O ho
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
LỚP KẾ TOÁN ĐÊM - KHÓA 20
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP KIỂM TOÁN VÀ
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP KIỂM TOÁN Ở VIỆT NAM
GVHD : T.S TRẦN THỊ GIANG TÂN
Thực hiện :
1. Trần Thị Mỹ Linh
2. Nguyễn Hoàng Mai
3. Trịnh Thị Thu Nhung
TP HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10/ 2012
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương 1: Lý luận chung về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kế toán và kiểm
toán trang 1
1.1. Khái niệm về đạo đức và đạo đức nghề nghiệp trang 1
1.1.1. Khái niệm về đạo đức trang 1
1.1.2. Đạo đức nghề nghiệp trang 1
1.1.3. Khái niệm về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên trang 2
1.2. Sự cần thiết của đạo đức nghề nghiệp trang 2
1.2.1. Sự cần thiết của đạo đức nghề nghiệp nói chung trang 3
1.2.2. Sự cần thiết của đạo đức nghề nghiệp kiểm toán trang 4
1.3. Lịch sử ra đời và phát triển các quy định về đạo đức nghề nghiệp cho người hành
nghề kiểm toán trang 4
1.3.1. Giai đoạn hình thành trang 5
1.3.2. Giai đoạn phát triển trang 5
1.3.3. Giai đoạn hiện tại trang 8
1.4. Các nội dung cơ bản của hệ thống quy định về đạo đức nghề nghiệp trang 9
1.4.1. Tổ chức lập quy và cơ chế giám sát trang 9
1.4.2. Nội dung của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trang 9
Chương 2: Thực tiễn xây dựng và áp dụng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán
kiểm toán trên thế giới và tại Việt Nam trang 12
2.1. Quy định về đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của Liên đoàn Kế toán quốc tế trang 12
2.1.1. Điều lệ đạo đức năm 1996 trang 12
2.1.2. Điều lệ đạo đức nghề nghiệp năm 2001 trang 13
2.1.3. Điều lệ đạo đức năm 2005 trang 14
2.2. Quy định đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của Hoa Kỳ trang 16
2.2.1. Lịch sử ra đời trang 16
2.2.2. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trang 16
2.3. Quy định về đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của Pháp trang 18
2.3.1. Lịch sử ra đời trang 18
2.3.2. Các quy định về đạo đức nghề nghiệp trang 20
2.4. Các quy định đạo đức nghề nghiệp kiểm toán tại Việt Nam trang 21
2.4.2. Lịch sử ra đời trang 21
2.4.2. Nội dung chuẩn mực trang 22
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp tại Việt Nam
trang 29
3.1. Đánh giá những quy định về đạo đức nghề nghiệp và việc giám sát sự tuân thủ đạo
đức nghề nghiệp trang 29
3.1.1. Đánh giá những quy định về đạo đức nghề nghiệp trang 29
3.1.2. Đánh giá việc giám sát sự tuân thủ đạo đức nghề nghiệp trang 32
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp kiểm toán tại Việt
Nam trang 33
3.2.1. Ban hành các hướng dẫn chi tiết về một số nội dung quan trọng trang 33
3.2.2. Giải quyết khi có sự khác biệt trang 34
3.2.3. Giám sát sự tuân thủ đạo đức nghề nghiệp trang 35
Kết luận
Tài liệu tham khảo
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang ngày càng phát triển, hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới: Nhiều doanh nghiệp được thành lập, số lượng các
nhà đầu tư tăng lên nhiều lần; cùng với đó, nhu cầu về kiểm tra kiểm soát để nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh và nhu cầu về sử dụng thông tin tài chính của nhiều đối
tượng khác nhau trong nền kinh tế ngày càng tăng lên. Theo đó, kiểm toán ra đời và
phát triển ngày một mạnh mẽ hơn để đáp ứng những nhu cầu đó.
Những người sử dụng kết quả kiểm toán yêu cầu phải có những cuộc kiểm toán
chất lượng đòi hỏi những kiểm toán viên không chỉ liên tục trau dồi kiến thức, luân
cập nhật, tuân thủ các quy định pháp lý, chuẩn mực nghề nghiệp mà còn đòi hỏi phải
có đạo đức nghề nghiệp thích đáng. Có như vậy các cuộc kiểm toán mới đạt được chất
lượng cao, những người sử dụng thông tin mới có được những thông tin bổ ích.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, nhóm đã chọn đề tài: “ Đạo đức nghề nghiệp
kiểm toán và thực trạng các quy định về đạo đức nghề nghiệp kiểm toán ở Việt Nam”.
Nội dung đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kế toán và
kiểm toán.
Chương 2: Thực tiễn xây dựng và áp dụng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế
toán kiểm toán trên thế giới và Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán
kiểm toán Việt Nam.
Trang 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CỦA KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN
1.1 Khái niệm về đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
1.1.1 Khái niệm về đạo đức
Theo từ điển tiếng Việt, đạo là lẽ phải, là đường lối, là nguyên tắc mà con người
có bổn phận giữ gìn và tuân theo trong cuộc sống, còn đức là điều tốt lành. Đạo đức
thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp nhưng nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên
trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai. Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Một số nguyên tắc đạo đức
căn bản thường được thiết lập như: sự trung thực, tính có trách nhiệm, lương thiện,
thẳng thắn, công bằng, ngay thẳng, tuân thủ nghĩa vụ công dân.
Về mặt xã hội, đạo đức được biểu hiện bằng thái độ cụ thể của dư luận xã hội.
Về mặt cá nhân, đạo đức được coi là “tòa án lương tâm” có khả năng tự phê phán,
đánh giá và suy sét từng hành vi, thái độ và ý nghĩ trong bản thân mỗi cá nhân. Như
vậy, về bản chất, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự giác, là sự tự lựa chọn của
mỗi người nên ngoài biểu hiện trong các quan hệ xã hội, đạo đức còn thể hiện trong
thái độ, hành vi và sự tự ứng xử trong bản thân mỗi con người.
1.1.2 Đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp được tuân theo trong hoạt động nghề nghiệp, có chuẩn
mực và quy phạm đạo đức đặc trưng của bản thân từng nghề nghiệp. Trong xã hội có
bao nhiêu nghề nghiệp khác nhau thì có bấy nhiêu đạo đức nghề nghiệp. Trong bất kỳ
thời kỳ nào, đạo đức nghề nghiệp luôn là đạo đức của xã hội đương thời, biểu hiện đặc
thù và quán triệt cụ thể trong các hoạt động nghề nghiệp. Trong quá trình phát triển
của kinh tế, của xã hội, mỗi cá nhân đều phải lấy tâm huyết, lòng yêu nghề, trách
nhiệm làm nội dung chủ yếu cho đạo đức nghề nghiệp. Đó là chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp chung mà tất cả các ngành nghề đều phải tuân theo.
1.1.3 Khái niệm về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên
Trang 2
Trong mọi nghề nghiệp, để hướng dẫn cho người hành nghề có thể thực hiện
công việc với chất lượng cao, tuân thủ pháp luật và phục vụ tốt nhất cho lợi ích của xã
hội, các cơ quan chức năng, luật pháp hay nghề nghiệp thường phải thiết lập các quy
định cho người hành nghề.
Kiểm toán là một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp cao, vì vậy càng cần
phải chịu sự chi phối bởi các quy định có liên quan, trong đó quy định về đạo đức nghề
nghiệp là rất quan trọng.
Đạo đức nghề nghiệp được định nghĩa là những quy tắc để hướng dẫn cho các
thành viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích chung của
nghề nghiệp và xã hội.
Đạo đức nghề nghiệp yêu cầu mỗi kiểm toán viên phải là người có đạo đức, và
mội tổ chức kiểm toán phải là cộng đồng của những người có đạo đức. Vì thế, điều lệ
đạo đức nghề nghiệp phải được xác định rõ ràng, công bố và trở thành yêu cầu bắt
buộc trong nghề kiểm toán, một mặt sẽ giúp quản lý và giám sát chặt chẽ mọi kiểm
toán viên, mặt khác sẽ giúp cho công chúng hiểu biết về chúng, để qua đó họ có quyền
đòi hỏi và đánh giá về các hành vi đạo đức của kiểm toán viên.
Nói cách khác, bên cạnh luật pháp và cùng với luật pháp, chính việc tuân thủ
đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp cho các thành viên luôn duy trì được một thái độ nghề
nghiệp đúng đắn, giúp bảo vệ và nâng cao uy tín cho nghề kiểm toán trong xã hội, bởi
nó tạo nên sự bảo đảm về chất lượng cao của dịch vụ cung ứng cho khách hàng và xã
hội. Điều cần chú ý là các vấn đề thuộc đạo đức nghề nghiệp có trường hợp không bị
chi phối bởi luật pháp, ví dụ như kiểm toán viên phải luôn đi tìm sự hoàn hảo trong
công việc, nhưng cũng có trường hợp bị chi phối bởi luật pháp, ví dụ như vấn đề bảo
mật.
1.2 Sự cần thiết của đạo đức nghề nghiệp
1.2.1 Sự cần thiết của đạo đức nghề nghiệp nói chung
Trong xã hội, làm nghề gì cũng cần phải có đức, có tâm, cần những quy tắc ứng
xử của nghề nghiệp ấy.
Với ngành y, đạo đức nghề nghiệp được đặc biệt chú trọng bởi y đức có tác
động trực tiếp tới tính mạng con người. Nhưng thực trạng hiện nay, nhiều vụ việc
Trang 3
trong ngành y xảy ra đã cho thấy đạo đức y học đang bị suy thoái nghiêm trọng. Có
một bộ phận không nhỏ các bác sĩ, y tá bị thoái hóa biến chất từ những người coi việc
khám chữa bệnh, chăm sóc bệnh nhân là bổn phận và nghĩa vụ trở thành những người
vô cảm trước tính mạng của người khác, coi việc khám chữa bệnh là một công cụ để
làm giàu một cách nhanh chóng. Điều đó chứng tỏ để có một bác sĩ tốt thì coi trọng
việc đào tạo tay nghề là chưa đủ, mà còn cần đặc biệt quan tâm tới đạo đức nghề
nghiệp.
Với nghề luật sư lại có đặc trưng riêng, đó là nghề cung cấp dịch vụ pháp lý cho
khách hàng mà loại dịch vụ này gắn liền với việc bảo vệ các quyền tự do, danh dự,
nhân phẩm… của con người. Một người bị truy tố ra trước tòa án có nghĩa là người đó
sẽ phải chịu sự phán xét của pháp luật về số phận pháp lý gắn liền với các chế tài
nghiêm khắc. Dịch vụ pháp lý mà luật sư cung cấp cho khách hàng vì thế cũng là một
loại dịch vụ có ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của họ. Có thể nói có ba yếu tố quan trọng
quyết định uy tín, danh dự, sự thành bại trong hoạt động nghề nghiệp luật sư. Đó là sự
hiểu biết sâu sắc về pháp luật thực định cũng như các lĩnh vực khác có liên quan trong
đời sống xã hội; các kỹ năng hành nghề mà luật sư vận dụng trong quá trình tác
nghiệp, ứng phó với các tình huống nảy sinh, thậm chí có khi rất phức tạp trong hoạt
động tranh tụng; và cuối cùng là vấn đề đạo đức nghề nghiệp của người luật sư. Ba yếu
tố này có quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời, tạo nên sức mạnh của luật sư
trong việc thực hiện sứ mệnh truyền thống cao cả là “Phụng sự công lý”. Trong ba yếu
tố trên, vì đặc tính độc lập và tự do trong hành nghề nên vấn đề đạo đức nghề nghiệp
nổi lên như là một thành tố giúp luật sư giữ được mình trước mọi thứ cám dỗ, tiêu cực
thực có trong đời sống xã hội.
Ngoài ra, cũng có rất nhiều ngành khác trong xã hội cần quan tâm tới vấn đề
đạo đức trong hành nghề. Với nghề sư phạm, đạo đức nghề nghiệp là một yếu tố quan
trọng trong phẩm chất cá nhân của những người làm nghề giáo, nó tồn tại như đỉnh của
tam giác mà nền móng là kiến thức vả kĩ năng góp phần tạo nên bộ mặt nhân cách của
người thầy.
Như vậy, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp với
nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng với nghề kiểm toán thì sao?
1.2.2 Sự cần thiết của đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
Trang 4
Ngày nay, nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, nhu cầu về kiểm toán là
rất lớn, số lượng các cá nhân và tổ chức sử dụng kết quả kiểm toán là rất đa dạng, song
không phải ai trong số họ cũng có khả năng đánh giá được tính chính xác của các kết
quả kiểm toán. Kiểm toán là một lĩnh vực chuyên nghiệp với những người làm việc có
trình độ chuyên môn cao được kỳ vọng là hoạt động cao hơn phần đông các thành viên
khác trong xã hội. Khái niệm hành nghề kiểm toán đề cập đến trách nhiệm hoạt động
cao hơn so với việc đơn thuần áp dụng các trách nhiệm cá nhân và các quy định của
luật pháp. Lý do của vấn đề này là sự tin cậy của công chúng đối với chất lượng của
dịch vụ kiểm toán chuyên nghiệp bởi thông thường người sử dụng không đánh giá
được chất lượng của dịch vụ kiểm toán cung cấp bởi tính chất phức tạp của loại hình
dịch vụ này.
Do vậy, ngoài việc tuân thủ các quy định có tính chất pháp lý, kiểm toán viên
còn cần phải tuân thủ các quy tắc chuẩn mực đạo đức khi hành nghề. Các quy tắc nghề
nghiệp được xây dựng dựa trên cơ sở đúc kết các kinh nghiệm từ thực tế của hoạt động
kiểm toán. Quá trình đúc kết kinh nghiệm này đã xây dựng lên hệ thống các chuẩn
mực kiểm toán. Để hoạt động kiểm toán thực sự có hiệu quả, chúng ta cần tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện các chuẩn mực đó.
1.3 Lịch sử ra đời và phát triển các quy định về đạo đức nghề nghiệp cho người
hành nghề kiểm toán
Các quy định về đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kiểm toán được hình
thành do mối liên hệ giữa nghề nghiệp và môi trường xã hội. Việc hình thành đạo đức
nghề nghiệp xuất phát từ quan điểm cần xây dựng hình tượng lý tưởng của nghề
nghiệp và khởi đầu tại Anh và Mỹ. Các nhà kinh tế học cho rằng đạo đức nghề nghiệp
thường được xây dựng dựa trên các nền tảng:
- Thuyết mục đích: dựa trên nền tảng mục đích của hành động. Mục đích của nghề
kiểm toán là gia tăng độ tin cậy cho các thông tin tài chính. Vì vậy, người hành
nghề cần có các đức tính để xã hội có thể tin tưởng được ở họ.
- Thuyết nghĩa vụ: dựa trên cơ sở trách nhiệm và quyền hạn. Việc xây dựng đạo
đức nghề nghiệp thể hiện mong muốn diễn tả sự đòi hỏi về trách nhiệm của kiểm
toán viên đối với cộng đồng, khách hàng và đồng nghiệp.
Trang 5
- Thuyết phẩm chất: các phẩm chất thường được mong đợi ở kiểm toán viên là
trung thực và khách quan.
Quá trình hình thành và phát triển của các quy định về đạo đức nghề nghiệp có
thể chia thành ba giai đoạn chính:
1.3.1 Giai đoạn hình thành
Nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán trước hết xuất hiện ở Anh vào thế
kỷ 19. Ở thời kỳ này, do sự bành trướng thuộc địa của Anh, các nhà đầu tư Anh quốc
đã mở rộng đầu tư sang các quốc gia thuộc địa. Chính vì thế, các chủ đầu tư cần có
người để giám sát các khoản đầu tư khi họ vắng mặt, và đó là nghĩa vụ chính của kiểm
toán viên. Tuy vậy, khái niệm về đạo đức trong suốt thế kỷ này chưa được nhận thức
là một đức tính quan trọng của người hành nghề kiểm toán. Để có thể tin cậy vào kiểm
toán viên, các nhà đầu tư Anh quốc cấm kiểm toán viên đầu tư hay làm việc cho công
ty được kiểm toán. Thuật ngữ đạo đức chỉ giới hạn ở sự trung thành của kiểm toán
viên với các nhà đầu tư ở chính quốc, do vậy, trong thời kỳ này kiểm toán viên có thể
thực hiện dịch vụ kế toán hay soạn thảo báo cáo tài chính cho công ty được kiểm toán.
Có thể nói, trong giai đoạn này, chưa có chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp, mà chỉ có
một số yêu cầu về đạo đức đối với người hành nghề. Các yêu cầu này là khởi điểm cho
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp sau này.
1.3.2 Giai đoạn phát triển
Quan niệm về đạo đức của kiểm toán viên đã không ngừng thay đổi vào cuối
thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong thời gian này, do có sự dịch chuyển vốn từ quốc gia
này sang quốc gia khác và hợp nhất các công ty lớn ở Anh trong ngành khai thác mỏ,
đường sắt, nhiên liệu, điện thoại … đã dẫn đến sự thay đổi trong quan điểm về mục
đích, bản chất và nguồn vốn đầu tư vào các công ty. Từ đó, nhiệm vụ của kiểm toán
viên chuyển sang phục vụ cho cổ đông trong cộng đồng hơn là lợi ích của các người
chủ sở hữu vắng mặt. Nhóm cổ đông trong cộng đồng chủ yếu là các nhà đầu tư địa
phương, mà thường là các ngân hàng lớn hay các nhà đầu tư lớn và nhóm này ngày
càng gia tăng.
Trong những năm 1930, các nhà kinh tế học Mỹ Adolf Bearle và Gardiner
Means cho rằng vai trò quan trọng nhất của kiểm toán là đánh giá sự hợp lý về lợi
Trang 6
nhuận trên báo cáo tài chính của công ty, cụ thể là Bảng cân đối kế toán cần xác định
tính trung thực phần lợi nhuận có thể phân phối cho các chủ sở hữu.
Đến năm 1933, tại Hoa Kỳ, với sự ra đời của Luật Chứng khoán Liên bang và
việc thành lập Ủy ban chứng khoán (SEC) đã dẫn đến quan điểm mới về tính độc lập
của kiểm toán viên. Đặc biệt, vào năm 1934 là sự ra đời của Luật Giao dịch chứng
khoán, chương 13 của Luật này đã đưa ra yêu cầu về tính độc lập của kiểm toán viên
khi kiểm toán báo cáo tài chính.
Ảnh hưởng lớn nhất của SEC đối với tính độc lập của kiểm toán viên là việc
thiết lập các chuẩn mực kế toán và kiểm toán. Theo nội dung của chuẩn mực kiểm
toán, mà hình thức ban đầu là các hướng dẫn thực hành kiểm toán, trách nhiệm đầu
tiên của kiểm toán viên không phải là trung thành với các nhà đầu tư vắng mặt mà chỉ
chịu trách nhiệm áp dụng đúng đắn các chuẩn mực kiểm toán đã được thiết lập. Từ
đây, quan niệm về sự trung thành chỉ với một nhóm người đã chuyển dịch sang quan
điểm ưu tiên cho tính khách quan và trung lập. Quan điểm này đã được phát triển về lý
thuyết bởi giáo sư A.Paton, người đã nhấn mạnh quan niệm về tính hữu ích của báo
cáo tài chính. Chính vì thế, vào thời gian này, các công ty kiểm toán bắt đầu điều chỉnh
mục tiêu chính là tập trung vào tính khách quan và trung thực để bảo vệ cho người sử
dụng báo cáo tài chính.
Đến năm 1988, Hoa Kỳ ban hành bộ đạo đức nghề nghiệp và đến năm 1996,
Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) cũng ban hành bộ đạo đức nghề nghiệp. Có thể nói
trong giai đoạn này, nghề nghiệp kiểm toán đã xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp khá hoàn chỉnh. Nội dung bộ đạo đức nghề nghiệp của Hoa Kỳ và IFAC trong
giai đoạn này tập trung vào các nguyên tắc độc lập, chính trực và khách quan, năng lực
chuyên môn và tính thận trọng, tư cách nghề nghiệp và tuân thủ chuẩn mực chuyên
môn.
Trong giai đoạn trên, sự phát triển nhanh chóng của quá trình kinh doanh trên
trường quốc tế đã cung cấp cơ hội rộng lớn cho các công ty kiểm toán, nhờ đó doanh
thu từ các dịch vụ khác đã phát triển nhanh hơn doanh thu từ dịch vụ kiểm toán truyền
thống. Và từ những năm 1970, dịch vụ do các công ty kiểm toán cung cấp đã ngày
càng đa dạng hơn và doanh thu từ dịch vụ phi kiểm toán đã chiểm tỷ trọng đáng kể
Trang 7
trong tổng doanh thu của họ, và để duy trì doanh số và gia tăng lợi nhuận, các công ty
kiểm toán đã ngày càng chú ý đến các dịch vụ phi kiểm toán.
Thế nhưng, khi đề cập đến tính độc lập, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho
phép các công ty kiểm toán được đồng thời cung cấp dịch vụ phi kiểm toán bên cạnh
dịch vụ kiểm toán. Tuy chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có nhấn mạnh tính độc lập
của kiểm toán viên, nhưng do sự cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với các dịch vụ
kiểm toán, cùng với tính phức tạp của việc cung cấp nhiều dịch vụ đã làm giảm đi tính
khách quan và trung thực. Bên cạnh đó, sự sút giảm doanh thu từ hoạt động kiểm toán
và việc gia tăng doanh thu từ hoạt động phi kiểm toán đã ảnh hưởng đến tính độc lập
của kiểm toán viên, bởi lẽ vì họ cho rằng có thể tư vấn cho khách hàng nên đã chuyển
sang ưu tiên cho việc cố gắng trở thành nhà tư vấn đáng tin cậy của khách hàng.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1988 – 2001, các quy định về đạo đức nghề nghiệp
của nhiều quốc gia trên thế giới đều cho rằng công ty kiểm toán và kiểm toán viên có
thể cung cấp dịch vụ kế toán và các dịch vụ phi kiểm toán khác, nếu:
- Không có mâu thuẫn quyền lợi để có thể gây ảnh hưởng đến tính chính trực và
khách quan.
- Khách hàng chấp nhận trách nhiệm của họ đối với báo cáo tài chính.
- Kiểm toán viên không được kiêm nhiệm việc quản lý, trong đó bao gồm cả việc
không được soạn thảo báo cáo tài chính.
- Khi thực hiện kiểm toán, cần tiến hành đầy đủ các thủ tục cần thiết, không được
bỏ sót hay cắt giảm các thủ tục kiểm toán.
Ngoài ra, kiểm toán viên có thể kiểm toán cho công ty mà mình có lợi ích tài
chính không trọng yếu hay có các khoản đi vay hoặc cho vay, nếu khoản cho vay được
tiến hành theo đúng trình tự quy định và khoản này là không trọng yếu.
Trước tình hình đó, trong thập niên 1990, đã bắt đầu xuất hiện nhiều cảnh báo
liên quan đến tính độc lập và các đề nghị gia tăng tính độc lập của kiểm toán viên. Các
cảnh báo này tập trung vào việc cung cấp đồng thời nhiều dịch vụ và kiểm toán lâu
năm cho cùng một khách hàng.
Vì thế, P.Moizier đã đề nghị nhiều giải pháp nhằm làm gia tăng tính độc lập,
như là cấm kiểm toán viên có lợi ích tài chính trong công ty khách hàng, xoay vòng
Trang 8
kiểm toán … Ngoài ra, về dịch vụ phi kiểm toán, P.Moizier cũng đã cảnh báo rằng các
dịch vụ này có thể sẽ làm ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên và công ty
kiểm toán.
Thế nhưng các cảnh báo trên đã gặp phải sự chống đối mạnh mẽ từ năm công ty
kiểm toán hàng đầu. Các công ty này cho rằng do các chi phí kiểm toán cho những
năm đầu tiên bao giờ cũng cao và nếu phải xoay vòng, sẽ không thể bù đắp được chi
phí này, chính việc cung cấp nhiều dịch vụ sẽ có lợi hơn cho khách hàng và không gây
phương hại đến tính độc lập. Vào thời kỳ này, ngay cả SEC cũng không ủng hộ ý kiến
xoay vòng và vẫn cho phép cung cấp nhiều dịch vụ, vì họ cho rằng việc cung cấp đồng
thời các dịch vụ phi kiểm toán hoặc kiểm toán lâu năm cho cùng một khách hàng hầu
như không có ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên.
1.3.3 Giai đoạn hiện tại
Đến đầu những năm 2000, sau hàng loạt vụ bê bối tài chính (do sự thất bại
trong kiểm toán các công ty Eron, WorldCom, Ahold …) đã hình thành nên quan điểm
cho rằng chính việc kiểm toán viên kiêm nhà tư vấn cho khách hàng là một trong
những nguyên nhân đưa đến các vụ trên, đặc biệt là đưa đến sự tan rã của công ty kiểm
toán Arthur Andersen.
Chính vì vậy, sau năm 2001, Ủy ban chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quốc tế
cũng như nhiều Hiệp hội nghề nghiệp của các quốc gia trên thế giới đã sửa đổi một số
quy định về đạo đức nghề nghiệp. Các thay đổi trong chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
tập trung vào việc nâng cao mức độ độc lập giữa kiểm toán viên và nhà quản lý của
khách hàng, thông qua việc cấm cung cấp đồng thời dịch vụ kiểm toán và phi kiểm
toán, cũng như nhấn mạnh việc xoay vòng kiểm toán.
1.4 Các nội dung cơ bản của hệ thống quy định về đạo đức nghề nghiệp
1.4.1 Tổ chức lập quy và cơ chế giám sát
Thông thường tại các quốc gia trên thế giới, việc xây dựng chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp chủ yếu là do Hội nghề nghiệp đảm nhận hay một tổ chức hỗn hợp trong
đó có các thành viên là Hội nghề nghiệp, vừa có các thành phần khác. Ở Hoa Kỳ, đó là
Ủy ban Đạo đức nghề nghiệp (PEEC), ở Pháp là Liên đoàn Quốc gia các Chuyên viên
Kế toán (CNCC) nhưng phải được Ủy ban tham chính thông qua. Bên cạnh chuẩn mực
Trang 9
đạo đức nghề nghiệp do Hội nghề nghiệp soạn thảo, còn có các quy định pháp luật có
liên quan.
Để các quy định đạo đức nghề nghiệp đi vào thực tế, cần phải thiết lập một cơ
chế để giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, cũng như nhằm xét xử các hành vi
vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Thông thường việc giám sát tuân thủ đạo đức nghề
nghiệp được thực hiện cùng với quá trình giám sát chất lượng hoạt động kiểm toán. Vì
vậy cần có bộ phận chuyên trách về giám sát chất lượng hoạt động kiểm toán cũng như
bộ phận phụ trách xét xử kỷ luật. Bộ phận kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
có thể trực thuộc Hội nghề nghiệp, hoặc có thể là bộ phận vừa trực thuộc Hội nghề
nghiệp vừa trực thuộc Ủy ban chứng khoán, đó cũng có thể là cơ quan được thành lập
theo yêu cầu của luật pháp.
Tùy theo đặc điểm từng quốc gia, để giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề
nghiệp, cần giải quyết mối quan hệ đúng đắn giữa Nhà nước và Hội nghề nghiệp. Nếu
tổ chức nghề nghiệp phát triển mạnh và đưa ra được chuẩn mực hay quy định chặt chẽ,
lúc này, Nhà nước sẽ chỉ giới hạn vai trò của mình trong việc đưa ra khuôn khổ pháp
lý. Ngược lại, nếu tổ chức nghề nghiệp không đủ mạnh để đảm nhận vai trò này, Nhà
nước phải can thiệp sâu hơn bằng việc ban hành các văn bản pháp lý về việc giám sát
sự tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
1.4.2 Nội dung của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
Về thực chất, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là sự tiêu chuẩn hóa các nguyên
tắc và hướng dẫn nhằm giúp các thành viên hoạt động một cách trung thực để đáp ứng
sự mong đợi của xã hội đối với nghề nghiệp.
Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều tình huống phát sinh khác nhau ảnh hưởng
đến đạo đức nghề nghiệp. Chính vì vậy, nội dung chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
phải đưa ra được phương pháp giải quyết đối với các trường hợp có thể phát sinh trong
thực tế liên quan đến đạo đức nghề nghiệp. Nhưng điều đó không có nghĩa chuẩn mực
đưa ra các giải quyết quá chi tiết, tức đề cập quá sâu vào các trường hợp cụ thể, vì như
vậy chuẩn mực sẽ rất dễ lạc hậu do phải thay đổi liên tục.
Ngược lại, nếu thiết lập các quy định quá chung chung sẽ rất khó áp dụng vào
thực tiễn. Vì vậy, cần lựa chọn cân bằng giữa tính khái quát hóa và chi tiết hóa nhằm
giúp kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể dễ dàng áp dụng chúng vào thực tế và
Trang 10
chuẩn mực ít bị thay đổi nhất. Điều đó có nghĩa là, khi mà chuẩn mực chỉ thiết lập các
nguyên tắc chung nhất, bên cạnh chuẩn mực sẽ cần có những hướng dẫn và giải thích
để dễ dàng áp dụng chúng vào thực tế.
Bên cạnh đó, tất cả các quốc gia là thành viên của IFAC, khi xây dựng các quy
định về đạo đức nghề nghiệp phải tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của IFAC.
Các quốc gia chỉ được đưa ra các nguyên tắc nghiêm ngặt hơn quy định của quốc tế.
Thông thường, các nội dung sau đây được quy định trong chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp của kiểm toán viên độc lập:
- Chính trực: kiểm toán viên phải thực hiện công việc với một tinh thần trung
thực, thẳng thắn, bất vụ lợi.
- Khách quan: kiểm toán viên phải công minh, nghĩa là không được phép phán
quyết một cách vội vàng, hoặc áp đặt, hay gây áp lực đối với người khác.
- Độc lập: kiểm toán viên phải độc lập về tư tưởng và độc lập về hình thức.
- Bảo mật: kiểm toán viên phải giữ bí mật của những thông tin đã thu thập được
trong thời gian thực hiện các dịch vụ chuyên môn, và không được sử dụng hoặc
tiết lộ bất cứ thông tin nào nếu không có thẩm quyền rõ ràng và hợp lý, trừ khi
có nghĩa vụ pháp lý, hoặc trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu phải công bố.
- Chấp hành các chuẩn mực nghiệp vụ trong khi tiến hành công việc.
- Trình độ nghiệp vụ: kiểm toán viên có nghĩa vụ phải duy trì trình độ nghiệp vụ
của mình trong suốt quá trình hành nghề, kiểm toán viên chỉ được phép nhận
làm những công việc khi đã có đủ trình độ nghiệp vụ để hoàn thành nhiệm vụ.
- Tư cách nghề nghiệp: kiểm toán viên phải tự điều chỉnh những hành vi của
mình cho phù hợp với uy tín của ngành nghề, và phải tự kiềm chế những hành
động có thể phá hoại uy tín nghề nghiệp.
Trang 11
CHƯƠNG 2 : THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG CHUẨN MỰC ĐẠO
ĐỨC NGHỀ NGHIỆP KẾ TOÁN KIỂM TOÁN TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI
VIỆT NAM
2.1 Quy định về đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của Liên đoàn Kế toán quốc tế
Năm 1994, IFAC ban hành các chuẩn mực kiểm toán vào năm 1994 và bắt đầu
soạn thảo bộ đạo đức nghề nghiệp. Ban đầu, việc soạn thảo bộ đạo đức nghề nghiệp do
Ủy ban đạo đức nghề nghiệp trực thuộc IFAC đảm nhận, còn hiện nay do IESBA đảm
trách. Ủy ban này tư vấn cho IFAC về các vấn đề liên quan đến đạo đức nghề nghiệp,
đồng thời soạn thảo các hướng dẫn chi tiết về những vấn đề đã được IFAC phê chuẩn.
Bộ đạo đức nghề nghiệp do IFAC cho đến nay là đã được sửa đổi hai lần vào năm
2001 và 2005 kể từ thời điểm ban hành (1996).
2.1.1 Điều lệ đạo đức năm 1996
Tháng 7/1996, ủy ban đạo đức nghề nghiệp (trực thuộc IFAC) ban hành bộ đạo
đạo đức nghề nghiệp chính thức cơ sở kế thừa các hướng dẫn trước đó của IFAC. Nội
dung gồm có 3 phần: phần A áp dụng cho người hành nghề chuyên nghiệp, phần B áp
dụng cho kiểm toán viên, phần C áp dụng cho người hành nghề kế toán trong các
doanh nghiệp. Điều lệ có nêu lên các tình huống làm ảnh hưởng đến tính độc lập người
hành nghề, những tình huống mà các kiểm toán viên dễ gặp phải như sau:
- Có lợi ích tài chính. Khi kiểm toán viên có các khoản đầu tư trong công ty
khách hàng, có khoản đi vay hay cho vay, nắm giữ các lợi ích tài chính trong
công ty khách hàng có thể sẽ làm ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán
viên khi tiến hành kiểm toán.
- Bổ nhiệm công ty kiểm toán. Công ty kiểm toán không được bổ nhiệm một
người làm kiểm toán viên trong nhóm kiểm toán khi người đó đang là thành
viên trong ban giám đốc hay hội đồng quản trị của khách hàng.
- Các dịch vụ khác. Kiểm toán viên có thể thực hiện các dịch vụ khác đồng thời
với việc thực hiện kiểm toán cho khách hàng khi thỏa mãn các điều kiện như:
kiểm toán viên không có mối liên hệ với khách hàng hay xung đột lợi ích có thể
Trang 12
ảnh hưởng đến tính trung thực và đọc lập; kiểm toán viên không được là nhân
viên hay người quản lý của khách hàng
- Mối liên hệ cá nhân và gia đình. Mối liên hệ gia đình sẽ tạo nguy cơ ảnh hưởng
đến tính độc lập. Mối liên hệ gia đình thường là mối liên hệ trong đó kiểm toán
viên hay chủ phần hùn có quan hệ với những người lãnh đạo chủ chốt trong
công ty được kiểm toán.
- Phí kiểm toán và dịch vụ khác. Nếu khoản phí thu được từ hợp đồng là quá lớn,
nhóm kiểm toán có thể sẽ bị phụ thuộc vào khách hàng và sẽ ảnh hưởng đến
tính độc lập.
- Quà tặng. Nếu kiểm toán viên hay gia đình họ nhận từ khách hàng những món
quà mà không phải mang tính chất xã giao thì sẽ rất dễ bị ảnh hưởng tới tính
độclập.
- Quyền sở hữu về vốn. Vốn đầu tư trong công ty kiểm toán nên thuộc vè kiểm
toán viên. Nếu thuộc quyền sở hữu của người khác kiểm toán viên có thể bị gây
áp lực.
- Tranh chấp pháp lý với khách hàng. Những tranh chấp này cũng có thể ảnh
hưởng tới tính độc lập và khách quan của kiểm toán viên.
- Cộng tác lâu dài với khách hàng. Việc một kiểm toán viên cộng tác lâu dài với
khách hàng có thể đe dọa tính độc lập, vì thế công ty kiểm toán nên xoay vòng
các kiểm toán viên trong một thời gian kiểm toán nhất định để không ảnh
hưởng đến tính độc lập và khách quan.
2.1.2 Điều lệ đạo đức nghề nghiệp năm 2001
Sau khi ban hành điều lệ đạo đức nghề nghiệp năm 1996, đến năm 2000, do sự
phá sản của các công ty lớn trên thế giới như Enron, Wordcom, cũng như sự phá sản
của Arthur Andersen đã đánh mất lòng tin của quần chúng. Ủy ban thực hành kiểm
toán (IAPC) thanh đổi thành ủy ban quốc tế về chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ đảm
bảo (IAASB). IFAC đã xem xét lại toàn bộ các quy định về đạo đức và ban hành điều
lệ đạo đức mới có hiệu lực từ tháng 11 năm 2001.
Kết cấu của điều lệ đạo đức nghề nghiệp năm 2001 cũng gồm có ba phần chính
tương tự điều lệ đạo đức nghề nghiệp ban hành năm 1996: Phần A áp dụng cho tất cả
Trang 13
người hành nghề; phần B áp dụng cho kiểm toán viên; phần C áp dụng cho người hành
nghề làm việc tại các doanh nghiệp. Trong điều lệ năm 2001 này, ở phần B đã định
nghĩa rõ ràng hơn về tính độc lập trong khi điều lệ 1996 không nói rõ thế nào là độc
lập. IFAC đã đưa ra cách tiếp cận và định nghĩa thuật ngữ đạo đức trên hai phương
diện là độc lập về tư tưởng và độc lập về hình thức.
Phạm vi áp dụng: Không chỉ áp dụng cho hợp đồng kiểm toán mà còn áp dụng
cho các hợp đồng dịch vụ và đảm bảo.
Thay vì giải thích riêng từng trường hợp cụ thể như trước đây, IFAC xác lập các
nguy cơ và biện pháp bảo vệ. IFAC cho rằng có năm nhóm nguy cơ là nguy cơ do tư
lợi, nguy cơ tự kiểm tra, nguy cơ về quan hệ gia đình, nguy cơ bị đe dọa. Biện pháp
bảo vệ bao gồm các biện pháp do luật và chuẩn mực quy định, các biện pháp bảo vệ
của người sử dụng dịch vụ đảm bảo, các biện pháp bảo vệ trong các quy định của bản
than công ty kiểm toán.
Về quan điểm: IFAC thay đổi tạp trung vào ba chủ đề chính như sau:
- Các dịch vụ cung cấp: Trước đây, các công ty kiểm toán được phép thực hiện
các dịch vụ kế toán và một số dịch vụ phi kiểm toán, nhưng điều lệ năm 2001 lại
yêu cầu các kiểm toán viên không được phép thực hiện đồng thời các dịch vụ này.
- Về quay vòng kiểm toán: Thời gian phụ trách hợp đồng thường là không quá 7
năm, và sau 2 năm mới được tái thực hiện.
- Nhấn mạnh các biện pháp bảo vệ trong trường hợp giám đốc hay nhân viên cấp
cao hoặc nhân viên của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo đã từng là giám đốc
của công ty kiểm toán không được thực hiện kiểm toán.
2.1.3 Điều lệ đạo đức năm 2005
Nếu như trước đây điều lệ đạo đức nghề nghiệp được xem như một mô hình để
các quốc gia tham chiếu, đến năm 2005 IFAC đã yêu cầu tất cả các nước thành viên
đều phải áp dụng. Không thành viên nào được phép áp dụng các quy định kém nghiêm
ngặt hơn so với các quy định mà IFAC đã thiết lập. Bố cục điều lệ năm 2005 được chia
thành ba phần:
Trang 14
Phần A đề cập đến 6 nguyên tắc đạo đức căn bản cho người hành nghề bao gồm
tính chính trực khách quan, năng lực chuyên môn và tính thận trọng, bảo mật,
tư cách nghề nghiệp.
Phần B áp dụng cho người hành nghề. Nội dung của tính độc lập trong điều lệ
đạo đức năm 2005 cũng có nhiều thay đổi, bao gồm: thêm phần giới thiệu về
hợp đồng bảo đảm; thêm phần trình bày cơ sở dẫn liệu căn bản cho hợp đồng
đảm bảo, trong đó có phân biệt hợp đồng kiểm toán báo cáo tài chính và hợp
đồng đảm bảo khác; thay đổi bên chịu trách nhiệm có liên quan là Ban lãnh đạo
của công ty, trong khi chuẩn mực 2001 cho rằng đó là Ban quản lý.
Năm 2007, Ủy ban chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp (IESBA) đưa ra bản dự
thảo mới trong đó hiệu đính một số nội dung nhằm mục đích tạo ra sự dễ hiểu hơn cho
người đọc.
Tháng 4/2008, IESBA đã phê chuẩn việc điều chỉnh phần 290, trong đó nguyên
tắc độc lập chỉ được áp dụng cho các dịch vụ kiểm toán và soát xét. Ủy ban cũng phê
chuẩn việc đưa thêm phần 291 liên quan đến yêu cầu về tính độc lập cho các dịch vụ
đảm bảo khác.
Tháng 7/2009, tại New York, Ủy ban chuẩn mực đạo đức kế toán quốc tế
(IESBA) đã công bố Sửa đổi bộ Chuẩn mực đạo đức cho kế toán viên chuyên nghiệp.
Bộ chuẩn mực Sửa đổi này làm rõ các yêu cầu đối với tất cả kế toán viên chuyên
nghiệp và tăng cường đáng kể các yêu cầu về tính độc lập đối với kiểm toán viên.
Trong Tuyên bố về trách nhiệm của các thành viên của Liên đoàn kế toán quốc
tế (IFAC), các quốc gia thành viên có mục tiêu trung tâm là hội nhập các chuẩn mực
quốc gia với Bộ chuẩn mực đạo đức cho kế toán viên chuyên nghiệp quốc tế. Thêm
vào đó tuyên bố này cũng yêu cầu cụ thể các quốc gia không được áp dụng các chuẩn
mực quốc gia ít nghiêm ngặt hơn chuẩn mực quốc tế.
2.2 Quy định đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của Hoa Kỳ
2.2.1 Lịch sử ra đời
Hoạt động kiểm toán độc lập của Hoa Kỳ đã hình thành từ thế kỷ 19 từ sự phát
triển của các công ty cổ phần. Thế nhưng, mãi đến năm 1933, với sự ra đời của Luật
Chứng khoán Liên bang, mới đưa ra yêu cầu bắt buộc báo cáo tài chính của các công
Trang 15
ty cổ phần niêm yết phải được kiểm toán. Đặc biệt, vào năm 1934, Luật giao dịch
chứng khoán đã ra đời và Chương 13 đã đưa ra quy định về tính độc lập của kiểm toán
viên khi kiểm toán báo cáo tài chính.
Trước khi có chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, tại Hoa Kỳ đã có các quy định,
đó là các vấn đề do AICPA trả lời cho các câu hỏi do người hành nghề đặt ra về vấn đề
cụ thể, và thường được công bố trên tạp chí Kế toán.
Do nhu cầu thực tiễn, PEEC (Ủy ban đạo đức nghề nghiệp) trực thuộc AICPA
(Hiệp Hội Kế toán viên công chứng Hoa Kỳ) đã soạn thảo và ban hành Chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp đầu tiên vào ngày 12/01/1988. Nội dung chủ yếu đề cập đến các
nguyên tắc căn bản chi phối hành vi của kiểm toán viên và công ty kiểm toán.
2.2.2 Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
Hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của Hoa Kỳ bao gồm bốn bậc:
Bậc 1 – Nguyên tắc: là các chuẩn mực lý tưởng về đạo đức và không mang tính
bắt buộc.
Bậc 2 – Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp: đây là chuẩn mực tối thiểu về đạo
đức, đó là sự chi tiết hoá nguyên tắc và mang tính bắt buộc. Người hành nghề
nếu không chấp hành sẽ phải giải trình trước Ủy ban kỷ luật về lý do của hành
vi không tuân thủ này.
Bậc 3 – Các giải thích về đạo đức: là những hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng
các quy tắc trong thực tế. Tuy vậy, các vấn đề phát sinh trong thực tế có thể
không chỉ giới hạn ở những hướng dẫn trên.
Bậc 4 – Quy định về đạo đức: đây là các câu hỏi và những câu trả lời của
AICPA về các vấn đề do người hành nghề đặt ra.
Trong các bậc trên, các nguyên tắc và quy tắc đề cập đến những đức tính lý
tưởng của người hành nghề xã hội mong đợi. Chính vì vậy, từ khi ra đời đến nay, các
nguyên tắc và quy tắc này hầu như chưa thay đổi. Còn các giải thích và quy định là
những hướng dẫn về cách thức giải quyết vấn đề đạo đức trong các tình huống cụ thể,
vì thế chúng đã thay đổi không ngừng tùy theo sự phát triển của đời sống xã hội.
Tính độc lập là nội dung chủ yếu nhất nên được đề cập đến sớm nhất và cũng
có nhiều thay đổi nhất trong nội dung của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và các
Trang 16
hướng dẫn ban đầu tập trung vào nguyên tắc độc lập. Dần dần, cùng với quá trình phát
triển, các nguyên tắc khác lần lượt được quy định.
Nội dung của chuẩn mực đạo đức gồm bảy nguyên tắc. Nội dung tóm tắt của
bảy nguyên tắc như sau:
Nguyên tắc 1: Các nguyên tắc chung về đạo đức nghề nghiệp
Qua những nguyên tắc này, AICPA đề cập đến trách nhiệm và nghĩa vụ của
kiểm toán viên đối với công chúng, khách hàng và đồng nghiệp thông qua các quy tắc
về: trách nhiệm; lợi ích cộng đồng; chính trực; khách quan và độc lập; thận trọng đúng
mức; phạm vi và loại hình dịch vụ - tuân thủ chuẩn mực chuyên môn.
Nguyên tắc 2: Tuân thủ quy tắc đạo đức và định nghĩa
Điều lệ yêu cầu các thành viên tuân thủ cá quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kiểm
toán viên phải chứng minh nếu có sự vi phạm các quy tắc này, trừ khi có các quy định
khác trái ngược.
Nguyên tắc 3 – Độc lập, chính trực và khách quan
Phần này nói về các quy tắc đạo đức về độc lập, chính trực và khách quan.
AICPA đã nêu ra một số trường hợp quy định trong khi thực hiện hợp đồng kiểm toán
hay vào thời gian phát hành báo cáo, kiểm toán viên không được: có các lợi ích trực
tiếp trong công ty khách hàng; là người được ủy thác hay người quản lý tài sản; có mối
quan hệ gia đình với cán bộ chủ chốt trong công ty khách hàng;có khaonr cho vay hay
đi vay từ các thành viên, giám đốc hay các cổ đông chủ yếu của công ty khách hàng
ngoại trừ khi các khoản này được cho phép hay đã thực hiện đúng trình tự cho vay
theo luật định; đang có tranh tụng giữa khách hàng với với kiểm toán viên.
Nguyên tắc 4 – Tuân thủ nguyên tắc kế toán và cá chuẩn mực chung
Người hành nghề cần tuân thủ các chuẩn mực và hướng dẫn do PEEC ban hành
về: năng lực chuyên môn; thận trọng nghề nghiệp; lập kế hoạch giám sát; thu thập
thông tin đầy đủ và thích hợp. Ngoài ra, khi báo cáo tài chính còn chứa đụng những sai
phạm trọng yếu và không tuân thủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán viên không nên
cho ý kiến hay khẳng định rằng báo cáo tài chính đã được trình bày phù hợp với chuẩn
mực kế toán.
Nguyên tắc 5 – Trách nhiệm đối với khách hàng
Trang 17
Nguyên tắc này chủ yếu trình bày và hướng dẫn về vấn đề bảo mật thông tin
của khách hàng.
Nguyên tắc 6 – Trách nhiệm đối với đồng nghiệp
Kiểm toán viên cần giữ mối quan hệ tốt với đồng nghiệp và tránh các hành vi
không đúng dắn với đồng nghiệp. Nếu có mâu thuẫn nghề nghiệp cần giải quyết theo
hướng hòa giải và nếu cần thiết, nên nhờ đến sự hòa giải của Hội nghề nghiệp.
Nguyên tắc 7 – Các trách nhiệm khác
Nội dung nguyên tắc giới thiệu về các hành vi gây phương hại đến uy tín nghề
nghiệp mà kiểm toán viên không nên thực hiện như: giữ hồ sơ của khách hàng; phân
biệt chủng tộc, giới tính; tìm kiếm khách hàng thông qua quảng cáo theo cách lừa gạt,
dối trá …
2.3 Quy định về đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của Pháp
2.3.1 Lịch sử ra đời
Hoạt động kiểm toán độc lập của Pháp hình thành từ sự ra đời của Luật Thương
mại (1863) và Luật công ty (1867), trong hai luật này đã đề cập đến thuật ngữ kiểm
toán. Luật Công ty yêu cầu công ty cổ phần phải chỉ định một hay nhiều kiểm toán
viên để kiểm tra báo cáo tài chính. Tuy nhiên, ở thời kỳ này, nghề nghiệp kiểm toán
chưa mang tính chuyên nghiệp, số lượng các công ty được kiểm toán còn rất hạn chế.
Nguyên nhân là do tại Pháp, nguồn tài trợ chủ yếu cho các doanh nghiệp không phải từ
thị trường chứng khoán đúng nghĩa. Phần lớn các doanh nghiệp của Pháp chủ yếu là
doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn, là những công ty mang tính
chất gia đình.
Mãi đến ngày 08/08/1935, nghề nghiệp kiểm toán mới bắt đầu phát triển khi
Luật Công ty bổ sung những quy định làm nền tảng cho việc tổ chức nghề nghiệp kiểm
toán, với quy định các công ty niêm yết phải bổ nhiệm kiểm toán viên có năng lực để
kiểm toán báo cáo tài chính.
Sau thế chiến thứ 2, Chính phủ Pháp nhận thức rằng để phát triển kinh tế cần
phải phát triển thị trường tài chính. Do vậy, họ đã tiến hành công hữu hóa và đầu tư
trực tiếp vào nhiều công ty cổ phần. Nhờ đó, thị trường chứng khoán đã bắt đầu phát
triển, nhưng nhìn chung quy mô vẫn còn khá nhỏ. Để phát triển thị trường này, chính
Trang 18
phủ Pháp cho rằng cần phải có những cải cách quan trọng đối với nghề kiểm toán để
tạo lòng tin ở người sử dụng báo cáo tài chính.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng hoạt động kiểm toán tại Pháp không xuất phát
từ các yêu cầu của những cổ đông bình thường mà do yêu cầu của nhà nước gắn với
yêu cầu quản lý xã hội. Chính vì thế, chuẩn mực kiểm toán chịu sự chi phối của nhà
nước hơn là tổ chức nghề nghiệp và mang tính chất bắt buộc, ngoài ra các kiểm toán
viên hành nghề bắt buộc phải là thành viên của tổ chức nghề nghiệp theo luật định.
Luật Công ty năm 1935 yêu cầu các cuộc kiểm toán theo luật định phải thực
hiện bởi một kiểm toán viên có năng lực nhằm bảo vệ cho các cổ đông và nhằm tuân
thủ yêu cầu của nhà nước và luật pháp. Bên cạnh đó, Pháp còn đưa ra những yêu cầu
rất nghiêm ngặt về tiêu chuẩn để trở thành giám định viên kế toán (kiểm toán viên) và
hoạt động kiểm toán được kiểm soát bởi chính phủ. Trong thời gian đầu, các giám định
viên này không thông thạo về kế toán, họ có thể là những kỹ sư hay người quản lý
được lựa chọn. Yêu cầu duy nhất là họ phải độc lập với ban giám đốc. Mãi đến năm
1935, chính phủ Pháp mới đưa ra một số quy định liên quan tiêu chuẩn của người hành
nghề, cũng như đưa ra các yêu cầu kiểm tra kiến thức đối với người hành nghề. Các
kiến thức để có thể hành nghề là kiến thức về kế toán, thuế và luật.
Sau đó, Luật Thương mại đã bổ sung nhiều yêu cầu liên quan đến việc hành
nghề kiểm toán, ví dụ đề cập đến việc thành lập tổ chức nghề nghiệp kiểm toán và
kiểm soát nghề nghiệp. Ngoài ra, Luật Công ty (1966) đã mở rộng đối tượng kiểm tra
cả các công ty trách nhiệm hữu hạn và yêu cầu thành lập một tổ chức theo luật định đó
là CNCC. Trước khi có CNCC, tại Pháp đã có tổ chức nghề nghiệp kế toán từ năm
1942, đây là tổ chức nghề nghiệp được chính phủ thừa nhận chính thức vào ngày
19/9/1945.
Theo quy định của Luật Công ty, chỉ những người có tên trong danh sách chính
thức của kiểm toán viên mới được thực hiện cuộc kiểm toán theo luật định. Kiểm toán
viên có thể hành nghề dưới danh nghĩa cá nhân hay công ty. Tất cả kiểm toán viên
hành nghề đều phải là thành viên của CNCC, CNCC đặt dưới sự quản lý của Bộ Tư
pháp.
Ngoài các quy định trên, Luật Công ty còn đưa ra một số quy định liên quan
đến đạo đức nghề nghiệp như: kiểm toán viên không được nhận bất cứ đặc ân nào từ
Trang 19
công ty khách hàng; kiểm toán viên không được nắm bất cứ chức vụ nào trong ban
quản lý hay là thành viên trong ban lãnh đạo công ty được kiểm toán; kiểm toán viên
hay công ty kiểm toán không được thực hiệ kiểm toán cho công ty khi họ hay gia đình
họ nắm giữ trên 10% quyền sở hữu trong công ty được kiểm toán…
Luật cũng nhấn mạnh rằng tính độc lập của kiểm toán không chỉ là độc lập về
tư tưởng mà còn là độc lập về hình thức.
Như vậy có thể thấy, tại Pháp, đạo đức nghề nghiệp là vấn đề trước hết được
quy định trong luật và các biện pháp xử phạt cũng được quy định trong văn bản pháp
luật.
Tuy thành lập vào năm 1969, nhưng mãi đến năm 1988, CNCC mới xây dưng
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp một cách đầy đủ trên cơ sở kế thừa các quy định của
luật pháp. Chuẩn mực này đề cập một cách đầy đủ các nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp nhằm nâng cao sự tín nhiệm của công chúng vào nghề nghiệp kiểm toán.
2.3.2 Các quy định về đạo đức nghề nghiệp
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của Pháp do CNCC soạn thảo. Từ
khi ra đời (1988) đến nay, chuẩn mực đâọ đức nghề nghiệp đã được chỉnh sửa nhiều
lần. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp gồm 7 chương, với 37 điều, trong đó đề cập chủ
yếu đến những vấn đề như : nguyên tắc căn bản, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp yêu
cầu kiểm toán viên phải tuân thủ luật pháp và các quy định cũng như các điều khoản
trong chuẩn mực đạo đức hiện hành và quy định về tính trung thực, khách quan và
năng lực chuyên môn, tính độc lập, mâu thuẫn lợi ích, tính đồng nghiệp và tính bảo
mật. Cụ thể, chuẩn mực được chia thành các chương:
Chương I - Những nguyên tắc căn bản
Chương II – Điều cấm, rủi ro và các biện pháp bảo vệ
Chương III – Chấp nhận thực hiện và duy trì hợp đồng kiểm toán
Chương IV – Kiểm toán cho cùng một hệ thống
Chương V – Mối quan hệ cá nhân, tài chính và nghề nghiệp
Chương VI – Giá phí
Chương VII – Quảng cáo
Trang 20
2.4 Các quy định đạo đức nghề nghiệp kiểm toán tại Việt Nam
2.4.1 Lịch sử ra đời
Hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam hình thành từ năm 1991 bắt đầu bằng
việc thành lập 02 doanh nghiệp kiểm toán đầu tiên vào tháng 5/1991. Đó là công ty
TNHH dịch vụ tư vấn và kiểm toán (AASC) và công ty Kiểm toán Việt Nam
(VACO). Tính đến nay, kiểm toán độc lập đã trải qua hơn 20 năm hoạt động và phát
triển. Hiện nay, Việt Nam đã có 195 công ty kiểm toán, trong đó có 165 công ty
TNHH, 03 công ty hợp danh, 05 công ty có vốn đầu tư nước ngoài, 22 công ty hãng
thành viên quốc tế.
Việt Nam đã ban hành 38 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA). Ở Việt Nam,
Bộ Tài chính là cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo, ban hành các chuẩn mực kiểm
toán. Khi chuyển hoá các chuẩn mực kiểm toán quốc tế sang hệ thống chuẩn mực kiểm
toán của Việt Nam, các điều kiện về kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hóa, trình độ của
kiểm toán viên được nghiên cứu, xem xét rất kỹ.
Theo thông lệ quốc tế, những người làm kế toán, kiểm toán phải tuân thủ Chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp. Năm 1994 Việt Nam đã ban hành quy chế kiểm toán độc
lập quy định kiểm toán viên phải bảo đảm trung thực, độc lập, khách quan, công bằng
và bí mật số liệu. Tiếp đến vào năm 1999, vấn đề này được cụ thể hơn trong chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam số 200 – Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán
báo cáo tài chính, bao gồm bảy nguyên tắc là Độc lập – Chính trực – Khách quan –
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng – Tính bảo mật – Tư cách nghề nghiệp –
Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn.
Sau đó vấn đề đạo đức nghề nghiệp tiếp tục được quy định trong những văn bản
khác như VSA 220, Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 của Chính phủ về
kiểm toán độc lập.
Thế nhưng vấn đề này chỉ được quy định đầy đủ và toàn diện nhất khi Bộ tài
chính ban hành và công bố Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán theo
quyết định số 87/2005/QĐ-BTC ngày 1/12/2005 để áp dụng cho tất cả những người
hành nghề kế toán và kiểm toán. Chuẩn mực này dựa trên các quy định chung của
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp do Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) ban hành và có
những văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng chuẩn mực.
Trang 21
2.4.2 Nội dung chuẩn mực
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán gồm hai phần chính đó là
quy định chung và nội dung chuẩn mực.
2.4.2.1 Quy định chung
Quy định các nguyên tắc, nội dung và hướng dẫn áp dụng các tiêu chuẩn đạo
đức nghề nghiệp của người hành nghề kế toán, kiểm toán viên hành nghề và người làm
kế toán, kiểm toán trong các doanh nghiệp và tổ chức nhằm đảm bảo đạt được những
tiêu chuẩn cao nhất về trình độ chuyên môn, về mức độ hoạt động và đáp ứng được sự
quan tâm ngày càng cao của công chúng.
Nội dung: Chuẩn mực quy định mục đích, các nguyên tắc đạo đức cơ bản; tiêu
chuẩn đạo đức áp dụng chung cho tất cả những người làm kế toán và người làm
kiểm toán; tiêu chuẩn đạo đức áp dụng riêng cho kiểm toán viên hành nghề,
nhóm kiểm toán và công ty kiểm toán; tiêu chuẩn đạo đức áp dụng cho người
có Chứng chỉ kiểm toán viên hoặc Chứng chỉ hành nghề kế toán làm việc trong
các doanh nghiệp, tổ chức.
Phạm vi áp dụng: Chuẩn mực này áp dụng cho tất cả người làm kế toán và
người làm kiểm toán, gồm: Người làm kế toán, làm kế toán trưởng, làm kiểm
toán nội bộ trong các doanh nghiệp và các đơn vị kế toán nhà nước; những
người có Chứng chỉ kiểm toán viên hoặc Chứng chỉ hành nghề kế toán đang
làm kế toán, làm kế toán trưởng, kiểm toán nội bộ, chủ doanh nghiệp hoặc công
việc khác trong các doanh nghiệp, tổ chức; người có Chứng chỉ kiểm toán viên
hoặc Chứng chỉ hành nghề kế toán đang đăng ký hành nghề trong các doanh
nghiệp dịch vụ kế toán, kiểm toán; doanh nghiệp kế toán, kiểm toán phải thực
hiện các quy định của Chuẩn mực này trong suốt quá trình hoạt động.
2.4.2.2 Nội dung chuẩn mực
Phần A – Áp dụng cho tất cả người làm kế toán và người làm kiểm toán
- Cách tiếp cận về nhận thức: Do môi trường làm việc và do bản chất của từng
dịch vụ và công việc có thể khác nhau nên các nguy cơ đối với những người
làm kế toán và những người làm kiểm toán là khác nhau, nên đòi hỏi phải áp
dụng các biện pháp bảo vệ khác nhau. Cách tiếp cận về nhận thức, mà theo đó