ chính phủ có thể được
phân loại là không thể chi tiêu, hạn chế, cam kết, được phân bổ, hoặc không được
phân bổ.
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 22
Chương 3: Modified Accrual Accounting
Quỹ chung và nhiều quỹ doanh thu đặc biệt ghi nhận ngân sách và hệ thống
kế toán được thiết kế để đảm bảo tuân thủ kế hoạch ngân sách. Kế toán ngân sách
được minh họa tại phụ lục của chương này. Bây giờ bạn đã hoàn thành Chương 3,
hoàn thành các câu hỏi nhiều lựa chọn được cung cấp trên trang web của văn bản
(www.mhhe.com/copley10e) để kiểm tra hiểu biết của bạn về nội dung chương.
PHỤ LỤC: KẾ TOÁN NGÂN SÁCH ĐƯỢC GIẢI THÍCH
Ngân sách và các tài khoản ngân sách
Thực tế cho thấy ngân sách là dựa trên phương diện pháp lý ràng buộc từ các
nhà quản lý được thể hiện qua nhiều báo cáo tài trợ chung và đặc biệt là nguồn quỹ
thu nhập được bù vào hàng năm.
Như đã được chỉ định trước, chính phủ được yêu cầu báo cáo sự so sánh ngân
sách thực tế như là liệt kê kế hoạch trong thông tin bổ sung được yêu cầu. Chính
phủ có thể quyết định cung cấp những báo cáo so sánh này như là các báo cáo cơ
bản hơn là một bảng kê kế hoạch . Bảng kê kế hoạch cung cấp ngân sách ban đầu;

ngân sách còn lại; và số lượng thực tế doanh thu, chi tiêu; và các nguồn thu và sử
dụng tài chính khác. Một cột chênh lệch giữa ngân sách cuối cùng và số lượng
ngân sách thực tế được khuyên khích nhưng không bắt buộc. Định dạng của bảng
kế hoạch (hoặc báo cáo) có thể là tài liệu ngân sách, hoặc dưới dạng sử dụng trong
báo cáo doanh thu, chi tiêu và thay đổi số dư các quỹ (xem minh họa 2-16).
Bất cứ phương pháp nào được sử dụng, các khoản trong cột thực tế được báo
cáo trên cơ sở được yêu cầu bởi luật ngân sách, ngay cả nếu cơ sở đó khác với cơ
sở được quy định bở các chuẩn mực của GASB. Ví dụ, trong vài trường hợp doanh
thu phải được dự thảo dựa trên cơ sở là tiền mặt. Nếu cột so sánh của dự toán và
thực tế của bảng kê so sánh kế hoạch ngân sách thực tế khác với tiêu chuẩn GASB,
thì tiêu đề của báo cáo nên hiển thị. Những tiêu chuẩn này dùng để so sánh ngân
sách ban đầu so với lộ trình kế hoạch đề ra có chặt chẽ hay là nó tách rời nhau,
Thực hiện: Nhóm 2 – lớp KTKT đêm – K20 trang 23

×