Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.71 KB, 21 trang )








HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
THƯƠNG
MẠI CỦA
VIỆT NAM
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 1
-
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆT NAM

1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.1 Định nghĩa :
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12-12-2007, định
nghĩa :
► Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Luật này còn định nghĩa: Tổ
chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các
quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán.


►Hoạt động ngân hàng (Luật Ngân hàng Nhà nước:) Là hoạt động kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này
để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán.
Một số nét cơ bản để phân biệt giữa NHTM và Tổ chức tín dụng phi ngân hàng:
Ngân hàng thương mại Tổ chức tín dụng phi Ngân hàng
* Là tổ chức tín dụng
* Được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân
hàng.
* Là tổ chức nhận tiền gởi (Depository)

* Cung cấp dịch vụ thanh toán
* Là tổ chức tín dụng
* Được thực hiện một số hoạt động Ngân
hàng.
* Là tổ chức không nhận tiền gởi
(Nondepository)
* Không cung cấp dịch vụ thanh toán
1.2 Chức Năng của Ngân hàng thương mại : NHTM có các chức năng chủ yếu như
sau:
1.2.1 Chức năng trung gian tài chính:
Thực hiện chức năng này, Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian khi thực
hiện các nghiệp vụ bao gồm nghiệp vụ cấp tín dụng, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh
doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động môi giới khác. Từ “Trung
gian” ở đây có thể hiểu theo hai ý nghĩa :
– Trung gian giữa các khách hàng với nhau:
Ví dụ: Ngân hàng thương mại làm trung gian giữa người gởi tiền và người vay tiền,
hay trung gian giữa người trả tiền và người nhận tiền, hoặc trung gian giữa người mua và
người bán ngoại tệ,
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17



- 2
-
– Trung gian giữa Ngân hàng Trung ương và công chúng. Ngân hàng Trung ương
hay như ở Việt Nam thường gọi là Ngân hàng Nhà nước không có giao dịch trực tiếp với
công chúng mà chỉ giao dịch với các Ngân hàng thương mại, trong khi các Ngân hàng
thương mại vừa giao dịch với Ngân hàng Trung ương vừa giao dịch với công chúng.
1.2.2 Chức năng “tạo tiền”:
Là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ phục vụ cho nhu cầu
chu chuyển và phát triển nền kinh tế. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary
Fund) gọi tắt là IMF, khối tiền tệ của một quốc gia bao gồm: Tiền giấy, tiền kim loại, và
tiền gởi không kỳ hạn ở Ngân hàng. Còn tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi định kỳ không được
xem là bộ phận của khối tiền tệ mà chỉ được xem là “Chuẩn tiền”, vì tính chất kém thanh
toán của bộ phận này. Nhưng từ thập niên 1980 trở đi nhiều nhà kinh tế học bắt đầu xem
“Chuẩn tiền” là một thành phần của khối tiền tệ. Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới
(World Bank) gần như chấp nhận quan điểm này nhưng còn ngần ngại nên phân biệt thành
nhiều dạng khối tiền tệ như M
1
, M
2
, M
3
và L, trong đó:
+ M
1
= Tiền mặt phát hành bao gồm tiền giấy và tiền kim loại cộng với tiền gởi
không kỳ hạn.
+ M
2

= M
1
+ tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi định kỳ tại Ngân hàng.
+ M
3
= M
2
+ tất cả các loại tiền gởi ở các định chế tài chính khác.
+ L = M
3
+ các loại trái phiếu, thương phiếu và công cụ khác của thị trường tiền tệ.
Ví dụ: Ngân hàng Trung ương đưa ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, Ngân hàng thương
mại (NHTM) A nhận được 100 triệu đồng từ một khách hàng.
Bảng cân đối kế toán của NHTM A:
Tài sản Nguồn vốn
-Thiết lập dự trữ: 10
- Tín dụng: 90
-Tiền gởi của khách hàng: 100
NHTM A cho NHTM B vay hết 90 triệu đồng
Bảng cân đối kế toán của NHTM B:
Tài sản Nguồn vốn
- Thiết lập dự trữ: 9
- Tín dụng: 81
- Tiền gởi của khách hàng: 90
NHTM B cho NHTM C vay hết 81 triệu đồng
Bảng cân đối kế toán của NHTM C:
Tài sản Nguồn vốn
- Thiết lập dự trữ: 8,1
- Tín dụng: 72,9
- Tiền gởi của khách hàng: 81

GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 3
-
Quá trình cứ tiếp tục cho đến khi nào số gia tăng tiền gởi và cho vay triệt tiêu (Vì phải
dự trữ ở Ngân hàng Nhà nước). Ta thấy rằng số gia tăng tiền gởi của các Ngân hàng có
dạng cấp số nhân:
U
1
100
Tổng số bút tệ được tạo ra = S
n
= = = 1.000
1-q 1- (1-0,1)
U
1
: Số tiền gởi đầu tiên của khách hàng
q: Công bội cấp số nhân (q = 1- tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo qui định)
Như vậy, với một số gia tăng tiền gởi ban đầu là 100 triệu đồng, Ngân hàng thương
mại có thể tạo ra số tiền gởi gấp 10 lần nếu dự trữ bắt buộc là 10%. Thật ra, trong ví dụ trên
chúng ta đã ngầm giả định rằng toàn bộ số tiền gởi Ngân hàng huy động được, sau khi trích
lập dự trữ đều có thể cho vay được và toàn bộ số tiền khách hàng vay đều được gởi vào
Ngân hàng. Điều này có thể không đúng trên thực tế nhưng, một cách tổng quát với một số
tiền gởi nhất định, Ngân hàng thương mại có thể tạo ra bút tệ gấp bội lần. Ngân hàng Trung
ương bằng việc vận dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể tăng hay giảm khối tiền tệ nhằm thực
hiện mục tiêu chính sách tiền tệ của mình.
1.2.3 Chức năng “Sản xuất”:
Bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra sản phẩm và dịch vụ Ngân

hàng cung cấp cho nền kinh tế. Tuy nhiên, chữ sản xuất ở đây nên hiểu theo nghĩa trong
ngoặc kép, vì có thể còn nhiều tranh cải chưa thống nhất.
Ví dụ: Trong kinh tế học, sản xuất được định nghĩa như là quá trình sử dụng các yếu
tố nhập lượng bao gồm đất đai, lao động và vốn để tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Chúng ta có
thể liên hệ và thấy rằng Ngân hàng thương mại cũng sử dụng các yếu tố đất đai, lao động và
vốn để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ như các doanh nghiệp sản xuất khác. Điều đáng lưu ý
là Ngân hàng thương mại sử dụng các yếu tố nhập lượng có tính chất đặc biệt.
– Đất đai: Ngân hàng thương mại sử dụng đất đai nằm ở các trung tâm thương mại
để tiện giao dịch với khách hàng. Có thể nói đất đai mà Ngân hàng thương mại sử dụng
thuộc vào loại đất đai nằm ở trung tâm đô thị và đắt tiền. Cứ nhìn vào nơi nào NHTM chọn
để đặt trụ sở hoặc Chi nhánh sẽ dễ dàng nhận ra tính đặc thù này.
– Lao động: NHTM sử dụng lao động cũng khá đặc biệt so nvới các doanh nghiệp
khác ở chỗ lao động của NHTM là lao động có kỹ năng, lao động được đào tạo ở một trình
độ nhất định, ít ra cũng là trình độ cao đẳng hay đại học như hiện nay.
– Vốn: NHTM sử dụng đại bộ phận vốn từ nguồn vốn huy động của khách hàng. Có
thể nói chưa có loại hình doanh nghiệp nào có tỷ số nợ trên vốn cao như NHTM.
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 4
-
Trên cơ sở sử dụng các yếu tố nhập lượng hay yếu tố đầu vào đặc thù của quá trình
sản xuất, NHTM tạo ra sản phẩm và dịch vụ đặc thù để cung cấp cho khách hàng. Các sản
phẩm và dịch vụ NHTM có thể cung cấp bao gồm:
+ Các sản phẩm huy động vốn như tiền gởi và chứng từ có giá các loại.
+ Các sẩn phẩm cấp tín dụng như cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay
tiêu dùng, cho vay sản xuất, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, cho thuê tài chính,
+ Các sản phẩm thẻ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ ATM,
+ Các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ chuyển tiền, thanh toán không dfùng tiền mặt,

thanh toán quốc tế,
+ Các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ như các hợp đồng giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi,
giao sau, quyền chọn,
Mục đích nhấn mạnh chức năng sản xuất để cho các nhà quản trị NHTM thấy rằng
NHTM cũng giống như các doanh nghiệp sản xuất và điều này có thể làm thay đổi sâu sắc
trong nhận thức chiến lược và quản trị NHTM. Vì có sản xuất mới có sản phẩm và vì có sản
phẩm nên phải chú ý những điểm quan trọng sau đây trong quản trị NHTM:
+ Thứ nhất, cũng như doanh nghiệp, NHTM muốn tồn tại và phát triển thì phải tiêu
thụ được sản phẩm của mình, do vậy cần chú ý đến tiếp thị, bán hàng, khuyến mãi, và thậm
chí đến cả dịch vụ hậu mãi nữa.
+ Thứ hai, cũng như doanh nghiệp, NHTM phải chú ý nghiên cứu phát triển sản
phẩm mới và thiết kế sản phẩm sao cho thỏa mãn tối đa nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
+ Thứ ba, cũng như doanh nghiệp, NHTM phải không ngừng quan tâm đến phát triển
và đổi mới công nghệ ngân hàng, đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay
công nghệ ngân hàng thay đổi rất nhanh chóng. Một sự chậm chạp hoặc thiếu đầu tư công
nghệ có thể dẫn đến tai họa cho NHTM trong thời đại cạnh tranh gay gắt hiện nay.
1.3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại :
1.3.1 Hoạt động huy động vốn:
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
– Nhận tiền gởi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền
gởi không kỳ hạn, tiền gởi có ký hạn và các loại tiền gởi khác.
– Phát hành chứng chỉ tiền gởi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của
tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
– Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức
tín dụng nước ngoài.
– Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
– Các hình thức huy động vốn khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
1.3.2 Hoạt động cấp tín dụng:
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17



- 5
-
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các
hình thức khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước như bao thanh toán tài trợ nhập
khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng, và hạn mức tín
dụng dự phòng, Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
1.3.2.1 Cho vay:
Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức
sau:
– Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
đời sống.
– Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
1.3.2.2 Bảo lãnh:
Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và khả
năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng
và tổng mức bảo lãnh của một ngân hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn
tự có của ngân hàng thương mại.
1.3.2.3 Chiết khấu:
Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
1.3.2.4 Cho thuê tài chính:
Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công
ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài

chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính.
1.3.2.5 Bao thanh toán:
Các ngân hàng thương mại triển khai thực hiện bao thanh toán như là một hình thức
cấp tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp như: Bao thanh toán truy đòi (Recource
factoring), bao thanh toán miễn truy đòi (Non - Recource factoring), bao thanh toán ứng
trước hay bao thanh toán chiết khấu, bao thanh toán khi đáo hạn trong phạm vi buôn bán
nội địa lẫn quốc tế.
1.3.2.6 Tài trợ nhập khẩu:
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 6
-
Hiện nay, khá nhiền ngân hàng thương mại cung cấp tài trợ xuất nhập khẩu bao trọn
gói để hỗ trợ doanh nghiệp.
Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu nhằm hỗ trợ về tài chính cùng các phương tiện và giấy tờ
liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng
mua bán hàng hóa, bao gồm:
+ Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
+ Cho vay ứng trước một phần để thanh toán cho người bán hay ứng trước tiền thuế
nhập khẩu.
+ Bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
+ Chấp nhận hối phiếu.
+ Cho thuê kho bãi để chứa và bảo quản an toàn hàng hóa nhập khẩu với giá cho thuê
phải chăng (nhờ lợi thế về qui mô số lượng khách hàng của ngân hàng) tại các địa điểm hay
các địa phương khác nhau.
+ Giúp khai báo thuế (thí dụ: lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác nhanh chóng,
nhận lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp, ).

+ Cho vay để thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho nhà xuất khẩu nếu đến hạn mà nhà
nhập khẩu chưa có tiền.
+ Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua
bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo dõi và kiểm tra hóa
đơn chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
+ Các hổ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp,
1.3.2.7 Tài trợ xuất khẩu:
Các hình thức tài trợ xuất khẩu của các ngân hàng thương mại còn phong phú hơn do
các doanh nghiệp xuất khẩu thường nhận được tài trợ từ các ngân hàng thương mại về các
giao dịch kinh doanh cả trước và sau các thương vụ xuất khẩu, bao gồm:
+ Cho vay thu mua hàng xuất khẩu, mua nguyên liệu để sản xuất, cho vay đầu tư nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm dịch vụ, cho vay bảo trì đối với các dự án chiến lược về
máy móc thiết bị, nhà xưởng ở nước ngoài.
+ Cho vay nộp thuế xuất khẩu.
+ Giúp khai báo thuế (thí dụ: lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác nhanh chóng,
nhận lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp, khấu trừ lại thuế
giá trị gia tăng, ).
+ Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua
bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo dõi và kiểm tra hóa
đơn chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
+ Các hổ trợ cần thiết khác do sự khác biệt về tập quán, luật pháp,
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 7
-
+ Cho thuê kho bãi để chứa và đóng gói hàng hóa xuất khẩu với giá cả phải chăng (do
lợi thế về qui mô số lượng).
+ Cho vay hỗ trợ dịch vụ vận chuyển chuyển giao hàng hóa.

+ Chiết khấu hối phiếu cho nhà xuất khẩu được nhận tiền sớm.
+ Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ.
+ Giúp quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro
không thanh toán của bên mua hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.
+ Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu (ứng trước
tiền hànmg xuất khẩu).
+ Thuận nhận ngân hàng (Ngân hàng chấp nhận thanh toán bằng cách ký chấp nhận
hối phiếu do doanh nghiệp ký phát).
1.3.2.8 Cho vay thấu chi:
Nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng thương mại nước
ngoài, đang mở rộng nghiệp vụ thấu chi đến các khách có mở tài khoản tại ngân hàng của
họ. Khi sử dụng dịch vụ này, mỗi khách hàng được cấp một hạn mức thấu chi khi khách
hàng tạm thời thiếu hụt trong thanh toán. Khách hàng không cần phải thế chấp hay tín chấp.
1.3.2.9 Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng:
* Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Khách hàng nộp một bộ hồ sơ vay vốn duy nhất cho mợt hay nhiều món vay vào đầu
quí, ngân hàng thương mại cấp một hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì
trong một thời gian nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
Ngân hàng thương mại cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất
định ngoài hạn mức tín dụng đã được ký ban đầu giữa ngân hàng và khách hàng, áp dụng
hạn mức tín dụng dự phòng khi khách hàng không có đủ vốn vì mức vốn đầu tư cho dự án
tăng thêm, nhu cầu tiêu dùng, mua sắm tăng thêm,
1.3.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân
hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. để
thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước, ngân
hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gởi tại Ngân hàng Nhà nước nơi ngân hàng thương
mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gởi dự trữ bắt buộc theo qui định. Ngoài ra,

chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gởi tại chi nhánh Ngân hàng
Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và
ngân quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt động sau:
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 8
-
+ Cung cấp các phương tiện thanh toán.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
+ Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
+ Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
+ Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
+ Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng
trong nước.
+ Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
1.3.4 Các hoạt động khác:
Ngoài các hoạt động truyền thống bao gồm huy động tiền gởi, cấp tín dụng và cung cấp
dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số hoạt
động khác, bao gồm:
1.3.4.1. Góp vốn và mua cổ phần:
Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần
của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo qui định của pháp luật.
Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân
hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh.
1.3.4.2. Tham gia thị trường tiền tệ:
Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ, theo qui định của Ngân hàng
Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.

1.3.4.3. Kinh doanh ngoại hối:
Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực
thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
1.3.4.4. Ủy thác và nhận ủy thác:
Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên
quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý.
1.3.4.5. Cung ứng dịch vụ bảo hiểm:
Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực
thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo qui định của pháp luật.
1.3.4.6. Tư vấn tài chính:
Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách
hàng dưới hình thức tư vần trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.
1.3.4.7. Bảo quản vật quý giá:
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 9
-
Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá,
cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo qui định của pháp luật.
1.4. Vai trò và vị trí của Ngân hàng thương mại :
► Kết quả thống kê cho thấy các NHTM đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Đó là vì các NHTM đã khắc phục được hai hạn chế cơ
bản của thị trường tài chính – chi phí giao dịch và chi phí thông tin – thông qua tính chất
chuyên môn hóa và quy mô lớn trong hoạt động của mình.
► Các NHTM cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính – tiền tệ hết sức đa dạng,
thỏa mãn các nhu cầu phong phú của các chủ thể kinh tế trong hoạt động tài chính.
► Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trung gian lâu đời và phổ biến nhất. Ba

chức năng truyền thống của một ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng, trung gian
thanh toán, và “tạo tiền” cho nền kinh tế.
2. THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA:
2.1 Tình hình hoạt động của các Ngân hàng trước những năm 2008:
► Sau khi Việt Nam gia nhập WTO các Ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều hoạt
động phong phú đa dạng tại Việt Nam và đuợc đối xử ngang bằng theo đúng nguyên tắc tối
huệ quốc của WTO. Khi đó, NHTM Nhà Nước và NHTM Cổ phần sẽ gặp phải những đối
thủ nặng ký (thương hiệu, vốn, công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm, sản phẩm…) ngay trên
thị trường Việt Nam.
► Cho đến nay, ngành Ngân hàng nước ta đã trải qua gần 60 năm (1951 - 2009) xây
dựng và phát triển, với nhiều chặng đường gay go và phức tạp nhưng vẫn ổn định và phát
triển tốt. Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho đến nay, chặng đường đổi mới căn bản
và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo tinh
thần của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm1986), Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng
chính phủ) ký quyết định số 218/CT ngày 3.7.1987 cho làm thử việc chuyển hoạt động
Ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN (làm thử đầu tiên tại TP.HCM từ
tháng 7.1987, Hà Nội, Gia Lai ), sau đó tổng kết và Chủ tịch HĐBT đã ban hành Nghị
định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 đổi mới mô hình tổ chức bộ máy Ngân hàng Việt Nam, với
sự ra đời của hệ thống Ngân hàng chuyên doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới Ngân hàng
được hoàn thiện thông qua việc công bố hai Pháp lệnh Ngân hàng vào ngày 24.5.1990
(Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công
ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống NHVN từ “một cấp” sang
“hai cấp”. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về
tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, là ngân hàng duy nhất được phát hành,
là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Nhà nước…, còn hoạt động kinh doanh
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17



- 10 -
tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng
bao gồm: Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng
liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Tháng
12.1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc hội nâng
lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1.10.1998) và sau đó Luật NHNN và
Luật các TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003, 2004.
► Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã chính thức đánh dấu sự ra
đời và phát triển khoảng gần 20 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng đường trên, hệ
thống NHTM Việt Nam đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn điều lệ không ngừng gia
tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và hiệu quả trong kinh doanh.
►Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối năm 2005 đã có những buớc phát
triển mạnh phủ khắp quận huyện và hình thành cả trong các trường học. Hệ thống NHTM ở
nước ta bao gồm: 5 NHTM nhà nước (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu
tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 36 NHTM cổ
phần đô thị và nông thôn, 29 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 04 Ngân hàng liên doanh.
Trong đó Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN có mạng lưới rộng nhất với
hơn 100 chi nhánh cấp 1 và 2.000 chi nhánh cấp 2-4 phủ khắp huyện và cả hệ thống Ngân
hàng lưu động.
► Vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam không ngừng gia tăng, NHTM Nhà Nước
sau nhiều lần bổ sung vốn đã nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTM Nhà Nước lên trên
20.000 tỷ đồng tăng gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTM Cổ
Phần được gia tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát
hành thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều lệ NHTM Cổ Phần đến cuối năm 2005 tăng
gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều NHTM Cổ Phần có vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng-1000 tỷ
đồng.
► Hệ thống NHTM Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và
tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với nhiều hình thức huy động vốn
tương đối đa dạng, NHTM Việt Nam đã huy động vốn hàng trăm tỷ đồng (năm 2005 tăng

gấp 30 lần so với năm 1990-trên 600.000 tỷ đồng, tại TP.HCM các NHTM huy động đến
cuối năm 2005 là 184.600 tỷ đồng gấp 2,8 lần so với năm 2001) từ các nguồn vốn trong xã
hội, tăng dư nợ cho vay với mọi thành phần kinh tế (dư nợ năm 2005 tăng 40 lần so với
năm 1990, tại TP.HCM dư nợ cho vay cuối năm 2005 của các NHTM 170.200 tỷ đồng gấp
3 lần so với năm 2001), tăng đầu tư vào những chương trình trọng điểm quốc gia, qua đó
góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (GDP tăng
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 11 -
bình quân 7.5% trong 5 năm 2001-2005), góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội (trong 5
năm 2001-2005 cả nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa đói giảm nghèo
(tỷ lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích (chi lương, thu chi
hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ
thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản
xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế…
► Hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam nhìn chung có những chuyển biến
tích cực, lợi nhuận tăng trưởng khá cao, có những NHTM tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn tự
có (ROE) đạt trên 20%, riêng tại TP.HCM kết thúc năm 2005 các NHTM đã có những kết
quả kinh doanh (thu nhập-chi phí) tăng khá cao so với năm 2004 (NHTMNN tăng 73,9%,
NHTMCP tăng 41,3%), dư nợ tồn đọng giảm dần.
► Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn quá
nhiều điểm yếu kém và tồn tại. Trong bài phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành
lập ngành Ngân hàng Việt Nam (1951-2006) nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã phát
biểu “Hệ thống chính sách, pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng chưa đáp ứng được
yêu cầu đổi mới triệt để, toàn diện ngành ngân hàng và hội nhập kinh tế quốc tế… sức cạnh
tranh và hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn yếu ”. Vì vậy, để
NHTM Việt Nam có thể đứng vững trong xu thế hội nhập, thực hiện các cam kết trong thỏa

thuận khung về dịch vụ trong khối ASEAN, các cam kết trong Hiệp định thương mại song
phương VN-Hoa Kỳ (BTA), và những nghĩa vụ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới WTO (có khả năng vào cuối năm 2006). Hoạt động tài chính - ngân hàng là một
trong những lĩnh vực được cam kết mở cửa mạnh mẽ nhất trong thời gian tới. Vì sau khi
Việt Nam gia nhập WTO các Ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều hoạt động phong phú đa
dạng tại Việt Nam và đuợc đối xử ngang bằng theo đúng nguyên tắc tối huệ quốc của WTO.
Khi đó, NHTM Nhà Nước và NHTM Cổ Phần sẽ gặp phải những đối thủ nặng ký (thương
hiệu, vốn, công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm, sản phẩm…) ngay trên thị trường Việt Nam.
( Nguồn : Tổng Cục Thống Kê )
2.1.1 Ưu điểm
► NHTM Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp.
► NHTM rất am hiểu về thị trường trong nước.
► Đội ngũ khách hàng của NHTM Việt Nam khá đông đảo.
►Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ.
►Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến
thức, kỹ thuật hiện đại.
► NHTM có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía Ngân Hàng Trung ương.
► Môi trường pháp lý thuận lợi.
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 12 -
► Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng.
2.1.2 Nhược điểm :
► Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của NHTM hiện
đại, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả.
► Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém.
► Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa thỏa đáng, dễ dẫn
đến chảy máu chất xám.

► Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các NHTM VN
đều thua kém các ngân hàng trong khu vực.
►Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách
hàng.
►Thiếu sự liên kết giữa các NHTM với nhau.
► Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro.
►Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ nhất
quán.
► Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được mục tiêu kinh doanh
một cách hoàn chỉnh.
► Việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của các NHTM VN chưa đồng đều nên
sự phối kết hợp trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ chưa thuận lợi, chưa tạo được
nhiều tiện ích cho khách hàng như kết nối sử dụng thẻ giữa các ngân hàng.
2.1.3 Thời cơ :
► Có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế
so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước
ngoài. Từ đó, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
► Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ
thống Ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng,
tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ
thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế.
►Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các NHTM Việt Nam học hỏi được nhiều kinh
nghiệm trong hoạt động ngân hàng của các Ngân hàng nước ngoài. Các Ngân hàng trong
nước sẽ phải nâng cao trình độ quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin
cậy đối với khách hàng.
►Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành Ngân hàng Việt Nam,
thị trường tài chính sẽ phát triển nhanh hơn tạo điều kiện cho các ngân hàng phát triển các
loại hình dịch vụ mới…
► Hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng Việt Nam từng bước mở
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh

HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 13 -
rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của các NHTM Việt Nam trong các giao dịch tài
chính quốc tế.
► Mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh
doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy
tín và vị thế của hệ thống NHTM Việt Nam trong các giao dịch quốc tế. Từ đó, có điều kiện
tiếp cận với các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn vốn cũng như
doanh thu hoạt động.
►Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các
dịch vụ Ngân hàng tại Việt Nam buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn
về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị
rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân
hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các Ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp
dụng ở Việt Nam.
2.1.4 Thách thức :
► Do khả năng cạnh tranh thấp, việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng số lượng
các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý làm cho áp lực
cạnh tranh tăng dần.
► Áp lực cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù hợp để có thể cạnh tranh với các
ngân hàng nước ngoài.
►Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và
nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng.
► Khả năng sinh lời của hầu hết các NHTM Việt Nam còn thấp hơn các ngân hàng
trong khu vực, do đó hạn chế khả năng thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự
có.
► Trong quá trình hội nhập, hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng chịu tác động mạnh
của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải

thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế.
► Các Ngân hàng thương mại Việt Nam đầu tư quá nhiều vào doanh nghiệp nhà
nước, trong khi phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp, và
thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ tiềm tàng rất lớn đối với các
NHTM.
► Hội nhập kinh tế, quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân
hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng còn rất sơ khai,
chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
► Cấu trúc hệ thống Ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều rộng (cả ở khu vực
quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng còn quá cồng kềnh, dàn trải, chưa dựa trên một mô
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 14 -
hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn ở mức kém xa so với
khu vực.
► Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn bất cập so với nhu cầu của nghiệp
vụ mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động nghiên cứu chiến lược và khoa học ứng dụng làm
cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ Ngân hàng của Việt Nam còn khá xa so với khu vực.
Nền văn minh tiền tệ của nước ta do đó chưa thoát ra khỏi một nền kinh tế tiền mặt.
► Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy động nhiều nguồn vốn mới
từ nước ngoài nhưng đồng thời cũng mang đến một thách thức không nhỏ cho các NHTM
Việt Nam là làm như thế nào để huy động vốn hiệu quả. Vì khi đó, NHTM Việt Nam thua
kém các Ngân hàng nước ngoài về nhiều mặt như công nghệ lạc hậu, chất lượng dịch vụ
chưa cao… sẽ ngày càng khó thu hút khách hàng hơn trước.
►Thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài mà đến từ chính những
nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng VN. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nguồn
nhân lực và các cơ chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Chảy máu chất xám
là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Các NHTM Việt Nam cần có các chính sách

tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi kéo và giữ chân các nhân viên giỏi.
2.2 Tình hình hoạt động của các Ngân hàng trong năm 2008:
Trong năm 2008 Ngành ngân hàng đã trãi qua nhiều biến động khó khăn như sau:
2.2.1 Lạm phát: Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan sơ bộ lạm
phát năm nay của Việt Nam là 24%) do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không nhỏ
cho ngân hàng. Thứ nhất: họ phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay quá cao khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh
doanh của ngân hàng. Thứ hai: Do lãi suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị
giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro
của các ngân hàng. Thứ ba: Do lý do thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc
cho vay vốn, tiền không được mang ra sử dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô
ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng.
2.2.2 Cơn bão tài chính Mỹ: Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải đón nhận tin
cơn bão tài chính ở Mỹ. Nhưng có lẽ nó có ít tác động đến ngành ngân hàng Việt Nam mà
nhiều khi còn là tin tốt. Tin tốt là vì: Khi nhìn thấy sự khủng hoảng của ngành ngân hàng tại
Mỹ, các ngân hàng Việt Nam sẽ suy xét và nhìn nhận lại cách làm ăn của mình. Họ sẽ thận
trọng hơn với các khoản cho vay của mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho
vay; họ sẽ đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ
xấu, khó đòi là cao; họ sẽ tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao
và có sự phát triển trong tương lai.
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 15 -
2.2.3 Cạnh tranh giữa các ngân hàng: Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước
và các ngân hàng nước ngoài. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt
Nam. Lợi thế của họ là có nhiều vốn, có tiềm lực tài chính và quản lý. HSBC là ngân hàng
nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC vừa được Ngân hàng Nhà nước chính thức cho
phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập ngân

hàng con sẽ cho phép HSBC mở rộng mạng lưới phân phối rộng hơn, tới các khách hàng
hiện tại cũng như khách hàng mới. HSBC trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt
Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước sau khi nâng cổ phần sở hữu tại
Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở rộng sức ảnh hưởng và gia
tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với các ngân hàng
nội.
2.2.4 Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này là hiển nhiên nhưng có xu thế mới
đó là việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh ATM”. Cầm thẻ
ATM của ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền của ngân hàng
Vietcombank bạn vẫn có thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng tầm hoạt động, khả năng
cạnh tranh, sức thu hút khách hàng hơn là những ngân hàng không nằm trong liên minh.
Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như thế
các ngân hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch vụ, luôn
luôn sáng tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân và các doanh
nghiệp.
2.2.5 Cạnh tranh với thị trường chứng khoán: Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ
diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng về mặt huy động vốn trong dân.
Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ gửi tiền nhàn rỗi của mình vào các ngân
hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng khoán đã làm giảm lượng huy động
vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những người dân có tiền nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu
tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng (tuy có rủi ro cao
hơn). Bên cạnh đó, các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là vay mượn các ngân hàng
họ còn có cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một cách tốt để huy động
vốn.
Nói đến khó khăn thì cũng cần nhắc đến những dấu hiệu khả quan mà ngành ngân
hàng đã làm được trong năm nay:
Trong năm nay, ngành ngân hàng phải chống chọi với lạm phát và cơn bão khủng
hoảng tín dụng của Mỹ nên chưa có những bước phát triển như mong muốn.
Dấu hiệu khả quan có thể nhận thấy ngay là góp phần cùng với Ngân hàng trung ương
hạn chế lạm phát một cách tích cực và hiệu quả.

2.3 Một số vấn đề đặt ra đối với hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 16 -
Mặc dù đạt những thành tựu, song NHTM cũng còn tồn tại một số hạn chế cơ bản cần
nhanh chóng khắc phục để có thể đứng vững trước “cơn bão tài chính” ở Mỹ và đang có xu
hướng lan rộng ra toàn cầu hiện nay.
Tính từ thời điểm cuối năm 2006, đã có nhiều biến động lớn xảy ra đối với NHTM
Việt Nam. Những biến động này bao gồm cả những chuyển biến tích cực trong giai đoạn
chuẩn bị gia nhập và sau gia nhập WTO, cũng như những hoạt động sôi nổi khác nhờ sự
phát triển tốt của nền kinh tế và sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán trong
giai đoạn đó. Tuy nhiên, có nhiều nguy cơ tiềm ẩn trong những hoạt động này. Một số nguy
cơ đã được nhận thấy khi bước sang năm tài khóa 2008 và đang được để tâm khắc phục,
nhưng một số nguy cơ mang tính căn bản khác hoặc chưa được nhìn nhận, hoặc được nhìn
nhận nhưng lại thiếu quyết tâm và khả năng để khắc phục.
* Một số vấn đề cần nói đến là:
2.3.1 Sự bùng nổ về việc thành lập các ngân hàng mới: Chỉ tính từ nửa cuối năm 2006,
Ngân hàng Nhà nước liên tục nhận được hồ sơ xin thành lập mới ngân hàng với con số
thống kê đến hết tháng 11/2007 là 20 bộ. Con số này tiếp tục tăng mạnh trong nửa đầu năm
2008 và sau đó giảm dần do chính sách siết chặt quản lý của Chính phủ. Hiện tượng bùng
nổ thành lập ngân hàng mới do một số nguyên nhân như tâm lý đón đầu cơ hội khi Việt
Nam gia nhập WTO, hay do sự cởi mở của Nhà nước sau một thời gian dài quản lý chặt
chẽ. Tốc độ phát triển của con số các ngân hàng mới cũng đồng nghĩa với việc đem lại
những xáo trộn trong ngành ngân hàng và sự nảy sinh những lo ngại về năng lực quản lý và
cạnh tranh của các ngân hàng mới.
2.3.2 Ngân hàng tăng trưởng tín dụng nóng rồi sau đó siết chặt tín dụng: Có thể nói,
mức độ tăng trưởng tín dụng trong nửa cuối năm 2007 và vài tháng đầu năm 2008 được
xem là “nóng”. Điều đó cũng dẫn đến tình trạng “nóng” trong các hoạt động đầu tư của xã

hội và là một trong những nhân tố thúc đẩy lạm phát, bên cạnh những yếu tố khách quan
khác. Việc tăng trưởng tín dụng ồ ạt cũng đã nâng nợ xấu tại một số ngân hàng lên một
cách rõ rệt, đặc biệt là ở lĩnh vực cho vay đầu tư với thị trường bất động sản. Tuy vậy, trong
những tháng sau đó, Nhà nước đã thực thi một số biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát cùng
một loạt các quyết định quản lý hành chính nên tăng trưởng tín dụng đã giảm đi.
2.3.3 Ngân hàng được bảo hộ: Hiện nay ngành ngân hàng đang được bảo hộ khá nhiều.
Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận một thực tế là, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, sức
ép cạnh tranh đến từ các Ngân hàng nước ngoài đang ngày càng gia tăng. Do vậy, phải
chuẩn bị đối mặt với sự cạnh tranh khi bị giảm bảo hộ là việc cần thiết đối với các Ngân
hàng trong nước hiện nay.
2.3.4 Chất lượng dịch vụ của Ngân hàng trong nước còn yếu kém: Hiện tượng nhân viên
làm việc đủng đỉnh trong khi khách hàng đang chờ đợi là hiện tượng còn khá phổ biến tại
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 17 -
một số Ngân hàng trong nước. Còn có những Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải đến rút
tiền đúng nơi gửi, vì thông tin của khách hàng chưa được “post” lên mạng của Ngân hàng.
Những hạn chế tương tự như vậy gay nhiều phiền toái cũng như cảm giác không hài lòng
cho khách hàng.
2.3.5 Công nghệ Ngân hàng lỗi thời: Mặc dù gần đây các Ngân hàng trong nước đã đẩy
mạnh việc hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin Ngân hàng, tuy nhiên hiệu quả của
những đầu tư không đồng đều. Đặc biệt, tại các ngân hàng thương mại nhà nước, việc đầu
tư thường được chú trọng nhiều vào “bề nổi” là các hệ thống thông tin, nhưng lại không tiếp
cận được vấn đề cốt lõi là tạo lập cơ sở nguyên tắc nghiệp vụ và quản trị để tận dụng tối đa
những tiện ích do các hệ thống công nghệ thông tin mang lại.
2.3.6 Khả năng quản lý rủi ro của các Ngân hàng còn yếu kém: Có thể nói, cho đến thời
điểm này, đây là một đặc điểm nổi bật của nhiều Ngân hàng Việt Nam. Hầu hết các Ngân
hàng thương mại Việt Nam đều có lịch sử phát triển chỉ khoảng 20 năm (khoảng thời gian

quá non trẻ so với con số 158 năm tuổi của Lehman Brothers- Ngân hàng Mỹ vừa bị phá
sản). Tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của kinh tế Việt Nam cũng chỉ chừng ấy
năm. Hệ thống pháp luật về phòng ngừa rủi ro và nghiệp vụ quản trị rủi ro trong ngành tài
chính vẫn còn lỏng lẻo và yếu. Nhiều Ngân hàng vẫn chưa chú trọng đầy đủ đến vấn đề
quản lý rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường.
2.3.7 Ảo tưởng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế và thị trường bất động sản: Ở Mỹ,
phần lớn những gì ngành tài chính Mỹ đang phải trải qua lúc này đều xuất phát từ khủng
hoảng của thị trường bất động sản và từ đó lan ra các lĩnh vực khác. Trước năm 2007, ở
Việt Nam cũng đã có những dấu hiệu tương tự. Những nỗ lực của Chính phủ trong việc thắt
chặt chính sách tiền tệ và một loạt các biện pháp khác đã giúp ngành Ngân hàng không rơi
vào vùng mất an toàn trong việc cho vay đầu tư bất động sản. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là mọi rủi ro đều đã được loại bỏ. Hiện nay, đã có một số dấu hiệu cho thấy ngành
Ngân hàng bắt đầu hoạt động “thoáng” hơn. Do vậy, bảo đảm sự giám sát chặt chẽ nhằm
lành mạnh hóa các nguồn vốn đổ vào lĩnh vực bất động sản là việc vô cùng quan trọng đối
với các Ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay có nguyên nhân từ cuộc khủng
hoảng cho vay dưới chuẩn (bắt đầu bằng sự cố “nổ bong bóng bất động sản”. Một trong các
hệ quả của việc này là kéo theo sự mất giá trị của các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp,
càng làm cho thị trường tài chính thiếu vốn trầm trọng.
Đối với Việt Nam, hiện tượng “thổi phồng” giả tạo do những kẻ đầu cơ là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bong bóng bất động sản”. Nếu thị trường bất
động sản vỡ sẽ ảnh hưởng đến các hệ thống dịch vụ khác, trong đó có ngành ngân hàng. Vì
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 18 -
vậy, yêu cầu có một cơ chế giám sát chặt chẽ các hoạt động của thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản và ngành ngân hàng trở nên một yêu cầu cấp thiết.
Tâm lý an toàn giả tạo cũng là một yếu tố gây bất lợi. Ở Mỹ, trong một thời gian dài

tồn tại một tâm lý chung là quá tin tưởng vào độ an toàn của các ngân hàng lớn. Cả khách
hàng Mỹ cũng như giới ngân hàng đều tin tưởng rằng, các Ngân hàng lớn, có “tuổi đời” cao
luôn được kiểm soát một cách chặt chẽ và luôn có sự bảo trợ của nhà nước. Tuy nhiên, thực
tế đã chứng minh rằng, những Ngân hàng lớn mặc dù có những bộ phận chuyên trách cho
công tác quản lý rủi ro nhưng do tính chất phức tạp của công việc nên vẫn tồn tại những lỗ
hổng lớn. Sự tin tưởng này nhiều khi tạo nên cảm giác an toàn giả tạo cho mọi thành viên,
kế cả những thành viên cấp cao nhất. Mặt khác, sự bảo trợ của nhà nước chỉ có thể thực
hiện được nếu quy mô của khủng hoảng còn nằm trong tầm kiểm soát và nếu nhà nước có
khả năng tài chính đủ mạnh.
Tâm lý an toàn giả tạo cũng đang tồn tại tại Việt Nam. Đây là một điều nguy hiểm vì
tại những thị trường mới nổi như Việt Nam thì năng lực giám sát và khả năng xử lý sự cố
còn rất nhiều hạn chế, chưa nói đến khả năng tài chính của chúng ta cũng rất hạn hẹp. Tâm
lý của cộng đồng cũng chưa được thử thách. Do vậy, nếu có sự cố xảy ra với chỉ một trong
bốn ngân hàng thương mại lớn của chúng ta hiện nay thì khả năng xảy ra khủng hoảng dây
chuyền là rất lớn.
2.3.8 Các khoản vay trên thị trường liên Ngân hàng sẽ khó khăn hơn: Một đặc trưng
của ngành Ngân hàng hiện đại là tính liên thông cao, do vậy, từ cuộc khủng hoảng tài chính
ở Mỹ, sẽ có thêm nhiều khó khăn đặt ra cho các Ngân hàng trong nước do tính liên thông
giữa các Ngân hàng. Những khó khăn từ cuộc khủng hoảng tài chính và sự đổ vỡ của hàng
loạt các Ngân hàng hàng đầu tại Mỹ chắc chắn sẽ là bài học cho các ngân hàng của Việt
Nam. Hiện nay, các Ngân hàng Việt Nam đều chưa có khả năng cạnh tranh giành thị trường
quốc tế nên ảnh hưởng của những gì đang xảy ra tại Mỹ đối với Ngân hàng nước ta phần
lớn mới chỉ là là những tác động gián tiếp. Sắp tới, các Ngân hàng quốc tế sẽ cơ cấu lại
cách thức giao dịch với những Ngân hàng khác theo xu hướng thắt chặt các yêu cầu an toàn,
vì vậy, các khoản vay trên thị trường liên Ngân hàng sẽ trở nên khó khăn hơn; chi phí cho
các giao dịch liên Ngân hàng cũng sẽ tăng cao. Hiện tại, trong thị trường liên Ngân hàng,
một số công ty và Ngân hàng của Việt Nam đã phải vay của Ngân hàng nước ngoài với lãi
suất cao hơn trước.
3. GIAỈ PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM:

Để hoàn thiện và phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam, trong thời gian
tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
3.1 Cần đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM VN, cải cách ngân hàng theo
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 19 -
hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng
lực cạnh tranh cho NHTM VN. Hình thành các tập đoàn tài chính-ngân hàng đủ lớn, mạnh
dạn sắp xếp lại NHTMCP theo hướng thanh lý, giải thể những ngân hàng yếu kém, sáp
nhập những ngân hàng nhỏ không đủ vốn pháp định vào những ngân hàng lớn (vốn pháp
định NHTM đô thị cần điều chỉnh trên 200 tỷ đồng). Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
NHTMNN, như chúng ta đã cổ phần hóa các DNNN (REE, SACOM, VINAMILK…) và
hiện nay những doanh nghiệp CPH đang phát triển tốt), thực hiện thí điểm CPH Ngân hàng
Ngoại thương, CPH Ngân hàng Công thương sau đó nhân rộng các ngân hàng khác. Trước
khi CPH cần lành mạnh hóa tình hình tài chính, giải quyết triệt để các khoản nợ xấu, nợ tồn
đọng, có thể sử dụng nguồn vốn NSNN cấp bù các khoản này, sau đó thu hồi từ việc bán cổ
phiếu của NHTMNN khi tiến hành CPH (giá cổ phiếu của ngân hàng hiện nay cao gấp 5-10
lần so với mệnh giá).
3.2 Cần có một cơ chế giám sát rủi ro: Ngân hàng là một trong những ngành nhiều rủi ro,
vì vậy, cần có một cơ chế giám sát rủi ro. Các sản phẩm của thị trường chứng khoán Việt
Nam còn rất sơ khai, nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các sản phẩm
bày sẽ được đa dạng hóa và phát triển rất nhanh. Vì vậy, Nhà nước cần có một cơ chế giám
sát theo kịp với sự biến đổi của thị trường này, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn
định của ngành ngân hàng. Trên thực tế, hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng trong
nước chưa được chú ý một cách thích hợp, đặc biệt tại các ngân hàng mới thành lập, do áp
lực của lợi nhuận và doanh số. Tình hình khả quan hơn đối với các ngân hàng lớn và có
kinh nghiệm hoạt động lâu năm. Tuy nhiên, trong số đó cũng có ngân hàng lớn như Ngân
hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank), số lượng nhân viên làm công việc giám sát rủi

ro chỉ chiếm khoảng 2%. Hiện nay, do việc kinh doanh của phần lớn các ngân hàng trong
nước vẫn chủ yếu dựa vào các loại hình dịch vụ truyền thống nên chưa có vấn đề gì lớn xảy
ra, ngoại trừ một số nợ xấu tập trung ở lĩnh vực bất động sản và một số lĩnh vực khác. Song
tình hình có thể thay đổi rất nhanh trong tương lai khi các ngân hàng Việt Nam tiếp cận
nhiều hơn với thế giới.
Thực tế cho thấy, những ngân hàng lớn của Mỹ như Lehman Brothers hay các công
ty bất động sản như Fannie Mae, Freddie Mac đổ vỡ là do dấn quá sâu vào những nghiệp vụ
mang tính rủi ro quá cao như cho vay thế chấp dưới chuẩn, và quá tin tưởng vào tính bền
vững của tổ chức mà thiếu đi sự giám sát chặt chẽ. Hiện nay, ở nước ta, chưa có cơ quan
quản lý dịch vụ tài chính một cách độc lập, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải làm công việc
này. Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước nên có một bộ phận chuyên trách thông tin để chủ
động cung cấp những nguồn tin chính thức và trung thực cho công chúng. Việc giám sát
cũng còn nhiều hạn chế, mặt khác, pháp luật về ngân hàng của Việt Nam vẫn chưa hoàn
GV hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Võ Hồng Vân-NH ngày 1-CHK17


- 20 -
thiện, do vậy, sự tự giác, tự giám sát của bản thân các ngân hàng càng trở nên quan trọng
trong bối cảnh hiện nay.
3.3 Cần có một chiến lược kinh doanh trung hạn và dài hạn, đặc biệt là chiến lược nhân
sự. Gắn chiến lược nhân sự với các trường đại học trọng điểm và hình thành các trung tâm
đào tạo tại các Ngân hàng thương mại. Nhân viên ngân hàng là những người làm việc trên
lĩnh vực dịch vụ cao cấp nên phải đảm bảo tính chuyên nghiệp và lương cao. Vì vậy, cần có
cơ chế tiền lương phù hợp với trình độ và năng lực của cán bộ, tránh chi trả lương theo cơ
chế DNNN, hạn chế việc bình bầu thi đua khen thưởng. Nếu tiếp tục như vậy sẽ mất hết cán
bộ giỏi hoặc cán bộ dễ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực…
3.4 Các Ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh (thế
mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc khách hàng và tăng cường công tác
tiếp thị. NTHM VN, cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: trong huy

động vốn, tín dụng, tài trợ xuất nhập khẩu, dịch vụ thanh toán, thẻ, thu hộ chi hộ, giữ hộ, ủy
thác, ngân hàng điện tử Cần chú ý phát triển các sản phẩm gắn với thị trường chứng
khoán và hoạt động bảo hiểm.
3.5 Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh
tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khách hàng
trong nước. Đặc biệt là cơ chế thanh toán, phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ
thống, đồng bộ. Mạng lưới phủ khắp nơi, nhưng giữa các chi nhánh không liên lạc với nhau
được thì vô nghĩa. Đầu tư vào công nghệ hiện đại có thể làm tăng chi phí ban đầu, nhưng sẽ
giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút nhiều khách hàng, quản trị được rủi ro do
thông tin nhanh chóng, công tác điều hành hiệu quả, đặc biệt là ngân hàng sẽ huy động
nhiều tiền gởi thanh toán (lãi suất thấp) do thanh toán dễ dàng, tiện lợi và mở rộng kênh
phân phối.
3.6 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo hướng
hội nhập. Hai luật ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi hai Luật ngân
hàng VN phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt, NHNN cần
phối hợp với các Bộ có liên quan như: Bộ tư pháp, Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ tài
Chính, Công an,…ban hành những Thông tư liên bộ có liên quan đến vấn đề xử lý tài sản
thế chấp, đặc biệt là các tài sản của DNNN để NHTM thu hồi nợ nhanh chóng và góp phần
lành mạnh hóa năng lực tài chính của các NHTM trước thềm hội nhập, cũng như trước khi
tiến hành cổ phần hóa NHTM NN.
Nếu các giải pháp trên đây được thực hiện đồng bộ, chắc chắn sẽ góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại VN trong tiến trình hội nhập quốc tế.
*****

×