Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.97 KB, 15 trang )








HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 1 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Chưong I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NHTM
1 Định nghĩa , Chức năng, vai trò của NHTM
1.1 Định nghĩa NHTM:
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua ngày 12 tháng 12 năm
2007, định nghĩa:
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụngduwowjc thực hiện tòan bộ họat
động ngân hàng và các họat động khác có liên quan.
Luật này còn định nghĩa: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để họat động kinh doanh
tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh tóan.
Cũng do Quốc hội khóa X thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997. Luật Ngân hàng
Nhà Nước định nghĩa: Họat động Ngân hàng là họat động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng, cung ứng dịch vụ thanh tóan.
1.2 Chức năng và vai trò của NHTM:


Nhìn chung, ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản: Chức năng trung gian tài
chính, chức năng tạo tiền và chức năng sản xuất.
1.2.1 Chức năng trung gian tài chính:
NHTM đóng vai trò trung gian khi thực hiện các nghiệp vụ bao gồm nghiệp vụ cấp tín
dụng, nghiệp vụ thanh tóan, nghiệp vụ kinh doanh ngọai tệ, kinh doanh chứng khóan, và
nhiều họat động mội giới khác.
“ Trung gian” được hiểu theo hai nghĩa:
 Trung gian giữa các khách hàng với nhau. Như NHTM làm trung gian giữa người gửi
tiền và người vay tiền, hay trung gian giữa người trả tiền và người nhận tiền hoặc trung
gian giữa người mau và người bán ngoại tệ
 Trung gian giữa ngân hàng Trung ương và công chúng. Ngân hàng trung ương hay còn
gọi là Ngân hàng Nhà nước không có giao dịch trực tiếp với công chúng mà chỉ giao dịch
với các NHTM, trong khi các ngân hàng thương mại vừa giao dịch với ngân hàng Trung
ương vừa giao dịch với công chúng.
1.2.2 Chức năng tạo tiền:
Tức là chức năng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ thực hiện cho nhu cầu chu
chuyển và phát triển nền kinh tế.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế gọi tắt là IMF, khối tiền tệ của một quốc gia bao gồm: Tiền
giấy, tiền kim loại và tiền gửi không kỳ hạn ở các ngân hàng.
Gọi U1: Số tiền gửi đầu tiên của 1 khách hàng
Sn: Số tiền gửi tổng cộng được tạo ra. Được tính theo công thức như sau: Sn = U1/(1-q)
Trong đó: q: Là công bội cấp số nhân
q= 1- tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định
Ngân hàng Trung ương bằng việc vận dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể tăng hay giảm
khối tiền tên nhằm thực hiện mục tiêu chính sach tiền tệ của mình.
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 2 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
1.2.3 Chức năng “ Sản xuất “ của NHTM
Được hiểu là việc huy động các nguồn lực để sữ dụng tạo ra sản phẩm và dịch vụ Ngân
hàng cung cấp cho nền kinh tế.

Chúng ta cần hiểu NHTM cũng như các doanh nghiệp khác, cũng sữ dụng đất đai, lao
động và vốn để tạo ra các sản phẩm dịch vụ như các doanh nghiệp sản xuất khác. Nhưng
sữ dụng các yếu tố đầu vào có tính chất rất đặc biệt.
Đất đai: Sữ dụng đất đai nằm ở các trung tâm thương mại để tiện giao dịch với khách
hàng.
Lao động: Có kỹ năng, lao động được đào tạo ở một trình độ nhất định,
Vốn: NHTM sữ dụng đại bộ phận vốn từ nguồn vốn huy động của khách hàng
Trên cơ sơ sữ dụng các yếu tố đầu vào đặc thù, NHTM tạo ra sản phẩm và dịch vụ đặc
thù để cung cấp cho khách hàng. Các sản phẩm bao gồm:
 Các sản phẩm huy động vốn như tiền gửi và chứng từ có giá các loại
 Các sản phẩm cấp tín dụng như: Cho vay doanh nghiệp, vay cá nhân, vay tiêu dùng,
cho vay tài trợ xuẩt nhập khẩu.
 Các sản phẩm thẻ như: Thẻ tín dụng, thẻ ATM
 Các dịch vụ ngân hàng như: dịch vụ chuyển tiền, thanh tóan không dùng tiền mặt, thanh
tóan quốc tế
 Các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ như hợp đồng giao ngay, giao sau
NHTM cũng giống như các doanh nghiệp sản xuất khác nên cũng cần phải chú trọng
trong quản trị NHTM:
NHTM muốn tồn tại và phát triển thì phải tiêu thụ được sản phẩm của mình, do vậy cần
phải tiếp thị, bán hàng, khuyến mãi, và thậm chí đến cả hậu mãi nữa.
 NHTM phải chú ý đến nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và thiết kế sản phẩm sao
cho thỏa mãn tối đa nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
 NHTM phải không ngừng quan tâm đến phát triển và đổi mới công nghệ ngân hàng.
2. Các họat động chủ yếu của NHTM
2.1 Họat động huy động vốn:
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
 Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng các dưới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
 Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của
tổ chức, cá nhân trong nước và ngòai nước.

 Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác họat động tại Việt Nam và của các tổ chức tín
dụng nước ngòai.
 Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
 Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
2.2 Họat động cấp tín dụng:
 Cho vay: Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
 Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh tóan, bảo lãnh thực hiện hợp
đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín, bằng khả
năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 3 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
 Chiết khấu: Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ
chức, cá nhân.
 Cho thuê tài chính
 Bao thanh tóan: bao thanh tóan truy đòi, bao thanh tóan miễn truy đòi, bao thanh tóan
ứng trước bao thanh toan chiết khấu, bao thanh toan khi đáo hạn trong phạm vi buôn bán
nội địa lẫn quốc tế.
 Tài trợ nhập khẩu: để các doan hnghiệp nhập khẩu có thể thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa, bao gồm:Mở L/C thanh tóan hàng nhập khẩu, cho vay ứng trước một phần
để thanh toan cho người bán, bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh tóan hối phiếu khi đến
hạn
 Tài trợ xuất khẩu: Cho vay thu mua hàng xuất khẩu, mua nguyên vật liệu để săn
xuất , cho vay nộp thuế xuất khẩu.
 Cho vay thấu chi
 Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tían dụng dự phòng.
2.3 Họat động dịch vụ thanh tóan và ngân quỹ:
 Cung cấp các phương tiện thanh tóan
 Thực hiện các dịch vụ thanh tóan trong nước cho khách hàng.
 Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
 Thực hiện các dịch vụ thanh tóan khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước cho

phép.
 Thực hiện dịch vụ thanh tóan quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
 Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
 Tổ chức hệ thống thanh tóan nội bộ và tham gia hệ thống thanh tóan liên ngân hàng
trong nước.
 Tham gia hệ thống thanh tóan quốc tế khi được Ngân hàng Nhà Nước cho phép.
2.4 Các họat động khác:
 Góp vốn và mua cổ phần.
 Tham gia thị trường tiền tệ.
 Kinh doanh ngoịa hối.
 Ủy thác và nhận ủy thác.
 Cung ứng dịch vụ bảo hiểm.
 Tư vấn tài chính.
 Bảo quản vật quý giá
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỌAT ĐỘNG NHTM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1Năm 2006:
- Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng trong năm 2006 về cơ bản đã đạt được mục tiêu
là ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời kiềm chế lạm phát ở
mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các ngân hàng thương mại đều đạt kết quả kinh
doanh tốt, nhờ đó, cổ phiếu ngân hàng rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong và nước
ngoài.
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 4 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
- Năm 2006, kinh tế thế giới tăng trưởng ở mức cao (5,1%). Tuy nhiên, giá vàng, giá dầu
và các nguyên liệu cơ bản khác tăng mạnh cũng tác động lớn đến nhiều nền kinh tế. Hầu
hết Ngân hàng Trung ương các nước đã thực hiện giải pháp “thắt chặt” tiền tệ để kiềm
chế lạm phát làm tăng lãi suất thị trường quốc tế. Những biến động trên thị trường quốc
tế đã có tác động trái chiều đến nền kinh tế nước ta. Một mặt, tăng trưởng kinh tế thế giới
ở mức cao có tác động tích cực đối với xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và cán cân
thanh toán quốc tế của Việt Nam; nhưng mặt khác, giá cả hàng hoá và lãi suất trên thị

trường quốc tế tăng mạnh đã gây áp lực lớn đến điều hành giá cả và điều hành tài chính,
tiền tệ trong nước, đặc biệt là trong điều kiện hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế nước ta còn thấp. Bên cạnh đó, nước ta còn gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh
bùng phát Trong bối cảnh đó hoạt động ngân hàng trong năm - 2006 đã đạt kết quả như
sau
 Thứ nhất: ổn định lãi suất thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh
của các tổ chức tín dụng. Cụ thể:
- Thông qua việc cung ứng tiền mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước và hút
tiền về qua nghiệp vụ thị trường mở (bán tín phiếu NHNN)
- Giữ nguyên các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản 8,25%/năm, tái cấp vốn
6,5%/năm, chiết khấu 4,5%/năm) và tỷ lệ dự trữ bắt buộc như cuối năm 2005 nhằm ổn
định lãi suất thị trường trước tác động tăng lãi suất trên thị trường quốc tế.
- Chủ động can thiệp mua - bán ngoại tệ và thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát
của Nhà nước để duy trì tỷ giá VND so với USD biến động tăng ở mức độ thấp (giảm nhẹ
giá của VND so với USD).
- Để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận các kênh tái cấp vốn và tăng khả
năng điều tiết tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã mở rộng danh mục giấy tờ có giá trong các
giao dịch tái cấp vốn,
 Thứ hai: Về điều hành tín dụng thực hiện mục tiêu kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín
dụng để góp phần kiềm chế lạm phát, bảo đảm an toàn, hiệu quả trong hoạt động tín
dụng, năm 2006, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập
trung vào việc nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát tăng trưởng tài sản có rủi ro; tăng
cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh, nhất là việc
cho vay đối với các nhu cầu vốn để kinh doanh bất động sản, đầu tư cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán.
- Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời chỉ đạo việc xử lý, tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp và hộ gia đình vay vốn bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan như bão lụt, dịch
bệnh đối với gia súc, gia cầm và cây trồng… Mặt khác, chủ động phối hợp với các bộ
ngành liên quan từng bước xử lý khoản nợ tồn đọng của các chương trình cho vay theo
quyết định của Chính phủ trước đây

 Thứ ba: cơ chế quản lý ngoại hối tiếp tục được hoàn thiện, tác động tích cực đến điều
hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong điều kiện hội nhập quốc tế
- Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào nên lượng ngoại tệ Ngân hàng Nhà nước mua được
lớn hơn nhiều so với lượng ngoại tệ Ngân hàng Nhà nước bán ra, làm cho dự trữ ngoại
hối nhà nước tăng đều và tương đối ổn định,
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 5 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
 Thứ tư: về triển khai các bước nhằm đổi mới cơ bản và toàn diện công tác thanh tra,
giám sát ngân hàng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế:
 Thứ năm: về đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân
hàng thương mại cổ phần và các tổ chức tín dụng khác:
 Thứ sáu: Hiện đại hoá ngân hàng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt: Hệ
thống ngân hàng tiếp tục có những nỗ lực mới nhằm hiện đại hoá công nghệ.
( Lấy từ http:// www.sbv.gov.vn)

Tóm lại theo tôi năm 2006 về cơ bản đã đạt được mục tiêu là ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích
cực cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế
Có thể nói năm 2006 là một năm được mùa của các ngân hàng, các ngân hàng thương
mại Nhà nước cũng như ngân hàng thương mại cổ phần đều đạt kết quả kinh doanh tốt,
đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại cổ phần mạng lưới hoạt động và quy mô
vốn được mở rộng và tăng đáng kể. Nhờ đó, cổ phiếu ngân hàng rất hấp dẫn đối với nhà
đầu tư trong và nước ngoài.
THêm vào dó là để chuẩn bị cho Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 50 của Tổ
chức Thương Mại Thế Giới( WTO) ngày 17/11/2006
2.2 Năm 2007:
Các NHTM tiếp tục cạnh tranh mở rộng mạng lưới, khai trương thêm nhiều chi nhánh,
phòng giao dịch ở các thành phố, thị xã, khu vực dân cư tập trung, khu đô thị mới, khu
vực thị trường tiềm năng,
Hệ thống NHTM năm 2007 có những mặt nóng và lạnh

2.2.1 Điểm nóng của các ngành NHTM:
 Lợi nhuận vẫn cao:
Ngân hàng, sau một năm vào WTO, vẫn giữ nguyên “phong độ”, vẫn là một lĩnh vực
nóng, đem lại lợi nhuận cao và đang thu hút
Nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư
Nhiều ngân hàng vào khoảng cuối tháng 10, tháng 11 đã hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận,
bất chấp những khó khăn từ “Chỉ thị 03”. Tín hiệu đáng mừng là nhiều ngân hàng đã
nâng tỷ lệ lợi nhuận từ
Mảng dịch vụ lên 30%.
 Chuyện IPO niêm yết:
Cứ nhìn cách người ta quan tâm đến chuyện IPO của Vietcombank tới mức có người bảo
là “đáng quan tâm hơn lạm phát” thì chúng ta cũng hiểu tình hình IPO và niêm yết trong
ngành ngân hàng đáng quan tâm như thế nào. Năm nay càng về cuối năm, càng nhiều
ngân hàng cổ phần phát hành cổ phiếu mới, đến mức nhiều người cho rằng mức độ pha
loãng giá cổ phiếu
của ngành này đã trở nên quá cao.
 Nhiều ngân hàng mới - cạnh tranh gay gắt :
- Cái “nóng” thứ ba của ngành ngân hàng năm nay là nhìn ở khía cạnh sức ép cạnh tranh
ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, trận tuyến chủ yếu năm nay không phải ở phía ngân hàng
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 6 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
nước ngoài với ngân hàng trong nước như có người lo ngại từ năm ngoái, mà chính là từ
phía các ngân hàng trong nước với nhau, cụ thể là khối ngòai quốc doanh.
- Trong cuộc cạnh tranh năm nay, có vẻ càng về cuối, khối ngân hàng thương mại nhà
nước càng mất thị phần, khối ngân hàng nước ngoài chưa có những bước đột phá mạnh
như nhiều người dự đoán, còn khối ngân hàng thương mại cổ phần đã nhanh chóng chiếm
lĩnh thị phần cao hơn, chiếm khoảng 26% dư nợ toàn hệ thống tính đến khoảng giữa quí
4.
- Ở khía cạnh “chìm” hơn của cuộc cạnh tranh, điểm đáng chú ý là năm 2007 khối ngân
hàng thương mại cổ phần đón nhận sự gia nhập của nhiều ngân hàng mới với tiềm lực tài

chính mạnh,
do các tập đòan, công ty lớn liên minh thành lập.
- Nhiều ngân hàng thương mại cổ phần và quốc doanh sẽ mất đi một lượng khách hàng
quan trọng, và nhiều nhân sự chủ chốt của các ngân hàng này cũng sẽ bị thu hút đi sang
ngân hàng mới.
 “Sốt” nhân sự :
- Chưa bao giờ vấn đề nhân sự cho lĩnh vực tài chính ngân hàng lại nóng, đúng ra là
“sốt”, như hiện nay. Cái nóng này phần nào bị thúc đẩy bởi cái nóng về cạnh tranh, và
chủ yếu mang tính chất tiêu cực vì nó bộc lộ sự thiếu chuẩn bị của ngành ngân hàng cho
Một sự phát triển mang tính bùng nổ.
Sự xuất hiện của các ngân hàng mới cùng với sự phát triển và mở rộng mạnh mẽ của các
ngân hàng trong và ngoài nước đã tạo ra một bước nhảy vọt về nhu cầu nhân sự (cả cấp
cao và cấp thấp)
- Nhiều ngân hàng đã nâng mức lương và đưa ra những chế độ đãi ngộ hấp dẫn như được
mua cổ phiếu với giá ưu đãi nhằm thu hút nhân lực, “chiêu dụ” nhân tài từ ngân hàng
khác, “lấn sân” sang cả những sinh viên tốt nghiệp ở các chuyên ngành khác nhưng vẫn
không đủ nhu cầu.
Điều này dẫn đến một cuộc chiến giành giật nhân sự giữa các ngân hàng, một điều không
hề tốt cho hệ thống ngân hàng nói chung. Nên nhớ rằng, để vận hành tốt một ngân hàng,
cần phải tốn không ít thời gian và chi phí đào tạo đội ngũ nhân viên, nếu nhân viên cứ
“người đi, kẻ đến” thì làm sao ngân hàng phát triển. Nhiều ngân hàng đơn lẻ không ổn
Định, thì hệ thống sẽ ra sau?
2.2.2 Điểm lạnh của các ngành NHTM:
 Cái “lạnh” thứ nhất là về sản phẩm ngân hàng:
- Một năm sau WTO, chúng ta dường như không cảm nhận được một đột phá nào về sản
phẩm ngân hàng, quanh đi quẩn lại vẫn là những cải tiến cho những sản phẩm đã có.
- Những sản phẩm tài chính cá nhân phổ biến ở các nước khác, kết hợp những biến động
từ đầu tư, giá cả vào sản phẩm ngân hàng truyền thống như sản phẩm phức hợp
(structured products), hợp đồng hưởng chênh lệch (CFD) đều không có, còn sản phẩm
phái sinh thì chả thấy phát triển gì.

- Nếu cho rằng tại những cái đó cao cấp quá, mình không phát triển được, thì e rằng
không hợp lý. Những cái này nước người ta phát triển đã nhiều năm, nhiều nước châu Á
như Hàn Quốc, Singapore đều có, mình không có, nghĩa là mình đi sau quá
Lâu, và còn đang muốn tiếp tục đi sau.
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 7 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
- Ngay cả những sản phẩm phục vụ thanh toán thương mại điện tử, và những thanh toán
thông thường cũng chưa có gì đột phá. So với mức độ nóng của nền kinh tế, thì những
con số về tỷ lệ người dùng thẻ tín dụng, dịch vụ thanh toán thẻ, tiện ích hỗ trợ giao dịch
điện tử dường như chưa tương xứng.
- Một minh chứng nữa của việc chậm trễ và thiếu nhạy bén là trong giai đoạn vàng tăng
giá, dường như chỉ có ACB đưa ra sản phẩm mới để thích ứng với tình hình. Các ngân
hàng khác, kể cả nhiều ngân hàng có tiềm lực và kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh
vàng và ngoại tệ, tỏ ra quá thận trọng và thụ
Động trong việc thiết kế sản phẩm mới.
 Cái lạnh thứ hai về khía cạnh pháp lý:
- để quản lý ngành ngân hàng. Đã có nhiều bài báo công khai chỉ rõ cái hạn chế của việc
dùng “nghị định thay luật”, dùng “giấy phép con” dưới dạng các quyết định, chỉ thị trong
quản lý ngành ngân hàng.
- Đó là chưa kể cách chúng ta quản lý ngành ngân hàng theo kiểu “một cho tất cả”, bất kể
ngân hàng tiềm lực mạnh, yếu, năng lực quản trị rủi ro, lợi nhuận thế nào. Tình hình như
vậy cho thấy chúng ta lúng túng và đi sau diễn biến thị trường khá xa trong quản lý. Điều
này là hết sức nguy hiểm đối với ngành
Ngân hàng, một lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro.
( Theo TBKTSG)
2.2.3 Cơn sốt BĐS trong năm 2007:
- Với chỉ thị 03 siết lại cho vay cầm cố chứng khoán và cảnh báo của NHNN trước việc
nhiều NH lao vào chứng khoán đã khiến
hàng lọat NH đổ vốn vào bất động sản.
- Theo báo cáo của NHNN, Chi nhánh TPHCM, tổng dư nợ cho vay BĐS của 57 NH

tính đến cuối năm 2007 tại TPHCM đạt 34.643 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 9,74%/tổng dư nợ
cho vay của
tòan hệ thống.
- Nhưng nguồn tin của chúng tôi cho biết con số này có thể lên đến 45.000-50.000 tỷ
đồng. Đây được xem là một trong những lý do chính khiến tăng trưởng tín dụng năm
2007 đạt 38%, và không ít NH cổ phần thông báo lãi từ 500- 1.000 tỷ đồng trong
Năm 2007
- Còn con số nợ xấu cho vay xây nhà để bán của các NH tại TPHCM trong năm qua lên
đến 1,25% tổng dư nợ BĐS, cho vay BĐS ở một số NH cổ phần lên đến 40 - 50% tổng
dư nợ, vốn cho vay mua BĐS trung và dài hạn đạt 25.228 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng
73,83% so với tổng dư nợ cho vay BĐS trong khi vốn huy động đa số dưới 1 năm… thì
lại “vô tình” không
Được nhắc đến.
- Cuộc đua cho vay BĐS nóng đến nỗi nhiều dự án được NH cho vay đến 90%, thậm chí
100%, nhân viên NH đến tận nhà khách hàng làm thủ tục và giải ngân trong ngày với
những thủ
Tục không thể sơ sài hơn!
Tóm lại trong năm 2007 là một năm mà NH và giới kinh doanh BĐS quá thành công và
thu lợi nhuận khổng lồ từ địa ốc, với bốn điểm nóng, hai điểm lạnh và những cơn sốt
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 8 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
BĐS cho thấy có vẻ như ngành ngân hàng Việt Nam vẫn đang phát triển thuận lợi, nhưng
lại hàm chứa nhiều sóng ngầm. Mục đích chính dẫn đến những tình trạng trên trong
ngành ngân hàng là đặt lợi nhuận lên đầu.
2.3 Năm 2008:
Năm 2008 đã khép lại với biết bao sự kiện, diễn biến phức tạp và khó lường của nền
kinh tế thế giới, cũng là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó
khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới.
Năm 2007, thị trường ngân hàng chứng kiến sự bùng nổ về tăng trưởng tín dụng (tăng
51,39%), trong đó tăng trưởng mạnh ở các nghiệp vụ cho vay đầu tư bất động sản, chứng

khoán và tín dụng tiêu dùng. Bước sang năm 2008, đây là những nghiệp vụ chính bị siết
chặt
 Chóng mặt với thay đổi của các công cụ điều hành:
- Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần
sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là
tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của Ngân hàng Nhà nước, tập
trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và
biên độ tỷ giá.
- Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản.
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ
dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần
giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự Trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh(
3 lần tăng, 2 lần giảm)
- Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử.
Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2
Lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12.
- Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện nổi bật trong
năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Đi cùng với kế
hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên
13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%.
 Lãi suất huy động và cho vay biến động chưa từng có:
- Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền với sự căng
thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động VND có kỳ biến
động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những
đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục
“treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới
trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm.
- Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng thương mại cầm
chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín
dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất

trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước chỉ tăng khỏang 21% thay vì mức dự
kiến khống chế 30%)
- Ngược lại, từ cuối tháng 7, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà
nước với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 9 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
có đợt thoái trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất
chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất
có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND
rút về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.
 Nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng:
- Khó khăn của nền kinh tế, trong hoạt động của mỗi ngân hàng đang dần thể hiện ở xu
hướng gia tăng của nợ xấu. Nếu trong năm 2007, đa số thành viên khối quốc doanh chỉ
trên dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%, thì năm
nay dự kiến sẽ có nhiều trường hợp có nợ xấu trên 5%
- Cuối năm 2008, một số ngân hàng lớn đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu thực tế hoặc
mục tiêu kiểm soát từ 5% đến hơn 6%. Tuy nhiên, nhiều thành viên chưa có động lực để
công bố và cập nhật số liệu liên quan. Dự kiến từ đầu năm 2009, bức tranh về nợ xấu của
hệ thống ngân hàng sẽ rõ ràng hơn.
- Liên quan đến vấn đề nợ xấu, sự suy giảm mạnh của thị trường bất động sản và chứng
khoán là những lo ngại nổi bật trong năm 2008, ảnh hưởng đến chất lượng và quan hệ tín
dụng của các ngân hàng thương mại. Riêng làn sóng giải chấp chứng khoán cầm cố (thu
hút sự chú ý của dư luận trong tháng 2 và 3)
Cũng là một điểm nổi bật trong năm khó khăn này.
 Ảnh hưởng của cuộc khủng hỏang tài chính tòan cầu:
- Tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu bùng phát tại Mỹ và loang rộng trên
thế giới với một loạt định chế tài chính lớn sụp đổ. Theo đánh giá của Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa có mối liên hệ trực tiếp với thị
trường tài chính thế giới nên mức độ ảnh hưởng không lớn.
- Phản ứng đầu tiên của các ngân hàng trong nước là rút bớt tiền gửi ở nước ngoài về,

đóng bớt tài khoản thanh toán quốc tế. Các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam khẳng
định tiếp tục duy trì họat động và đảm bảo an tòan.
- Một ảnh hưởng cụ thể từ cuộc khủng hoảng này được xét đến ở những biến động trên
thị trường ngoại tệ và xu hướng tăng lên của tỷ giá USD/VND. Trong tháng 10, cầu ngoại
tệ của các ngân hàng ngoại có dấu hiệu tăng mạnh, trong đó có nguyên nhân từ hoạt động
chuyển vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Một số ngân hàng nước ngoài cũng có hiện tượng
bán lại nợ cho các ngân hàng nội địa.
- Ở những ảnh hưởng gián tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính, và nối tiếp là suy thoái kinh
tế toàn cầu, đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong nước vào khó khăn, dẫn
đến quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nhất định.
 Đa số các ngân hàng không đạt mục tiêu lợi nhuận:
- Nửa đầu năm gồng mình với khó khăn thanh khoản, lợi nhuận của nhiều ngân hàng bị
ảnh hưởng nặng nề. Đây là năm đầu tiên trong khoảng 5 năm trở lại đây nhiều thành viên
buộc phải điều chỉnh lại mục tiêu kinh doanh và lợi nhuận đặt ra từ đầu năm; chiến lược
tăng tốc nhanh được chuyển sang thận trọng, ổn định và yếu tố an tòan, tăng cường quản
trị được đặt lên hàng đầu.
- Với lãi suất huy động cao trong phần lớn thời gian của năm, tốc độ tăng trưởng tín dụng
thấp, tín dụng bất động sản và tiêu dùng thu hẹp, đầu tư tài chính khó khăn…, dự kiến lợi
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 10 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
nhuận của nhiều ngân hàng thương mại năm 2008 sẽ không đạt mục tiêu đề ra, kể cả mục
tiêu đã được điều chỉnh

(Theo VnEconomy ngày 19/12/2008)

Với những diễn biến trên theo ý kiến chủ quan tôi: thì việc điều hành của Ngân hàng
Nhà nước với điều kiện về trình độ và tài chính như vậy là rất tốt.
Cả thế giới đang khủng hoảng nên chúng ta khủng hoảng là điều bình thường, vì chúng ta
đang hội nhập. Điều quan trọng là chúng ta tìm cách đối phó với khủng hoảng như thế
nào. Chúng ta cần có một kế hoạch dài hơi, tầm nhìn chiến lược để hướng kinh tế phát

triển ổn định. Một chiến lược phát triển tổng thể mới là điều ta cần nhất.
CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG NHTM Ở VIỆT NAM
3.1 Đinh hướng chiến lược phát triển chung cho hệ thống:
- Toàn ngành Ngân hàng tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật về ngân
hàng phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển ngành Ngân hàng và lộ trình thực
hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, cụ thể là tập trung xây dựng,
hoàn thiện dự án Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm
tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng; tập trung nghiên cứu, chỉnh sửa,
hoàn thiện các qui định về ngoại hối,về đảm bảo an toàn, về cơ cấu tổ chức và hoạt động
của các tổ chức tín dụng…
- Chính sách tiền tệ bám sát mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, kiểm soát lạm phát ở
mức hợp lý, ổn định thị trường tiền tệ và bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng trước
những biến động của tình hình tài chính quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó, Ngân
hàng Nhà nước tiếp tục điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết
hợp hài hoà, linh hoạt giữa điều hành tỷ giá và lãi suất; tăng cường phối hợp với các bộ,
ngành để đảm bảo nhất quán giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách
tiền tệ và chính sách tài khóa; nâng cao hiệu quả công tác thống kê, dự báo, phản ứng kịp
thời trước những diễn biến kinh tế, tiền tệ trong nước và quốc tế; đảm bảo tính thanh
khoản của các tổ chức tín dụng.
- Phát triển vững chắc và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng,
nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn
vốn đó cho đầu tư phát triển sản suất. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện chuyển dịch
cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp,
nông thôn, mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ; nâng cao năng lực hoạt động
và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong nước.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về thanh tra, giám sát ngân hàng và các quy định về đảm
bảo an toàn hoạt động ngân hàng, đi đôi với việc củng cố bộ máy tổ chức, tăng cường đào
tạo đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng.

- Phát triển mạnh công nghệ ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội về các hoạt động dịch vụ ngân hàng.
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 11 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
- Tăng cường hợp tác quốc tế, nâng vai trò, vị thế của Việt Nam trong cộng đồng tài
chính, tiền tệ quốc tế.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động ngân hàng, nhằm tạo sự đồng
thuận của xã hội đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng, đồng thời, tạo thêm kênh giám sát
của xã hội đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng.
- Nhìn lại những thành quả đạt được, tồn tại, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong hoạt
động ngân hàng năm 2008, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng, bước sang
năm 2009, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sát sao Chính phủ, hệ thống
Ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục vượt qua thách thức, khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ
của Ngành, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước trong năm 2009.
3.2 Giải pháp đối với Chính Phủ:
- Tạo hàng lang pháp lý, ổn định chính trị và giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Chủ trương, chính sach, quy định của nhà nước phẩi đồng bộ, có lộ trình, hiệu quả và
hợp lý
- Chính phủ cần thực hiện biện pháp làm tốt công tác dự báo rủi ro tài chính để từ đó
phòng ngừa rui ro chính xác.
- Chính phủ ban hành luật bảo vệ người gửi tiền, nhằm bảo đảm mọi quyền lợi và lợi ích
của người gửi tiền, đồng thời phải được phổ biến rộng rãi luật này trên phương tiện thông
tin và tại các quầy giao dịch của ngân hàng.
- Chính phủ cần có cơ chế ưu đãi về đầu tư hạ tầng nhầm thu hút đầu tư xây dựng và phát
triển kết cấu hạ tầng, gíup sản xuất và giao lưu hàn hóa giữa các vùng dễ dàng
- Cần cải hệ thống ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại nhà nước là điều hết sức
cần thiết và cấp bách. Đừng để sau một vài thập kỹ nữa, lúc mà chúng ta cam kết mở cửa
thi trường hòan tòan cũng là lúc mà ở Việt Nam, chỉ có các ngân hàng tòan cầu mà chẳng
có một ngân hàng Việt Nam nào.

3.2.1 Huy động vốn:
- Nhà nước cần có nhiều chính sách vĩ mô nhầm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế làm
mước thu nhập trên đầu người tăng, làm cho số lượng khách hàng gửi tiền nhàn rỗi ngày
một nhiều hơn.
- Nhà nước đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả từ đó làm gia tăng số
sư tiền gửi của các Cty Chứng khoán tại các Ngân Hàng Thương Mại
- Chính phủ cần áp dụng mọi giải pháp để kiềm chế lạm phát. Bơi vì lạm phát làm sói
mòn tiết kiệm.
- Ngân hàng phải đa dạng hóa các sản phẩm gửi tiền tiết kiệm, các hình thức huy động
vốn,và phục vụ tốt các dịch vụ trung gian, để huy động nhiều khách hàng là doanh nghiệp
lớn
- Mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch tòan quốc, đảm bảo thuận tiện cho
huy động vốn.
- Phải hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh tóan.
- Phải tạo được lòng tin cao độ đối với khách hàng.
- Phải tạo được sự khác biệt của ngân hàng như hình ảnh ngân hàng.
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 12 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
- Đổi mới phong cách giao dịch: Đặc biệt là phong cách thân thiện, tận tình, chu đáo, cởi
mở tạo lòng tin cho khách hàng gửi tiền.
- Đẩy Đẩy mạnh họat động marketing. Chăm sóc khách hàng, chính sach khuyến mãi.
- Tuyển dụng đào tạo nhân lực chất lượng cao.
-

3.2.2 Cho Vay
- Chính phủ cần áp dụng mọi giải pháp để kiềm chế lạm phát. Vì lạm phát thấp giúp mọi
người tiết kiệm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh, tăng
doanh thu, lợi nhuận. Từ đó góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng, tạo lòng tin cho mọi
người khi đồng tiền không bị mất giá từ đó nâng cao hiệu quả sữ dụng vốn của khách
hàng

- Xác định rõ những ngành, lĩnh vực công trình thật sự cần thiết để đầu tư cho vay, có lộ
trình cụ thể, tránh tràn lan, thất thoát và lãng phí khi cho vay nhưng đầu tư không tạo ra
hàng hóa đối ứng
- Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tín dụng.
- Phải thành lập đội nhân viên chuyên hướng dẫn thủ tục và phương án vay cho khách
hàng cá nhân cũng như cho vay doanh nghiệp.
- Phải có nhân viên chuiyên môn đi thẩm định các dự án đầu tư.
- Phát triển công tác dự báo và phân tích thi jtrường.
- Quản trị thanh khỏan tốt.
- Thông tin cần cân xứng và minh bạch.
- Tính liên kết giữa các ngân hàng để đảm bảo an tòan thanh tóan.
- Nổ lực tìm kiếm khách hàng.
- Xóa khỏang cách phân biệt giữa các thành phần kinh tế.
- Ưu tiên cho những dự án vay có hiệu quả.
- Đa dạng hóa hình thức cho vay.
- Mở rộng đố tượng cho vay.
- Ngòai ra để hạn chế rủi ro trong họat động tín dụng đề nghị Nhà nước có chính sách bắt
buộc tất cả các doanh nghiệp phải kiểm tóan hàng năm tại những cơ quan kiểm tóan độc
lập có uy tín, để gíu Ngân hàng ddasnh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp.
3.2.3 Họat động dịch vụ thanh toán:
- Phát triển dịch vụ là lợi thế của các NHTM trong việc thu hút khách hàng đến giao dịch
và tăng khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng. Họat động dịch vụ phát triển thúc đẩy
họat động tín dụng và huy động vốn .
- Hiệp hội ngân hàng nên có quyết định khung tối đa và tối thiểu về biểu phí dịch vụ
trong hệ thống ngân hàng để trách tình trạng cạnh tranh không lành mạng .
- Hiện đại hóa hệ thống công nghệ của ngân hàng: để đảm bảo mức độ an tòan, bảo mật,
và sự hài lòng của khách hàng khi đến ngân hàng .
- Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ như : dịch vụ thu chi hộ, thanh tóan lương, dịch vụ
thẻ ATM, dịch vụ vắn tin trên internet, dịch vụ hombanking
- Cần tăng tiện ích của tài khoẩn thanh tóan như: cho vay thấu chi, quản lý tiề nmặt, dịch

vụ thẻ (ATM, POS), thanh tóan tiền hàng hóa, nhắn tin tự động.
GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 13 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
- Cần tăng tiện ích mới trên máy ATM như được rút tiền ở tất cả các máy ATM, gửi tiền
mặt qua máy ATM, thanh tóan chuyển khỏan khác hệ thống, thanh tóan hóa đơn điện,
nước, điện thoại ở tất cả máy ATM.
- Sản phẩm dịch vụ đưa ra phải phù hợp với từng đối tượng : chẵng hạn đối với khách
hàng là doanh nghiệp, trường học, đặt biệt là ban quản lý, ban giải phóng mặt bằng là
những ổ chức có nguồn vốn dồi dào, thời gain chưa sữ dụng dài nhưng họ lại có lực
lượng nhân sự ít để quản lý. Vì vật NHTM nên cung cấp cho họ dịch vụ thu chi hộ, thanh
tóan lương, để khai thác tốt nguồn vốn này.
3.2.4 Tư vấn tài chính:
- Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều không có dịch vụ tư vấn tài chính. Và ngân hàng
hiện nay tôi công tác cũng không có dịch vụ này. Thậm chí cả những Ngân nhàng có tên
tuổi trên thị trường cũng không.
- Nhưng theo tôi để tư vấn tài chính có hiệu quả và đưa vào áp dụng thì đầu tiên cần
phải có nguồn nhân lực. Cần nâng cao và đào tạo trình độ nhân viên, khi đào tạo rồi phải
áp dụng liền, tránh cho nhân viên đó làm khiêm nhiều việc, vì làm nhiều việc sẽ không có
thời gian nghiên cứu đặc biệt đây là dịch vụ mới đưa vào sữ dụng.
3.3 Ý Kiến đối với NHNN
- Đưa ra chính sach lãi suất phù hợp. bởi vì lãi suất là một công cụ hết sức quan trọng
được sữ dụng trong công tác huy động vốn và sữ dụng vốn của Ngân Hàng, phải nhằm
đảm bảo lợi ích cho cả người gửi và người nhận từ đó làm thỏa mãn lợi ích giữa 2 bên
đều hướng tới mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận.
- Không nên khống chế hạn mức tín dụng có tính chất bình quân là tăng trưởng dư nơ
năm 2008 không quá 30% so với năm 2007, mà tùy theo quy mô và lợi thế của từng
Ngân Hàng mà có hạn mức thích hợp. Vì giới hạ ntisn dụng sẽ gây khó khăn cho các
doanh nghiệp khi vay vốn.
Vì vậy vấn đề không phải là khống chế hạn mức tín dụng mà phải kiểm soát tăng trưởng
tín dụng, đảm bảo chất lượng tín dụng.

- NHNN nên cấp phép hoạt động cho các ngân hàng một cách có kế hoạch, không ồ ạt
tránh tình trạng tranh dành thị phần giữa các ngân hàng dẫn đến nhiều tác hại không tốt
cho nền kinh tế như: ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động nhưng lại cho vay tràn
lan không đảm bảo chất lượng từ đó không thu hồi được nợ cho vay dẫn đến mất khả
năng thanh toan đi đến sự đổ vở của hệ thống ngân hàng.

Tóm lại với tình hình thực tế nước ta từ năm 2006,2007 cho thấy có vẻ như ngành ngân
hàng Việt Nam vẫn đang phát triển thuận lợi, nhưng lại hàm chứa nhiều sóng ngầm. Thực
vậy sang năm 2008 chúng ta thấy hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những
khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới.Vì vậy cần thực hiện
biện pháp làm tốt công tác dự báo rủi ro tài chính để từ đó phòng ngừa rủi ro chính xác.





GV: TS Lại Tiến Dĩnh
HV: Nguyễn Thị Thu Nga 14 Khóa 17 Lớp NH ngày 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách “Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại”
- Tác giả: TS. Nguyễn MInh Kiều. Gỉảng viên khoa Ngân Hàng Đại Học Kinh Tế
TP.HCM và chương trình Giảng Dạy kinh tế Fulbright .
- Nhà Xuất bản thống kê năm 2007.
2.
3.
4. VN Economy ngày 19/12/2008


×