Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Quan hệ Việt Nam - Asean và những vấn đề đặt ra trong tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.84 KB, 37 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ, sự tuỳ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế ngày cành gia tăng đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác tích
cực hơn, trong đó có các thành viên ASEAN. Từ khi ra đời năm 1967 đến
năm 1997, phần lớn các quyết định của ASEAN chủ yếu liên quan đến chính
trị, chỉ có quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do được đưa ra năm 1993
là quuyết định liên quan đến kinh tế.
Tính đến năm 1997, ASEAN luôn là tổ chức thành công và có uy tín
nhờ thực hiện nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và
giữ gìn bản sắc dân tộc trong sự đa dạng về trình độ phát triển và thể chế
chính trị. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998 ở khu vực đã gây ảnh
hưởng tiêu cực tới uy tín của ASEAN. Tổ chức này có ảnh hưởng về uy tín
không lớn, cơ chế hợp tác lỏng lẻo, họp hành quá nhiều ( khoảng 700 cuộc
họp mỗi năm ) nhưng các quyết định nhiều khi không được thực hiện,
ASEAN không mạnh vì các nền kinh tế phân mảnh, không liên kết với nhau.
Nhìn lại lịch sử, ASEAN chỉ là một tổ chức khu vực thiên về chính trị,
chưa có tư cách pháp nhân ở Liên Hợp Quốc cũng như các tổ chức quốc tế và
khu vực khác vì chưa có Hiến chương, điều lệ, pháp lý. Vì vậy ý tưởng hình
thành cộng đồng ASEAN đã đưa ra trong bối cảnh thế giới và khu vực phát
triển đặt ASEAN trước vấn đề là phải liên kết các quốc gia thành một thể
thống nhất.
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN ), mở cánh cửa bước ra với khu
vực và thế giới và Cộng đồng ASEAN đã có nhiều ảnh hưởng lớn đối với
Việt Nam. Vì lý do đó em quyết định chọn đề tài : “Quan hệ Việt Nam -
Asean và những vấn đề đặt ra trong tương lai”.
1
1. Khái quát về sự hình thành cộng đồng ASEAN
1.1.Tiến trình hoạt động của cộng đồng ASEAN
ASEAN chính thức ra đời năm 1967. Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ
2, đây là tổ chức thứ 3 mang tính khu vực, sau Cộng đồng kinh tế châu Âu


( EEC-1957, nay là liên minh châu Âu-EU ), Tổ chức thống nhất châu Phi
( OAU-1963, nay là liên minh châu Phi- AU ). Điều đó cho thấy việc thành
lập ASEAN đi theo đúng xu hướng, tạo nên sự liên kết khu vực trong bối
cảnh toàn cầu hoá ngày càng mở rộng và chi phối mọi hoạt động trên hành
tinh.
Con đường 40 năm của ASEAN trải qua nhiều khúc quanh, để tiến tới
một tổ chức khu vực ngày càng hoàn thiện, đầy triển vọng như ngày nay. Từ
mối quan hệ nghi ngại ban đầu, thậm chí có lúc căng thẳng, Hiệp hội dần dần
trở thành một tổ chức toàn khu vực bao gồm đầy đủ 10 thành viên với chế độ
chính trị khác nhau, trình độ kinh tế không đồng đều và màu sắc văn hoá đa
dạng.
ASEAN thành công trước hết là do nhận thức đúng xu thế khu vực hoá,
toàn cầu hoá của thế giới, điều chỉnh kịp thời và hợp lý các mối quan hệ giữa
các quốc gia thành viên cũng như các nước ngoài khối, cùng theo đuổi mục
tiêu tạo dựng môi trường hoà bình, an ninh và ổn định, thiết lập quan hệ hợp
tác cùng phát triển.
Với 10 quốc gia ở Đông Nam Á, quy mô dân số gần 500 triệu người,
tổng diện tích lãnh thổ 4,5 triệu km
2
, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt
khoảng 737 tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại đạt 720 tỷ USD năm
2007, ASEAN hiện trở thành đối tác quan trọng của nhiều quốc gia và là khu
vực phát triển kinh tế năng động trong nền kinh tế thế giới. Trong khi các tổ
chức ở châu Âu, Nam Á, châu Phi, châu Mỹ được thành lập trong điều kiện
2
hoà bình, mục tiêu chủ yếu là hợp tác phát triển kinh tế, thì ASEAN lại là một
điểm nóng trong thời kỳ chiến tranh lạnh.cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành từ
Việt Nam lan ra toàn Đông Dương và có tác động mạnh mẽ đến cả khu vực.
Do vậy, tuy đề ra mục tiêu hợp tác về kinh tế và xã hội, nhưng vấn đề
chính trị an ninh khu vực lại trở thành mục tiêu chi phối hoạt động của

ASEAN trong một phần tư thế kỉ sau khi thành lập. Bản tuyên bố Kuala
lumpur năm 1971 cho thấy mối quan tâm hàng đầu của năm nước sáng lập
ASEAN khi đó là xây dựng Đông Nam Á thành khu vực Hoà bình, Tự do và
Trung lâp.
Năm 1975, Đông Nam Á bước sang một thời kỳ mới khi quân Mỹ rút
khỏi Đông Dương. Tháng 2/1976, Hiệp ước Bali ra đời với nội dung cơ bản là
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực, giải quyết
tranh chấp bằng biện pháp thương lượng hoà bình, xây dựng quan hệ hữu
nghị và hợp tác. Đây chính là mẫu số chung phản ánh nguyện vọng chính
đáng và lợi ích thiết thực của người dân Đông Nam Á.Tuy nhiên phải đến
giữa thập niên 80, khi tình hình thế giới bắt đầu thay đổi theo xu hướng hoà
dịu, Đông Nam Á thật sự chuyển theo chiều hướng mới.
Năm 1995 là dấu mốc của thời kỳ hoà nhập cùng phát triển trong khu
vực của Việt Nam. Lần đâu tiên một tổ chức của các nước không phải XHCN
kết nạp một nước xã hội chủ nghĩa, kết nạp một thành viên mà trước đó bị coi
như một địch thủ đáng gờm. Sau khi Việt Nam và các nước Lào (1997),
Myanmar (1997), Campuchia (1999) lần lượt gia nhập, ASEAN từ đây trở
thành một tổ chức liên kết toàn khu vực đúng như tên gọi của nó.
Sau 40 năm, ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật.
Đầu những năm 1990, sự hợp tác phát triển của các nước ASEAN mới
thật sự bước vào giai đoạn mới với hai văn kiện quan trọng được thông qua
3
tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV (1/1992) ở Singgapore, Hiệp định
khung về hợp tác kinh tế của ASEAN , Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung (CEPT) và thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA).Mặc dù vấp phải những khó khăn không nhỏ tử cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á năm 1997, AFTA đã được hoàn thành năm 2003 đối với các
nước thành viên cũ và kéo dài thêm đối với các nước thành viên mới (2006
đối với Việt Nam, 2008 đối với Lào, 2010 đối với Campuchia).

Tháng 10/1998, Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN đã được
ký kết. Khu vực đầu tư ASEAN bao gồm lãnh thổ tất cả các nước thành viên
của Hiệp hội, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước,trên cơ sở cung cấp cho
các nhà đầu tư kế hoạch phát triển quốc nội, ưu đã thuế quan và bãi bỏ những
hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung quốc… là
những nhà đầu tư chính vào các nước ASEAN.
Cơ chế ASEAN +3 đã được chính thức thực thi từ hội nghị cấp cao
ASEAN tại Hà Nội năm 1998, đã mở ra khả năng vượt qua khủng hoảng và
đẩy mạnh sự liên kết có hiệu quả, đồng thời khắc phục tình trạng ,ạc hậu về tự
do hoá thương mại tại khu vực sôi động nhất trong nền kinh tế thế giới.
Vào tháng 12/1997, Hội nghị cấp cao ASEAN kkhông chính thức lần
thứ hai tại KualaLumpur, các nước ASEAN đã thông qua văn kiện quan trọng
“Tầm nhìn ASEAN năm 2020”. Sau đó Hiệp ước Bali II (tháng 10/2003)được
tiến hành dưới chủ đề “Hướng tới một cộng đồng kinh tế và an ninh
ASEAN”. Theo đó đến năm 2020 sẽ hình thành một Cộng đồng ASEAN dựa
trên 3 trụ cột chính là Cộng đồng an ninh ASEAN , Cộng đồng kinh tế
ASEAN , Cộng đồng văn hoá xã hội ASEAN biến ASEAN từ một “Hiệp hội”
thành một “Cộng đồng” là một sự điều chỉnh quan trọng để ASEAN sẽ là một
nhóm hài hoà các dân tộc Đông Nam Á hướng ngoại, sống trong hoà bình, ổn
định và thịnh vượng, gắn bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển
4
năng động và trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau.
Tiến trình hình thành Cộng đồng ASEAN được đẩy mạnh với các soạn
thảo bản Hiến chương, thời hạn được rút ngắn, đạt tầm nhìn 2020 vào năm
2015. Theo kế hoạch ASEAN gồm 10 nước sẽ thông qua Hiến chương của
khối vào tháng 11 tới. Với Hiến chương này, ASEAN hy vọng sẽ trở thành
một khối giống như liên minh châu Âu, với các luật lệ mà mọi nước thành
viên phải tuân thủ. ASEAN chính thức cam kết thông qua Hiến chương này
tại một hội nghị thượng đỉnh ở Philippines hồi đầu năm nay.
Tuy nhiên khối này chưa thể nhất trí về các biện pháp trừng phạt đối

với các nước thành viên không tuân thủ quy định trong hiến chương. Trong
khi đó sự phản đối từ Myanmar đã cản trở đề xuất thành lập một uỷ ban nhân
quyền của khu vực. Các nước thành viên cũng đấu tranh liệu có nên từ bỏ
chính sách đồng thuận để chấp nhận việc ra quyết định thông qua bỏ phiếu
hay không.các vấn đề khác sẽ được các ngoại trưởng ASEAN thảo luận là giải
trừ hạt nhân của CHĐCN Triều Tiên, thông qua một kế hoạch hoạt động để
định hướng việc thực hiện hiệp ước không vũ khí hạt nhân ASEAN trong 5
năm tới.
Những thách thức của Cộng đồng ASEAN
Sự mở rộng của ASEAN cho tới nay đã bộc lộ những tồn tại, đặt ra
nhiều thách thức. Ngay từ tªn gọi, ASEAN là một “hiệp hội”, nên tính chất và
cơ cấu của nó khá lỏng lẻo, chỉ là một liên kết hợp tác. Việc thực hiện các
cam kết do các nhà nước thành viên quyết định, tự chịu trách nhiệm và lại
được “bảo vệ” bằng nguyên tắc không can thiệp. Hơn nữa ASEAN không có
ý định trở thành một liên minh của những đồng minh chiến lược. Vì vậy sự
gắn bó của các thành viên chỉ trong một chừng mực nhất định.
Cũng giống như vấn đề mà Liên minh EU gặp phải trong quá trình
“Đông tiến”. ASEAN từ năm nước mở rộng thành mười nước với các chế độ
chính trị xã hội chính trị khác nhau đã gặp khó khăn trong quá trình thực thi
5
nguyên tắc đồng thuận- nguyên tắc quan trọng hàng đầu.
Về kinh tế, việc hình thành khu vực thị trường tự do ASEAN –Trung
Quốc mở ra những cơ hội mới, đồng thời những thách thức không kém phần
gay gắt. Tiếp theo là những hiệp ước tương tự giữa ASEAN và Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ân Độ và nhiều nước khác.
Khoảng cách về trình độ giữ hai nhóm nước ASEAN vẫn là một trở
ngại lớn trong quan hệ thương mại và đầu tư .ội khối, làm chậm quá trình
thực hiện AFTA và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các cam kết FTA
với bên ngoài.
Sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích quốc gia với lợi ích chung của toàn hiệp

hội cũng là một tồn tại không nhỏ. Các nước thành viên thường quan tâm
trước hết là lợi ích của quốc gia. Đã xảy ra các hiện tượng “xé rào”, khi buôn
bán trong nội bộ ASEAN tiến triển chậm chạp, một số nước thành viên đã ký
kết với các đối tác bên ngoài, lập nên khối thương mại song phương.
Bước sang tuổi 40, ASEAN đang chuẩn bị thông qua bản hiến pháp
chung của mình. Đây cũng là một thách thức lớn bởi giữa các nước thành viên
vẫn còn những bất đồng.
1.2. Nội dung của Cộng đồng ASEAN
1.2.1. Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
 Mục đích thành lập Cộng đồng ASEAN
Theo dự định của các nhà lãnh đạo ASEAN, AEC sẽ được thành lập vào
năm 2015. Tuyên bố hoà hợp ASEAN II nhấn mạnh mục tiêu của cộng đồng
kinh tế AEC là nhằm hình thành một hình thành một khu vực kinh tế ASEAN
ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, tr/ng đó hàng hoá, dịch
vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do, và vốn được chu chuyển tự do hơn, kinh
tế phát triển đồng đều, đói nghèo và kinh tế xã hội được giảm bớt vào năm
2020. Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ 2 của ASEAN (2004-2010)-chương
6
trình hành động Viettian- đã xác định rõ hơn mục đích của Cộng đồng
ASEAN là : tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua hội nhập nhanh hơn,
nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN.
 Các biện pháp thực hiện
Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ cần thực hiện để xây dựng một thì
trường ASEAN bao gồm: hài hoà các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và
quy chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và thương mại và
hoàn chỉnh các quy tắc về xuất sứ.
Các biện pháp để xây dựng một cơ sở sản xuất ASEAN thống nhất bao
gồm: củng cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua nâng cấp cơ sở hạ tầng,
đặc biệt là trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông
tin, viễn thông và phát triển các kỹ năng thích hợp.

Các biện pháp nói trên đều đã và đang được các nước thành viên
ASEAN triển khai trong khuôn khổ các thảo thuận và hiệp định của ASEAN.
Như vậy AEC chính là sự đẩy mạnh những cớ chế liên kết hiện có của
ASEAN, như Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định
khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Hiệp định
khung về hợp tác công nghệ ASEAN (AICO), lộ trình hội nhập Tài chính và
Tiền tệ ASEAN ,vv…, để xây dựng ASEAN thành “một thị trường và cơ sở
sản xuất thống nhất’. Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực
dựa trên và nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN có bổ
sung thêm hai nội dung mới là tự do di chuyển lao động và di chuyển vốn tự
do.
 Quá trình thực hiện
Để bước đầu thực hiện hoá AEC, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9
(2003) đồng ý :ASEAN sẽ thực hiện các khuyến nghị về liên kết kinh tế của
Nhóm Đặc Trách Cao Cấp (HLTF) về liên kết kinh tế của Hội nghị Bộ
7
trưởng kinh tế ASEAN (AEM). Cụ thể là : thứ nhất là đẩy mạnh việc thực
hiện các sáng kiến kinh tế hiện có, bao gồm khu vực mậu dịch tự do
ASEAN, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ, và khu vực đầu tư ASEAN;
thứ 2 là thúc đẩy hội nhập khu vực trong các ngành ưu tiên; thứ 3 là tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đi lại của doanh nhân, lao động lành nghề và nhân
tài, và tăng cường các thể chế của ASEAN thu hẹp khoảng cách phát triển.
Hành động lớn đầu tiên của ASEAN để triển khai các biện pháp cụ thể
trên là việc các nhà lãnh đạo các nước thành viên ký “Hiệp định khung
ASEAN về hội nhập các ngành ưu tiên”. Có thể coi đây là một kế hoạch trung
hạn đầu tiên của AEC. ASEAN hy vọng hội nhập nhanh các ngành ưu tiên
này sẽ tạo các bước đột phá, tạo đà và tạo ra hiệu ứng lan toả sang các ngành
khác. Tại hiệp này các nước thành viên đã cam kết loại bỏ thuế quan sớm hơn
3 năm so với “chương trình thuế quan ưu đãi có Hiệu lực chung của AFTA
(CEPT/AFTA). Các ngành ưu tiên hội nhập gồm : 7 ngành sản xuất hàng hoá

nông sản, thuỷ sản, sản phẩm cao su, sản phẩm gỗ, dệt may, điện tử, ô tô, 2
ngành dịch vụ là hàng không và thương mại điện tử, và 2 ngành vẫa hàng hoá
vừa dịchvụ là y tế và công nghệ thông tin. Tháng 12 năm 2006 tại Hội nghị
Bộ trưởng kinh tế ASEAN, các bộ trưởng đã quyết định đưa thêm ngành hậu
cần vào danh mục ngành ưu tiên hội nhập. Như vậy tổng cộng có 12 ngành ưu
tiên hội nhập. Các ngành nói trên được lựa chọn trên cơ sở lợi thế so sánh về
tài nguyên thiên nhiên, kỹ năng lao động, mức độ cạnh tranh về chi phí và
mức đóng góp về giá trị gia tăng đối với nền kinh tế ASEAN .các nước
Brunei, Indonesia, Malaysia, philippiné, Singapore, Thái Lan sẽ hạ thuế quan
đối với các sản phẩm của 13 ngành ưu tiên xuống 0% vào năm 2007, trong đó
đối với các nước còn lại là năm 2012.
 Cơ hội triển vọng và thách thức của Cộng đồng ASEAN
Hiện thực hoá AEC là mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế quốc tế
8
trong tầm nhìn ASEAN 20020, nhằm tạo dựng khu vực kinh tế ASEAN ổn
định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hoá, dịch vụ,
đầu tư sẽ được chu chuyển tự do, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và
phát triển kinh tế xã hội giữa các nước được giảm bớt. Nằm trong xu thế hợp
tác toàn cầu, việc hình thành AEC là tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế sâu
rộng của ASEAN, đồng thời là sự phản ứng của ASEAN trước những biến
động của tình hình khu vực và thế giới sau các khó khăn của vòng đàm phán
Doha. Sự ra đời của AEC sẽ thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu hơn, nâng cao năng
lực cạnh tranh về kinh tế và vị thế trong thương lượng về đối thoại chính trị
với bên ngoài ( theo bản báo cáo sức cạnh tranh của ASEAN do Mc Kíney &
Company tiến hành năm 2003 ). Bên cạnh những cơ hội triển vọng mà AEC
tạo ra cho các nước còn những thách thức sau:
Một là, những đòi hỏi tất yếu trong quá trình hội nhập của ASEAN. Tiến
trình hội nhập hiện tại của ASEAN tuy có những chuyển biến tích cực song chưa
nhiều về mặt thực hiện, tình trạng cam kết nhiều thị trường vẫn bị chia cắt, ràng
buộc không cao nên các thành viên không tin tưởng vào các kết quả của quá

trình hội nhập thực tế của khu vực, bất ổn chính trị xã hội, chênh lệch phát triển
quá lớn giữa các thành viên và sức #ạnh tranh thấp đang làm giảm sút hình ảnh
của một ASEAN năng động trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài nhất là các nhà
đầu tư châu Âu.
Hai là, ASEAN đang dần mất vị trí vai trò nhất là về sự kinh tế trong
bối cảnh ASEAN +3 đang được thực hiện nhanh chóng, và sự phát triển kinh
tế mạnh mẽ của các nền kinh tế lớn là Ấn Độ.Trung Quốc là sức ép lơn đối
với ASEAN . Trên thực tế, khả năng thu hút nước ngoài vào khu vực ASEAN
đã bị Trung Quốc thách thức mạnh mẽ, Trung Quốc hiện là nơi tập trung
80% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực Đông Á, xu hướng này ngày
càng tăng khi Trung Quốc đã là thành viên của WTO năm 2001.
9
Ba là, sự tác động mạnh mẽ của các xu hướng thay đổi mới của bối
cảnh quốc tế và khu vực, ASEAN phải tăng cường liên kết trong nội bộ khối
để đối phó với tình hình đầu tư và thương mại trong nội bộ khối đang đổ dồn
vào hai nước là Ấn Độ và Trung Quốc, những địa chỉ đầu tư hấp dẫn khác.
Hơn nữa các nước một mặt tham gia các liên kết kinh tế, một mặt tham gia ký
kết các hiệp định thương mại tự do (TA) song phương trên nhiều cấp độ,
nhiều tuyến trong khu vực Đông Á đang có tác dụng không tốt đến ASEAN,
nhất là xuất hiện đồng thời của các Hiệp định tự do thương mại giữa ASEAN
với Trung Quốc và trong thời gian tới là các nước Nhật bản, Ấn Độ, Hàn
Quốc va Hoa kỳ. Điều này dẫn tới hiện tượng Đông Nam Á thống nhất về
kinh tế, trong đó cai trò các nước lớn như :Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,
Hàn Quốc là các nước lớn chi phối các hoạt động thương mại và đầu tư trong
khu vực có thể không tránh khỏi hình thành một thì trường chung Đông
Á.Điều đó đặt ra cho các nước ASEAN nguy cơ tiềm ẩn hoà tan trong dòng
chảy hội nhập.
Bốn là, xu hướng thành lập các Cộng đồng kinh tế của các khu vực trên
thế giới. Một EU đang dần lấy lại vị thế của một đối trọng với Hoa Kỳ, khối
thị trường chung Nam Mỹ đang chấn hưng và phát triển …Điều này đòi hỏi

các nước ASEAN phát triển dựa vào nội lực là chủ yếu, trong bối cảnh đó
AEC là một biện pháp để phát huy tính năng động của các nền kinh tế khu
vực thu hút đầu tư nước ngoài, hỗ trợ #ác nước thành viên trong khu vực. Hơn
nữa trong bối cảnh nền kinh tế cảu khu vực bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc
khủng hoảng kinh tế năm 1997-1998 đã chỉ ra cho các nước trong khu vực
thấy được rằng sự giàu có và thịnh vương của các quốc gia tuỳ thuộc vào sự
hợp tác chặt chẽ của các quốc gia với nhau, tạo thành một thể chế thống nhất
trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ.
Năm là, ASEAN không có trụ lực trung tâm hay còn gọi là “ đầu tầu
10
của khối” ASEAN không có quốc gia và đồng tiền mạnh giữ vai trò dẫn dắt
tiến trình hội nhập khu vực. Đây là một yếu tố không thuận lợi trong tiến trình
hội nhập của ASEAN so với các liên kết kinh tế khác như Cộng đồng kinh tế
châu Âu EU ( trước khi hoà hợp chính thức sử dụng đồng EUR) có Đức-
Đồng DEM và Pháp-đồng FR, hay khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ có Mỹ-
đồng USD.Ý tưởng cho ra đời đồng tiền chung khu vực sẽ giải quyết được
phần nào vấn đề trên, đây thực sự là một thách thức cho các nước ASEAN vì
các nước này đều mang tính dân tộc rất cao trong lựa chọn hình ảnh cầa khối
trên đồng tiền.
Sáu là, sau sự kiện 11-9 diễn ra tại Mỹ, phong trào khủng bố đã lan rộng
và các nước ASEAN nơi tập trung Cộng đồng người Hồi giáo lớn cũng nằm
trong điểm ngắm của các phần tử Hồi giáo cực đoan mượn tôn giáo để phục vụ
mục đích chính trị khác nhau. Điều này đòi hỏi các nước trong khu vực
ASEAN phải hợp tác xây dựng thành một cộng đồng vững chắc để giải quyết
các mâu thuẫn nội bộ diễn ra trong nội khối, trong đó vấn đề kinh tế là vấn đề
then chốt, đem lại lợi ích cho các thành viên cũng như cho cả khu vực. Sự ra
đời của AEC chắc chắn sẽ có tác động sâu rộng về nhiều mặt đối với ASEAN
và các nước thành viên trong đó có Việt Nam .
1.2.2 Cộng đồng an ninh (ASE)
Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (DAC II ) đưa ra tại Hội nghị cấp cao

ASEAN lần thứ 9 tại Bali (năm 2002) đã khẳng định: về an ninh chính trị
“phải đưa hợp tác anh ninh chính trị của ASEAN lên một tầm cao mới”, phải
khẳng định vị thế mới của ASEAN đối với an ninh khu vực bằng việc xây
dựng Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC).
 Mục tiêu của ASE
ASE sẽ đảm bảo các quốc gia trong khu vực sống hoà bình với nhau và
với toàn thê giới trong một môi trường hoà,dân chủ và công bằng. ASE sẽ
11
thúc đẩy an ninh chính trị ASEAN hướng tới Tầm nhìn ASEAN 2020, chứ
không phải là một hiệp ước quốc phòng, một liên minh quân sự hay một tổ
chức có chính sách đối ngoai j chung. ASE cũng là một Cộng đồng mở và
hướngửa bên ngoài, gắn kết với bạn bè và các nước Đối thoại của ASEAN ,
nhằm thúc đẩy hoà bình và ổn định trong khu vực.
 Lý do thành lập ASE
Sau nhiều bàn thảo ý tưởng đã được chấp nhận xuất phát từ những nhân tố
sau:
Thứ nhất, việc xây dựng một cộng đồng an ninh đã trở thành một nhu
cầu cấp bách đối với ASEAN. Bước vào thế kỷ 21, hợp tác kinh tế nổi dần lên
thành trọng tâm chiến lược. Tuy nhiên phát triển kinh tế và tăng cường liên
kết kinh tế lại cần một môi trường khu vực hòa bình và ổn định. Trong khi đó,
ASEAN đang phải đối mặt với nhiều vấn đề an ninh chính trị. Sau cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, nội bộ nhiều nước bất ổn, xu hướng
li khai gia tăng.
Sau sự kiện 11/9, đặc biệt là sau cuộc chiến tranh của Mỹ chống Iraq, nguy cơ
khủng bố lan rộng, xu hướng các nước lớn can dự vào công việc nội bộ của
các nước vừa và nhỏ, trong đó có các nước ASEAN, gia tăng. Nội bộ ASEAN
có dấu hiệu phân hóa trên nhiều vấn đề. Trong hợp tác kinh tế, xu hướng song
phương cũng lấn át xu hướng đa phương.
Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của Trung Quốc vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra
thách thức đối với ASEAN. Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các vấn đề

an ninh chính trị của Đông Nam Á ngày càng lớn, tạo ra mối lo ngại về sự lu
mờ vai trò của ASEAN với tư cách là một tổ chức khu vực. Ngoài ra, sức ép
của các nước Đông Bắc Á đẩy mạnh hợp tác Đông Á, trong đó ASEAN sẽ
tham gia với tư cách là các quốc gia riêng lẻ đã làm nhiều nước ASEAN lo
ngại. Trong bối cảnh như vậy, để đối phó với các thách thức và trở ngại về an
12
ninh chính trị mới, ASEAN có nhu cầu cấp bách phải củng cố đoàn kết, thúc
đẩy hợp tác nội khối, tạo thế vững mạnh trước khi bước vào khuôn khổ hợp
tác rộng lớn hơn. ASEAN có nhu cầu phải có một cơ chế hợp tác mới, chặt
chẽ hơn, mạnh mẽ hơn. Đồng thời ASEAN cũng cần tăng cường trách nhiệm
tập thể đối với hợp tác của Hiệp hội. ASEAN cần gắn kết nhau trong một
cộng đồng, nhằm khẳng định lại vị thế trong các vấn đề khu vực cũng như
trên trường quốc tế.
Thứ hai, trong quá trình tồn tại và phát triển, nhận thức về một cộng
đồng an ninh đã ngày càng tăng giữa các nước thành viên ASEAN. Ngay
trong Tuyên bố thành lập ASEAN năm 1967, các nước thành viên đã nói đến
“cộng đồng thịnh vượng và hòa bình giữa các quốc gia Đông Nam Á”. Suốt
gần bốn thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEAN luôn chứng tỏ rằng một cộng
đồng an ninh đã tồn tại, bằng thực tế là các quốc gia Đông Nam Á bất chấp sự
khác biệt về chế độ chính trị, văn hóa – xã hội, trình độ phát triển, để chung
sống hòa bình với nhau. Các bất đồng được giải quyết, các nguy cơ xảy ra
xung đột được loại bỏ, bằng “Phương cách ASEAN”. Còn Tầm nhìn ASEAN
2020 xác nhận “ASEAN đã xây dựng một cộng đồng các quốc gia sống hoà
bình với nhau và vớ) thế giới”
Thứ ba, tìm kiếm an ninh toàn diện và bền vững đã trở thành mục tiêu
phấn đấu của ASEAN. Trước sáng kiến ASC của Inđônêxia, Singapore đã
đưa ra ý tưởng lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN và các nước ASEAN ủng hộ
việc thành lập một Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột: Cộng đồng An
ninh, Cộng đồng Kinh tế, và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội. Một Cộng đồng
như vậy vừa tránh được sự nhạy cảm cho rằng ASEAN chỉ là một tổ chức

thiên về chính trị an ninh, vừa phù hợp với khái niệm an ninh toàn diện và bền
vững mà ASEAN đang hướng tới. Đồng thời, ASEAN hiểu rõ “hòa bình, ổn
định và thịnh vượng”, những mục tiêu và lí do cơ bản để ASEAN tồn tại,
13
không thể đạt được chỉ nhờ có liên kết kinh tế.
 Triển vọng của ASC
Nói đến triển vọng ASC, cần phải xem xét hai khía cạnh: một là những
khó khăn, thách thức mà ASEAN sẽ gặp phải trong quá trình xây dựng ASC
cũng như khả năng đối phó của ASEAN; và hai là bản chất thực sự của ASC
mà ASEAN sẽ hướng tới.
Để ASC thực sự hiệu quả, không mang tính hình thức, ASEAN cần phải
giải qu9ết nhiều vấn đề và đây sẽ là những vấn đề gây nhiều tác động đến
ASEAN:
1. Các văn bản đã ký kết của ASEAN phần nhiều mang tính chính trị,
vạch phương hướng hành động hay mục tiêu hướng tới nhiều hơn là ràng
buộc pháp lý. Ngay cả các Hiệp định, Hiệp ước chủ yếu cũng chỉ nêu nguyên
tắc, không có cơ chế ràng buộc hoặc xử lí nếu không tuân thủ. Việc xây dựng
Hiến chương ASEAN cũng đang gây tranh cãi trong từng đề mục, và khi đã
được thông qua, theo dự thảo, văn kiện này vẫn có điều khoản nêu rõ các
nước thành viên tự nguyện tham gia và có thể bảo lưu. Điều đó dẫn đến tính
cam kết yếu của ASEAN. Đây chính là thách thức lớn khiến cho hiệu quả hội
nhập của ASEAN thấp và gây nghi ngờ khả năng ASEAN có thể đạt tới một
trình độ liên kết cao hơn.
2. Tuyên bố Băng Cốc, ZOPFAN, SEANWFZ, TAC, DAC I và DAC II
là các công cụ của ASC, nhưng chưa đủ mà cần có những qui chuẩn có tính
chất ràng buộc các nước thành viên trong các vấn đề an ninh và chính trị,
nhưng điều đó không đơn giản đối với ASEAN. ASEAN cần đạt được sự
thố.g nhất cao về các nguyên tắc cơ bản trước khi đi vào khung pháp lý. Song
cùng với quá trình liên kết ngày càng đi vào chiều sâu và việc ASEAN đang
chuyển từ cơ chế “quản lí xung đột” sang “giải quyết xung đột” thì vấn đề

điều chỉnh các nguyên tắc, đặc biệt là nguyên tắc đồng thuận và không can
14
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, còn tiếp tục gây tranh cãi. Nhưng nếu
không xây dựng được khung pháp lý, ASC sẽ chỉ là hình thức thể hiện thiện
chí hoà bình của các nước thành viên.
3. Việc đề cao quá mức “chủ quyền quốc gia” ngăn trở ASEAN có được
những biện pháp hữu hiệu giải quyết xung đột và kiến tạo hòa bình sau xung
đột. Do đó, trong Chương trình hành động ASC, ASEAN chỉ đạt được thỏa
thuận về phương hướng giải quyết xung đột là tăng cường “tham vấn”, “đưa
ra lời khuyên”, “hòa giải”, “dàn xếp”,… Tuy nhiên, không đơn giản để các
nước ASEAN thoát được các sức ép trong nước, thực hiện giảm vai trò của
chủ quyền quốc gia và quyền lực của các Nhà nước đối với các vấn đề an ninh
của khu vực cũng như những vấn đề !n ninh chính trị của từng nước. Mặt
khác, những trải nghiệm trong lịch sử cũng tạo ra thói quen đề cao chủ quyền
quốc gia như một rào cản ngăn mọi sự can thiệp từ bên ngoài vào các vấn đề
nội bộ.
4. Cơ cấu tổ chức của ASEAN về cơ bản vẫn là bộ máy phi tập trung,
không đủ mạnh để điều hành và giám sát. Cơ chế để thúc đẩy ASC, theo như
Chương trình hành động, cũng rất lỏng lẻo, vẫn chỉ là cơ chế các cuộc họp
ngoại trưởng, Ban thư ký ASEAN, và sẽ bổ sung thêm các cuộc họp bộ
trưởng quốc phòng.
5. Dự thảo cuối cùng về Chương trình hành động ASC không phải đạt
được sự nhất trí hoàn toàn. Philipin, nước hoan nghênh Dự thảo ban đầu (cho
rằng văn bản có tầm nhìn xa và táo bạo), đã phê phán Dự thảo cuối cùng có
“nội dung thấp, không phải là một văn kiện lí tưởng của ASEAN, chưa thể
hiện được tầm nhìn của ASEAN trong 15 năm tới”. Malaixia cũng cho rằng
“văn bản cuối cùng không phản ánh được ý thức cộng đồng mà chúng ta
hướng tới trong tương lai”… Trong khi các nước thành viên mới lại cho rằng
đây là văn kiện tốt để c(úng ta thực hiện được ước mơ của mình. Điều đó cho
15

thấy, các nước ASEAN khác nhau về trình độ phát triển và nhận thức về ASC
cũng khác nhau. Đây sẽ là trở ngại đáng kể cho việc triển khai các bước đi cụ
thể tiếp theo trong Chương trình hành động.
6. Chương trình hành động ASC không có được lịch trình cụ thể đối với
từng bước đi do một số nước ASEAN lo ngại việc đặt mốc thời gian thực hiện
sẽ gây sức ép và tạo hình ảnh xấu về Hiệp hội nếu không đáp ứng được lộ
t2ình. Điều đó cũng tạo cảm giác ASC khó đạt được định mốc thời hạn vào
năm 2020. Mặt khác, Chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN có nhiệm kỳ luân
phiên giữa các nước thành viên trong khi thái độ của các nước đối với
Chương trình hành động khác nhau, điều này sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tiến
triển của ASC trong các nhiệm kỳ của các Chủ Tịch.
7. Trong Chương trình hành động ASC không đề ra bất kỳ biện pháp nào
ngăn chặn tình trạng chạy đua vũ trang và mua sắm vũ khí đang diễn ra rất sôi
động ở nhiều nước ASEAN hiện nay. Hơn nữa ASC cũng không hạn chế việc
các nưẛc thành viên tiếp tục duy trì các liên minh quân sự, thậm chí tăng
cường các sắp đặt phòng thủ với các cường quốc bên ngoài. Như vậy ASC
khó loại bỏ được sự nghi kỵ lẫn nhau và khi các biện pháp xây dựng lòng tin
chưa thực sự được đề cao thì chắc chắn việc xây dựng ASC có nhiều khó
khăn.
8. Xây dựng ASC, ASEAN cần phải, không chỉ giải quyết những vấn đề
liên quan đến xung đột, không sử dụng vũ lực, mà phải cả những vấn đề an
ninh nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền, chủ quyền quốc gia Trình độ phát
triển khác nhau giữa các nước ASEAN dẫn đến nhận thức khác nhau về các
vấn đề dân chủ và nhân quyền. Vì lẽ đó, kiến nghị của Inđônêxia trong dự
thảo ban đầu Chương trình hành động ASC về việc xây dựng Hiến chương
ASEAN về nhân quyền đã bị nhiều nước ASEAN bác bỏ gay gắt. Tuy nhiên,
một trong những mục tiêu của ASC là thúc đẩy “một môi trường công bằng,
dân chủ và hòa hợp” thì ASEAN không thể lảng tránh vấn đề này, cần phải
16
xây dựng một nhận thức chung về dân chủ và nhân quyền.

Với những hạn chế như vậy, quá trình xây dựng ASC có thể xảy ra 3 kịch
bản.
Kịch bản thứ nhất: ASC bị phá sản. Kịch bản này được đưa ra với 2 giả
định. Một là, ASC là nhằm tạo ra môi trường hòa bình chung, nhưng khi mặt
“đối trọng” nặng hơn mặt “cân bằng” trong quan hệ với các nước lớn, thì sự
hợp tác của các nước lớn sẽ suy giảm. Hoặc trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của
Trung Quốc, ASEAN thay vì tăng cường sự can dự của Trung Quốc lại thiên
về hướng phối hợp với các nước lớn khác kiềm chế Trung Quốc. trong bối
cảnh đó, sự nghi kỵ của Trung Quốc về một liên kết an ninh chính trị đối
trọng với Trung Quốc sẽ tăng khả năng Trung quốc tăng cường hợp tác an
ninh song phương, giảm hợp tác kinh tế đa phương, đẩy nhanh hơn hợp tác
Đông Á làm suy yếu quá trình xây dựng ASC.
Hai là, do tính toán lợi ích, hợp tác giữa các nước Đông Bắc Á sẽ được
đẩy mạnh và các nước này cùng với một số nước ngoài khu vực đẩy hợp tác
Đông Á đi nhanh, đặc biệt sau khi Cấp cao Đông Á đầu tiên diễn ra tốt đẹp,
tiến đến Cộng đồng Đông Á, trong đó Cộng đồng An ninh Đông Á (AESC)
có 4hể là một trụ cột giống như Cộng đồng An ninh ASEAN với ba trụ cột,
khi đó ASC sẽ bị pha loãng và hoà tan vào AESC.
Kịch bản thứ hai: ASEAN sẽ hình thành nhưng không đảm bảo được
đúng thời
hạn do có những diễn tiến có thể xảy ra trong quá trình xây dựng ASC.
Một là, ASC là nhằm thúc đẩy hợp tác an ninh, quốc phòng giữa các nước
thành viên ASEAN đi vào chiều sâu. Tuy nhiên hợp tác an ninh, quốc phòng
song phương giữa các nước ASEAN với nhau cũng như với bên ngoài cũng
sẽ tận dụng cơ hội để tăng cường, và có khả năng nhanh và mạnh hơn đa
phương.
17
Hai là, ASEAN không gạt được vai trò của các nước lớn trong các vấn đề
an ninh chính trị của khu vực, và do vậy ASEAN cần tính đến sự dính líu của
các nước lớn ở đây. Phản ứng ban đầu của các nước lớn đối với ASC là thuận

lợi nhưng chiều hướng tiếp theo sẽ phụ thuộc vào tính liên kết thực sự của
ASC. Mặc dù tính “liên minh” là xa vời nhưng một khi ASC đi vào hiện thực,
vai trò của ASC đối với các vấn đề an ninh chính trị của khu vực sẽ tăng lên.
Khi đó, để duy trì vai trò và ảnh hưởng của mình đối với các vấn đề an ninh
chính trị của khu vực, các nước lớn sẽ cạnh tranh với nhau và can dự vào tính
liên kết của Hiệp hội. Sự liên kết cao về kinh tế làm tăng sự cạnh tranh, nhưng
sự liên kết về an ninh chính trị sẽ làm tăng sự can dự. Hệ lụy của vấn đề này
là phân hóa ASEAN và tăng khả năng “thỏa thuận đi đêm” về an ninh chính
trị của các nước thành viên ASEAN với các nước lớn.Trong bối cảnh như
vậy, nếu quá trình xây dựng lòng tin không được tăng cường, hợp t¡c chính trị
an ninh ASEAN sẽ bị thách thức.
Ba là, Đông Timo, quốc gia độc lập mới ra đời ở Đông Nam Á, đang chờ
đợi để gia nhập ASEAN. Để được gia nhập Hiệp hội, Đông Timo sẽ chấp
nhận các Văn kiện và Tuyên bố đã có của ASEAN, nhưng là một nước non
trẻ, lực lượng quân sự còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, Đông Timo có thể
bảo lưu một số điểm trong Chương trình hành động ASC như đăng kiểm vũ
khí, xuất bản Sách trắng về quốc phòng… Điều này có thể ảnh hưởng tiến độ
thực hiện ASC.
.Kịch bản thứ ba: ASC sẽ từ từ hình thành và sẽ hình thành đúng thời hạn.
Đây là kịch bản được coi là hiện thực nhất dựa trên 4 lập luận.
Thứ nhất, ASEAN đã có sẵn những cơ sở vững chắc cho một ASC. Trong
nhiều năm tháng, ASEAN đã xây dựng một nền tảng vững chắc cho liên kết
về chính trị an ninh. Đấy là các nguyên tắc làm cơ sở cho quan hệ trong nội
bộ các nước thành viên với nhau và giữa các nước này với các nước ngoài
18
khu vực. Các nguyên tắc này tạo ra những giải pháp hữu hiệu hòa giải nhanh
chóng các mối bất hoà, ngăn ngừa các x5ng đột, xây dựng môi trường hoà
bình, hữu nghị, giúp các nước thành viên bảo đảm được tính “thống nhất
trong đa dạng”. Trong lịch sử ASEAN, đã không xảy ra xung đột hay chiến
tranh giữa các nước thành viên ASEAN, và cũng ít khả năng các nước thành

viên sẽ sử dụng vũ lực chống lại nhau trong tương lai.
Thứ hai, trên thực tế, Chương trình hành động ASC đã có những bước
triển khai cơ bản. Về hợp tác chính trị, việc lập cơ chế nhân quyền ở khu vực
là vấn đề gây tranh cãi gay gắt nhất, nhưng các nước ASEAN đã đạt được
thỏa hiệp sẽ lập mạng lưới liên kết các cơ chế nhân quyền giữa các nước có
cơ chế nhân quyền quốc gia. Sự tham gia của quần chúng vào công việc chính
trị đang được tăng cường. Vai trò của diễn đàn Hội đồng nhân dân ASEAN
được nâng cao nhằm thúc đẩy giao lưu nhân dân. . Về xây dựng và chia sẻ các
chuẩn mực ứng xử, ASEAN đã nhất trí thành lập Nhóm các nhân vật nổi tiếng
để đóng góp ý kiến cho việc xây dựng Hiến chương ASEAN. Xây dựng được
một Hiến chương ASEAN, thay cho Tuyên bố ASEAN năm 1967, sẽ nâ.g đẋa
vị pháp lí của ASEAN từ một Hiệp hội lên một Tổ chức hoạt động theo luật,
làm thay đổi bản chất của ASEAN. Đối với các nước ngoài khu vực, ASEAN
đang thúc đẩ9 việc tham gia TAC. 7 nước đã tham gia (Papua Niu Ghinê,
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Hàn Quốc, Pakixtan, Hàn Quốc và Nga), Úc và
Niu Dilân sẽ tham gia trong năm nay. Về ngăn ngừa và giải quyết xung đột,
ASEAN không nhất trí xây dựng lực lượng gìn giữ hòa bình chung vì quá
nhạy cảm, nhưng đang lập cơ chế họp Bộ trưởng quốc phòng thường niên.
Thứ ba, các nước lớn đều ủng hộ việc xây dựng ASC, vì thấy rõ lợi ích cơ
bản của một môi trường hòa bình và ổn định, trong đó ASC không phải là một
liên minh quân sự chống lại bất cứ bên nào. Ba nước lớn (Trung Quốc, Ấn Độ
và Nga) đã tham gia TAC là một bảo đảm quan trọng cho việc xây dựng một
19
cộng đồng vì hòa bình và ổn định ở khu vực. Các nước lớn có thể tin rằng
ASC sẽ giúp họ giảm sự hiện diện về quân sự nhưng tăng ảnh hưởng về an
ninh chính trị không chỉ ở khu vực Đông Nam Á mà còn ở khu vực Đông Á
và Á – Thá) Bì.h Dương rộng lớn hơn. Việc các nước lớn tích cực tham gia
TAC, một phần đã thể hiện sự ủng hộ đối với ASC, nhưng phần khác cũng là
để tìm kiếm vị trí của mình trong hợp tác Đông Á đầy triển vọng, đặc biệt là
tìm kiếm khả năng tham gia Cấp cao Đông Á vào cuối năm 2005.

Thứ tư, ASEAN không đặt một viễn cảnh quá cao cho ASC. ASC sẽ chỉ
là một cộng đồng an ninh tự nguyện có mức độ liên kết an ninh chính trị cao
hơn hiện trạng, khẳng định lại các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, nhấn mạnh
nguyên tắc bao trùm là không dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp.
Mức độ liên kết chính trị an ninh cao hơn hiện trạng được thể hiện trong
DAC II và trong Chương trình hành động, với các định hướng: xây dựng thêm
những chuẩn mực mới trong quan hệ, mở rộng phạm vi sang hợp tác quốc
phòng, hợp tác an ninh biển, an ninh con người…Như vậy, đánh giá về triển
vọng của ASC cần có nhận thức mới về khái niệm “cộng đồng an ninh”. Khía
cạnh “an ninh” rõ nét hơn khía cạnh “cộng đồng”. Hợp tác an ninh sẽ được nâng
cao trên cơ sở tiệm tiến, có các bước đi phù hợp với các bên. An ninh không xây
dựng trên cơ sở “hòa nhập”, gác bỏ chủ quyền quốc gia, mà trên cơ sở các quốc
gia có chủ quyền “gắn kết” với nhau, từng bước tiến tới qui chuẩn chung, lợi ích
chung và bản sắc chung về an ninh chính trị
Với nhận thức như vậy, có thể thấy ASC đang từng bước hình thành và
khi hình thành ASC sẽ không gây biến chuyển gì lớn về cục diện an ninh
chính trị ở khu vực Đông Nam Á.
1.2.3. cộng đồng văn hoá-chính trị ASEAN
ASEAN luôn nhấn mạnh mục tiêu xây dựng cộng đồng văn hoá-xã hội
ASEAN nhằm cải thiện nâng cao đời sống các nhóm dân cư, chăm lo sức
20
khoẻ xã hội, phòng chống các loại bệnh lây nhiễm; gìn giữ và phát triển các di
sản, bản sắc văn hoá của khu vực. Về mặt văn hoá, các dự án chú trọng việc
thúc đẩy bản sắc ASEAN trên cơ sở phát triển nhận thức và bản sắc khu vực
ASEAN; bảo tồn và thúc đẩy di sản văn hoá ASEAN; thúc đẩy đối thoại
nhằm nâng cao hiểu biết về văn minh, văn hoá và tôn giáo ASEAN; mở rộng
vị thế của ASEAN trên trường quốc tế.
Thời gian qu!, hợp tác chuyên ngành của ASEAN được tập trung và
ngày càng mở rộng qua các chương trình, dự án hợp tác về phát triển xã hội,
văn hoá, thông tin, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, phúc lợi xã hội, gia

đình và dân số, chăm sóc cộng đồng đối với người già, bảo vệ sức khoẻ và an
toàn lao động; trợ giúp thanh niên có việc làm ổn định và đối phó với những
thách thức của toàn cầu hoá. Các nước ASEAN liên tục thực hiện chương
trình trao đổi, giao lưu với các đoàn thanh niên nhằm tuyên truyền phòng
chống các loại dịch bệnh truyền nhiễm: ma tuý, HIV/AISD, tội phạm xuyên
quốc gia, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, bảo vệ môi trường bền vững, đối
phó với ô nhiễm khói mù xuyên biên giới.
Trong lĩnh vực văn hoá, có thể thấy một mục tiêu quan trọng mà các
nước ASEAN rất quan tâm là vấn đề “bảo tồn và thúc đẩy di sản văn hoá
ASEAN”.
2. Một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
2.1. Vị trí của Việt Nam trong ASEAN
Trong 12 năm qua, Việt Nam tham gia tích cực và có nhiều đóng góp
quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tá# của ASEAN. Việt Nam luôn đóng
vai trò chủ chốt trong việc xác định các quyết sách lớn và phương hướng hợp
tác của ASEAN cũng như tăng cường đoàn kết, hợp tác và nâng cao vị thế
quốc tế của Hiệp hội. Một trong những đóng góp cụ thể nổi bật nhất của Việt
Nam là đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN VI vào tháng
21
12/1998 với kết quả quan trọng là hoàn tất quá trình hình thành ASEAN-10
và thông qua Chương trình Hành động Hà nội (HPA) để thực hiện Tầm nhìn
ASEAN 2020, giúp ASEAN vượt qua thời điểm khó khăn nhất do tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính khu vực năm 1997.
Về chính trị-an ninh,Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức đã
làm cho hợp tác ASEAN về chính trị- an ninh có những chuyển biến quan
trọng. Trước hết, Việt Nam, một nước có chế độ chính trị - xã hội khác hẳn
các nước ASEAN khác, đã mang đến cho hợp tác chính trị - an ninh của
ASEAN một sắc thái mới. Việt Nam đã tham gia đầy đủ vào các cơ chế hợp
tác chính trị - an ninh của ASEAN. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị
Cấp cao 6 (1998) và đảm nhiệm tốt chức năng Chủ tịch ASC và ARF cũng

như nhiều cơ chế hợp tác chính trị - an ninh khác trong ASEAN. Từ giữa .ăm
1997, ASEAN trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính nghiêm trọng, đe
doạ sự tồn tại và tương lai phát triển của Hiệp hội. Hội nghị Cấp cao Hà Nội
với việc thông qua Chương trình Hành động Hà Nội là một mốc rất quan
trọng góp phần củng cố đoàn kết, hợp tác và xác định hướng đi lên của Hiệp
hội.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính 1997, do những khó khăn về
kinh tế, trong nội bộ một số nước ASEAN đã nảy sinh những bất ổn về chính
trị. Nếu tình hình trên kéo dài, sẽ phát sinh thêm nhiều vấn đề trong nội bộ
ASEAN, gây khó khăn thêm cho quan hệ giữa các nước thành viên và giữa
ASEAN với bên ngoài, ảnh hưởng xấu đến đoàn kết hợp tác và vị trí quốc tế
của Hiệp hội. Chính trong bối cảnh đó, sự ổn định chính trị - xã hội, quốc
phòng, an ninh quốc gia được giữ vững của Việt Nam và một số nước
ASEAN khác, đã góp phần tạo ra một hình ảnh không quá bi quan về
ASEAN, qua đó uy tín và vai trò của Việt Nam trong Hiệp hội càng tăng cao.
Trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, Việt Nam đã tích cực
22
cùng các nưẛc ASEAN khác tiếp tục hoàn thiện Chương trình hành động
thành lập Cộng đồng An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa – xã hội
ASEAN. Việt Nam đã đăng cai Hội nghị SOM bàn về 2 vấn đề này vào đầu
năm 2005.
Trong qua trình xây dựng ASC, Việt Nam đã có những đóng góp cụ thể.
Chương trình hành động ASC đã chấp nhận quan điểm an ninh toàn diện do
Việt Nam đề xuất với việc khẳng định sự ổn định chính trị - xã hội, tăng
trưởng kinh tế cùng với việc thu hẹp khoảng cách phát triển, xoá đói giảm
nghèo là nền tảng và cơ sở bảo đảm sự phát triển bền vững của ASC. Việt
Nam cũng đã cùng với các nước ASEAN khác vận động, đưa vào nội dung
Chương trình hành động việc ngăn chặn sự can thiệp quân sự từ bên ngoài
vào dưới bất kỳ hình thức nào, đặc biệt không cho phép dùng lãnh thổ của
một nước vào mục đích chống phá các nước thành viên khác.

Hiệp ước Hợp tác và Thân thiện (TAC, còn gọi là Hiệp ước Ba-li), chứa
đựng những nguyên tắc cơ bản, làm cơ sở để ASEAN đẩy mạnh sự hợp tác,
thân thiện và hữu nghị trong ASEAN. ASEAN muốn thúc đẩy TAC trở thành
''Bộ luật ứng xử'' không phải chỉ giữa các nước Đông Nam Á với nhau mà cho
cả quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với các nước ngoài khu vực, coi đó
như một công cụ ngoại giao cho việc xây dựng lòng tin và thực hiện ngoại
giao phòng ngừa. Do vậy, các nước ASEAN đã soạn thảo Nghị định thư thứ
hai cho phép các nước ngoài ASEAN tham gia TAC. Thực hiện mục tiêu này,
Việt Nam đã và đang cùng với các nước ASEAN tích cực vận động các nước
ngoài khu vực tham gia, nhất là các bên Đối thoại của ASEAN.
Việt Nam đã cùng các nước ASEAN soạn thảo Quy chế hoạt động của
Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC. Nội dung chính của Quy chế là Hội
đồng chỉ tiếp nhận giải quyết những tranh chấp có thể ảnh hưởng đến hoà
bình và ổn định khu vực, được các bên liên quan trực tiếp đồng ý, và chỉ đóng
23
vai trò trung gian hoà giải (không có biện pháp cưỡng chế). Mọi quyết định
dựa trên .guyên tắc nhất trí. Trong hoạt động của Hội đồng tối cao, Việt Nam
luôn chú ý tới việc duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN, tránh biến Hội đồng
thà.h một ''Toà án tiểu khu vực” với vai trò của một vài nước khống chế các
quyết định của Hội đồng.
Việt Nam đã tham gia ký kết và phê chuẩn ngay từ ngày đầu Hiệp ước
Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), nhằm xây dựng Đông
Nam Á thành khu vực hoàn toàn không có vũ khí hạt nhân. Vấn đề lớn đặt ra
là cần tranh thủ 5 cường quốc có vũ khí hạt nhân tham gia Nghị định thư kèm
theo của Hiệp ước. Khi đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASC và ARF, Việt Nam
đã chủ động nêu sáng kiến và tổ chức thành công cuộc họp tham khảo ý kiến
giữa các nước ASEAN với 5 nước có vũ khí hạt nhân về một số nội dung
tr/ng Nghị định thư, và vận động các nước này sớm tham gia Nghị định thư
của SEANWFZ.
Việt Nam là một trong những nước sáng lập ra Diễn đàn khu vực ARF.

Trải qua 11 năm hoạt động, ARF ngày càng chứng tỏ là Diễn đàn đối thoại và
hợp tác bổ ích cho các nước Châu Á - Thái Bình Dương 6ề các vấn đề chính
trị - an ninh khu vực. ASEAN đang bị sức ép lớn về việc chuyển sang giai
đoạn sau (ngoại giao phòng ngừa) và vai trò ''đầu tàu'' đang bị thách thức.
Việt Nam đã cùng các nước ASEAN khác đấu tranh giữ vững được các
nguyên tắc then chốt và ASEAN phải đóng vai trò chủ động điều chỉnh để
ARF là một quá trình tiệm tiến với những bước đi phù hợp với tất cả các bên
trên cơ sở đồng thuận, tự nguyện; và việc xây dựng lòng tin là trọng tâm
xuyên suốt của toàn bộ tiến trình ARF.
Việt Nam đã tích cực đấu tranh góp phần duy trì những nguyên tắc cơ
bản của Hiệp hội nhất là nguyên tắc ''đồng thuận'' và ''không can thiệp vào
công việc nội của nước khác''. Trong bối cảnh ASEAN bị phân hoá, Việt Nam
24
đã kiên trì cùng các nước ASEAN khác đấu tranh để bảo đảm nguyên tắc
''không can thiệp vào công việc nội bộ'' khi sử dụng ASEAN Troika trong giải
quyết xung đột. Theo đó, ASEAN Troikka chỉ còn là một cơ chế không
thường xuyên, được lập khi cần thiết trên cơ sở có sự nhất trí của tất cả 10
Ngoại trưởng ASEAN, hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận và không can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước, không có thẩm quyền quyết định
chính sách mà chỉ là tư vấ. cho các Ngoại trưởng của ASEAN.
Việt Nam đã tích cực thúc đẩy một ASEAN liên kết chặt chẽ, đồng thời
hướng ra bên ngoài. Hợp tác của ASEAN với các khu vực khác đã được tăng
cường. Sự thành công của Hội nghị cấp cao ASEM 5 với những cam kết nâng
cao hợp tác giữa hai khu vực và những ưu tiên giúp đỡ mà các nước EU giành
cho các nước ASEAN đã đưa lại những lợi ích thiết thực cho từng thành viên
ASEAN. Ở Đông Á tồn tại nhiều chế độ chính trị khác nhau, một số nước
chịu nhiều tác động chi phối của Mỹ trong khi Trung Quốc là cường quốc
đang trỗi dậy với nhiều tham vọng chính trị ở khu vực, do đó rất khó có một
tiếng nói chung đối với các vấn đề chính trị - an ninh quan trọng của khu vực.
Khi tham gia hợp tác Đông Á, Việt Nam là một trong những nước có lập

trường, quan điểm mềm dẻo, phù hợp giữa các bên, cách xử lí khéo léo linh
hoạt, do đó tiếng nói có trọng lượng tron' các vấn đề liên quan đến hợp tác
chính trị - an ninh giữa ASEAN với các nước này.
Về kinh tế, Việt Nam đã tham gia tích cực và thực hiện đầy đủ các cam
kết về liên kết kinh tế khu vực trên nhiều lĩnh vực, kể cả trong ASEAN và
giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, góp phần làm cho ASEAN dần trở
thành một thực thể kinh tế thống nhất, ngày càng trở nên hấp dẫn hơn đối với
đầu tư và kinh doanh nước ngoài. Đặc biệt, Việt Nam đã tích cực thúc đấy
hợp tác ASEAN về thu hẹp khoảng cách phát triển, thông qua thực hiện Sáng
kiến Liên kết ASEAN (IAI), Chương trình hợp tác Mê Công và Hành lang
Đông-Tây.
25

×