Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

CHUYÊN ĐỀ: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.76 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA NGÂN HÀNG
  




MÔN HỌC: NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI







CHUYÊN ĐỀ:

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỦA VIỆT NAM








GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh

HVTH: Kim Hữu Nghĩa



Lớp: Ngân hàng 4 ngày 1 – K17






TP.HCM, tháng 01/2009


I/ LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Định nghĩa Ngân hàng thương mại:
Luật Các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 1997,
định nghĩa:
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động Ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Luật này còn định nghĩa: Tổ chức tín
dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo qui định của Luật Các tổ chức tín dụng và
qui định khác của Pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội
dưng nhận tiền gởi và sử dụng tiền gởi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Luật Ngân hàng Nhà nước do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 1997,
định nghĩa:
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gởi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh
toán.
Một số nét cơ bản để phân biệt giữa NHTM và Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Ngân hàng thương mại Tổ chức tín dụng phi Ngân hàng
* Là tổ chức tín dụng
* Được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân
hàng

* Là tổ chức nhận tiền gởi (Depository)

* Cung cấp dịch vụ thanh toán
* Là tổ chức tín dụng
* Được thực hiện một số hoạt động Ngân
hàng
* Là tổ chức không nhận tiền gởi
(Nondepository)
* Không cung cấp dịch vụ thanh toán

2. Chức năng của Ngân hàng thương mại :
- Chức năng trung gian tài chính của Ngân hàng thương mại:
Thực hiện chức năng này, Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian khi thực hiện
các nghiệp vụ bao gồm nghiệp vụ cấp tín dụng, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh
ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động môi giới khác. Từ ”Trung gian” ở đây có
thể hiểu theo hai ý nghĩa :
* Trung gian giữa các khách hàng với nhau:
Ví dụ: Ngân hàng thương mại làm trung gian giữa người gởi tiền và người vay tiền, hay
trung gian giữa người trả tiền và người nhận tiền, hoặc trung gian giữa người mua và người bán
ngoại tệ,
* Trung gian giữa Ngân hàng Trung ương và công chúng. Ngân hàng Trung ương hay
như ở Việt Nam thường gọi là Ngân hàng Nhà nước không có giao dịch trực tiếp với công
chúng mà chỉ giao dịch với các Ngân hàng thương mại, trong khi các Ngân hàng thương mại
vừa giao dịch với Ngân hàng Trung ương vừa giao dịch với công chúng.

- Chức năng tạo tiền:
Là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu
chuyển và phát triển nền kinh tế. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) gọi
tắt là IMF, khối tiền tệ của một quốc gia bao gồm: Tiền giấy, tiền kim loại, và tiền gởi không
kỳ hạn ở Ngân hàng. Còn tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi định kỳ không được xem là bộ phận của

khối tiền tệ mà chỉ được xem là “Chuẩn tiền”, vì tính chất kém thanh toán của bộ phận này.
Nhưng từ thập niên 1980 trở đi nhiều nhà kinh tế học bắt đầu xem “Chuẩn tiền” là một thành
phần của khối tiền tệ. Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới (World Bank) g6àn như chấp
nhận quan điểm này nhưng còn ngần ngại nên phân biệt thành nhiều dạng khối tiền tệ như M
1
,
M
2
, M
3
và L, trong đó:
+ M
1
= Tiền mặt phát hành bao gồm tiền giấy và tiền kim loại cộng với tiền gởi không
kỳ hạn;
+ M
2
= M
1
+ tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi định kỳ tại Ngân hàng;
+ M
3
= M
2
+ tất cả các loại tiền gởi ở các định chế tài chính khác;
+ L = M
3
+ các loại trái phiếu, thương phiếu và công cụ khác của thị trường tiền tệ.
Ví dụ: Ngân hàng Trung ương đưa ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, Ngân hàng thương mại
(NHTM) A nhận được 100 triệu đồng từ một khách hàng.

Bảng cân đối kế toán của NHTM A
Tài sản Nguồn vốn
- Thiết lập dự trữ: 10
- Tín dụng: 90
- Tiền gởi của khách hàng là: 100
NHTM A cho NHTM B vay hết 90 triệu đồng

Bảng cân đối kế toán của NHTM B
Tài sản Nguồn vốn
- Thiết lập dự trữ: 9
- Tín dụng: 81
- Tiền gởi của khách hàng là: 90

NHTM B cho NHTM C vay hết 81 triệu đồng
Bảng cân đối kế toán của NHTM C
Tài sản Nguồn vốn
- Thiết lập dự trữ: 8,1
- Tín dụng: 72,9
- Tiền gởi của khách hàng là: 81
Quá trình cứ tiếp tục cho đến khi nào số gia tăng tiền gởi và cho vay triệt tiêu (Vì phải dự
trữ ở Ngân hàng Nhà nước). Ta thấy rằng số gia tăng tiền gởi của các Ngân hàng có dạng cấp
số nhân:
U
1
100
Tổng số bút tệ được tạo ra = S
n
= = = 1.000
1-q 1- (1-0,1)


U
1
: Số tiền gởi đầu tiên của khách hàng;
q: Công bội cấp số nhân (q = 1- tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo qui định)
Như vậy, với một số gia tăng tiền gởi ban đầu là 100 triệu đồng, Ngân hàng thương mại
có thể tạo ra số tiền gởi gấp 10 lần nếu dự trữ bắt buộc là 10%. Thật ra, trong ví dụ trên chúng
ta đã ngầm giả định rằng toàn bộ số tiền gởi Ngân hàng huy động được, sau khi trích lập dự trữ
đều có thể cho vay được và toàn bộ số tiền khách hàng vay đều được gởi vào Ngân hàng. Điều
này có thể không đúng trên thực tế nhưng, một cách tổng quát với một số tiền gởi nhất định,
Ngân hàng thương mại có thể tạo ra bút tệ gấp bội lần. Ngân hàng Trung ương bằng việc vận
dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể tăng hay giảm khối tiền tệ nhằm thực hiện mục tiêu chính
sách tiền tệ của mình.
- Chức năng “Sản xuất” của Ngân hàng thương mại:
Bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra sản phẩm và dịch vụ Ngân
hàng cung cấp cho nền kinh tế. Tuy nhiên, chữ sản xuất ở đây nên hiểu theo nghĩa trong ngoặc
kép, vì có thể còn nhiều tranh cải chưa thống nhất.
Ví dụ:
Trong kinh tế học, sản xuất được định nghĩa như là quá trình sử dụng các yếu tố nhập
lượng bao gồm đất đai, lao động và vốn để tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Chúng ta có thể liên hệ
và thấy rằng Ngân hàng thương mại cũng sử dụng các yếu tố đất đai, lao động và vốn để tạo ra
các sản phẩm và dịch vụ như các doanh nghiệp sản xuất khác. Điều đáng lưu ý là Ngân hàng
thương mại sử dụng các yếu tố nhập lượng có tính chất đặc biệt.
+ Đất đai: Ngân hàng thương mại sử dụng đất đai nằm ở các trung tâm thương mại để
tiện giao dịch với khách hàng. Có thể nói đất đai mà Ngân hàng thương mại sử dụng thuộc vào
loại đất đai nằm ở trung tâm đô thị và đắt tiền. Cứ nhìn vào nơi nào NHTM chọn để đặt trụ sở
hoặc Chi nhánh sẽ dễ dàng nhận ra tính đặc thù này.
+ Lao động: NHTM sử dụng lao động cũng khá đặc biệt so nvới các doanh nghiệp khác ở
chỗ lao động của NHTM là lao động có kỹ năng, lao động được đào tạo ở một trình độ nhất
định, ít ra cũng là trình độ cao đẳng hay đại học như hiện nay.
+ Vốn: NHTM sử dụng đại bộ phận vốn từ nguồn vốn huy động của khách hàng. Có thể

nói chưa có loại hình doanh nghiệp nào có tỷ số nợ trên vốn cao như NHTM.
Trên cơ sở sử dụng các yếu tố nhập lượng hay yếu tố đầu vào đặc thù của quá trình sản
xuất, NHTM tạo ra sản phẩm và dịch vụ đặc thù để cung cấp cho khách hàng. Các sản phẩm và
dịch vụ NHTM có thể cung cấp bao gồm:
+ Các sản phẩm huy động vốn như tiền gởi và chứng từ có giá các loại.
+ Các sẩn phẩm cấp tín dụng như cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay tiêu
dùng, cho vay sản xuất, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, cho thuê tài chính,
+ Các sản phẩm thẻ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ ATM,
+ Các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ chuyển tiền, thanh toán không dfùng tiền mặt,
thanh toán quốc tế,
+ Các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ như các hợp đồng giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, giao
sau, quyền chọn,
Mục đích nhấn mạnh chức năng sản xuất để cho các nhà quản trị NHTM thấy rằng
NHTM cũng giống như các doanh nghiệp sản xuất và điều này có thể làm thay đổi sâu sắc
trong nhận thức chiến lược và quản trị NHTM. Vì có sản xuất mới có sản phẩm và vì có sản
phẩm nên phải chú ý những điểm quan trọng sau đây trong quản trị NHTM:
+ Thứ nhất, cũng như doanh nghiệp, NHTM muốn tồn tại và phát triển thì phải tiêu thụ
được sản phẩm của mình, do vậy cần chú ý đến tiếp thị, bán hàng, khuyến mãi, và thậm chí đến
cả dịch vụ hậu mãi nữa.
+ Thứ hai, cũng như doanh nghiệp, NHTM phải chú ý nghiên cứu phát triển sản phẩm
mới và thiết kế sản phẩm sao cho thỏa mãn tối đa nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
+ Thứ ba, cũng như doanh nghiệp, NHTM phải không ngừng quan tâm đến phát triển và
đổi mới công nghệ ngân hàng, đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay công
nghệ ngân hàng thay đổi rất nhanh chóng. Một sự chậm chạp hoặc thiếu đầu tư công nghệ có
thể dẫn đến tai họa cho NHTM trong thời đại cạnh tranh gay gắt hiện nay.
3. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại:
Chương III của Luật các Tổ chức tín dung nêu ra các hoạt động của NHTM bao gồm:
3.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
+ Nhận tiền gởi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gởi

không kỳ hạn, tiền gởi có ký hạn và các loại tiền gởi khác.
+ Phát hành chứng chỉ tiền gởi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ
chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
+ Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín
dụng nước ngoài.
+ Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
+ Các hình thức huy động vốn khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
3.2. Hoạt động cấp tín dụng
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình
thức khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước như bao thanh toán tài trợ nhập khẩu, tài trợ
xuất khẩu, cho vay thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng, và hạn mức tín dụng dự phòng,
Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
3.2.1. Cho vay
Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
+ Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời
sống.
+ Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
3.2.2. Bảo lãnh
Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp
đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và khả năng tài
chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng
mức bảo lãnh của một ngân hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của
ngân hàng thương mại.
3.2.3. Chiết khấu
Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
3.2.4. Cho thuê tài chính

Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty
cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính
thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính.
3.2.5. Bao thanh toán
Các ngân hàng thương mại triển khai thực hiện bao thanh toán như là một hình thức cấp
tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp như: Bao thanh toán truy đòi (Recource factoring), bao
thanh toán miễn truy đòi (Non - Recource factoring), bao thanh toán ứng trước hay bao thanh
toán chiết khấu, bao thanh toán khi đáo hạn trong phạm vi buôn bán nội địa lẫn quốc tế.
3.2.6. Tài trợ nhập khẩu
Hiện nay, khá nhiền ngân hàng thương mại cung cấp tài trợ xuất nhập khẩu bao trọn gói
để hỗ trợ doanh nghiệp.
Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu nhằm hỗ trợ về tài chính cùng các phương tiện và giấy tờ
liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng mua
bán hàng hóa, bao gồm:
+ Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
+ Cho vay ứng trước một phần để thanh toán cho người bán hay ứng trước tiền thuế nhập
khẩu.
+ Bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
+ Chấp nhận hối phiếu.
+ Cho thuê kho bãi để chứa và bảo quản an toàn hàng hóa nhập khẩu với giá cho thuê
phải chăng (nhờ lợi thế về qui mô số lượng khách hàng của ngân hàng) tại các địa điểm hay các
địa phương khác nhau.
+ Giúp khai báo thuế (thí dụ: lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác nhanh chóng, nhận
lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp, ).
+ Cho vay để thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho nhà xuất khẩu nếu đến hạn mà nhà
nhập khẩu chưa có tiền.
+ Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua bảo
hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo dõi và kiểm tra hóa đơn
chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.

+ Các hổ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp,
3.2.7. Tài trợ xuất khẩu
Các hình thức tài trợ xuất khẩu của các ngân hàng thương mại còn phong phú hơn do các
doanh nghiệp xuất khẩu thường nhận được tài trợ từ các ngân hàng thương mại về các giao
dịch kinh doanh cả trước và sau các thương vụ xuất khẩu, bao gồm:
+ Cho vay thu mua hàng xuất khẩu, mua nguyên liệu để sản xuất, cho vay đầu tư nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm dịch vụ, cho vay bảo trì đối với các dự án chiến lược về
máy móc thiết bị, nhà xưởng ở nước ngoài.
+ Cho vay nộp thuế xuất khẩu.
+ Giúp khai báo thuế (thí dụ: lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác nhanh chóng, nhận
lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp, khấu trừ lại thuế giá trị
gia tăng, ).
+ Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua bảo
hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo dõi và kiểm tra hóa đơn
chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
+ Các hổ trợ cần thiết khác do sự khác biệt về tập quán, luật pháp,
+ Cho thuê kho bãi để chứa và đóng gói hàng hóa xuất khẩu với giá cả phải chăng (do lợi
thế về qui mô số lượng).
+ Cho vay hỗ trợ dịch vụ vận chuyển chuyển giao hàng hóa.
+ Chiết khấu hối phiếu cho nhà xuất khẩu được nhận tiền sớm.
+ Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ.
+ Giúp quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro
không thanh toán của bên mua hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.
+ Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu (ứng trước tiền
hànmg xuất khẩu).
+ Thuận nhận ngân hàng (Ngân hàng chấp nhận thanh toán bằng cách ký chấp nhận hối
phiếu do doanh nghiệp ký phát).
3.2.8. Cho vay thấu chi
Nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng thương mại nước
ngoài, đang mở rộng nghiệp vụ thấu chi đến các khách có mở tài khoản tại ngân hàng của họ.

Khi sử dụng dịch vụ này, mỗi khách hàng được cấp một hạn mức thấu chi khi khách hàng tạm
thời thiếu hụt trong thanh toán. Khách hàng không cần phải thế chấp hay tín chấp.
3.2.9. Cho vay theo hạn mức tín dụng
Khách hàng nộp một bộ hồ sơ vay vốn duy nhất cho mợt hay nhiều món vay vào đầu quí,
ngân hàng thương mại cấp một hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong
một thời gian nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
3.2.10. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
Ngân hàng thương mại cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất
định ngoài hạn mức tín dụng đã được ký ban đầu giữa ngân hàng và khách hàng, áp dụng hạn
mức tín dụng dự phòng khi khách hàng không có đủ vốn vì mức vốn đầu tư cho dự án tăng
thêm, nhu cầu tiêu dùng, mua sắm tăng thêm,
3.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân hàng,
ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. để thực hiện
thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương
mại phải mở tài khoản tiền gởi tại Ngân hàng Nhà nước nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở
chính và duy trì tại đó số dư tiền gởi dự trữ bắt buộc theo qui định. Ngoài ra, chi nhánh của
ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gởi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của ngân
hàng thương mại bao gồm các hoạt động sau:
+ Cung cấp các phương tiện thanh toán.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
+ Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
+ Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
+ Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
+ Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng
trong nước.
+ Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
3.4. Các hoạt động khác

Ngoài các hoạt động truyền thống bao gồm huy động tiền gởi, cấp tín dụng và cung cấp dịch vụ
thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số hoạt động khác,
bao gồm:
3.4.1. Góp vốn và mua cổ phần
Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của
các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo qui định của pháp luật. Ngoài
ra, ngân hàng thương mại còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước
ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh.
3.4.2. Tham gia thị trường tiền tệ
Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ, theo qui định của Ngân hàng
Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
3.4.3. Kinh doanh ngoại hối
Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc
để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
3.4.4. Ủy thác và nhận ủy thác
Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan
đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý.
3.4.5. Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực
thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo qui định của pháp luật.
3.4.6. Tư vấn tài chính
Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách
hàng dưới hình thức tư vần trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.
3.4.7. Bảo quản vật quý giá
Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho
thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo qui định của pháp luật.
II/ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA:
1. Những thành tựu đạt được trong những năm qua:

Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã phát triển nhanh cả
về quy mô và chất lượng. Cùng với Ngân hàng Nhà nước trong việc ổn định tỷ giá, lãi suất và
kiềm chế lạm phát, góp phần làm ổn định kinh tế và tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế ở
mức độ cao. Đặc biệt từ sau khi hội nhập WTO, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã
mở rộng rất nhanh và có những đóng góp quan trọng nhất định đối với công cuộc xây dựng đất
nước, xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia, chăm lo cho đội ngũ doanh nghiệp, góp phần phát triển
các ngành nông nghiệp, công thương nghiệp, dịch vụ.
Không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, ngân hàng thương mại Việt Nam rất chú
trọng trong việc đẩy mạnh các hoạt động liên quan đến thị trường và sản phẩm dịch vụ ngân
hàng hiện đại. Bên cạnh các dịch vụ truyền thống, các NHTM cũng rất cố gắng trong việc đa
dạng hóa các loại hình sản phẩm để cung cấp cho xã hội. Đây là một xu thế tất yếu khi nền
kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập vào thế giới và các ngân hàng trong nước đang phải đối
phó với sức ép cạnh tranh từ bên ngoài. Trình độ công nghệ cũng có những bước cải thiện giúp
hiện đại hoá các phương tiện thanh toán. Hệ thống máy rút tiền tự động ATM đem đến nhiều
tiện ích trong cuộc sống.
Một trong những thành tựu nổi bật của NHTM Việt Nam là đã huy động được hàng nghìn
tỉ đồng để đầu tư vào những chương trình kinh tế trọng điểm có ý nghĩa quan trọng của nền
kinh tế. Nhiều công trình, dự án quan trọng của đất nước được hình thành từ nguồn vốn ngân
hàng (như các dự án về dầu khí, công nghiệp đóng tàu, xi măng, sắt thép, thuỷ điện, ). Đặc
biệt, NHTM đã dành nguồn vốn đáng kể để đầu tư phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát
triển nông nghiệp, nông thôn. Vốn ngân hàng đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, tạo việc làm cho hàng triệu lao động.
Ngân hàng thương mại cũng thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Vốn ngân
hàng đã góp phần vực dậy hàng trăm doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản trở lại kinh
doanh có hiệu quả, đem lại những đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước.
Ngân hàng thương mại cũng chú trọng việc mở rộng, tăng cường hoạt động đối ngoại và
hợp tác quốc tế với các ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới theo xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế. Duy trì tốt quan hệ với các tổ chức tài chính và ngân hàng quốc tế như Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tham

gia Hiệp hội Ngân hàng các nước ASEAN
2. Tình hình Ngân hàng trong năm 2008:
Ngành ngân hàng trong năm 2008 đã trãi qua nhiều biến động khó khăn:
- Lạm phát:
Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan sơ bộ lạm phát năm nay của
Việt Nam là 24%) do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng. Thứ
nhất: họ phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá
cao khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Thứ
hai: Do lãi suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn
hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân hàng. Thứ ba: Do lý do
thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho vay vốn, tiền không được mang ra sử
dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng.
- Cơn bão tài chính Mỹ:
Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải đón nhận tin cơn bão tài chính ở Mỹ.
Nhưng có lẽ nó có ít tác động đến ngành ngân hàng Việt Nam mà nhiều khi còn là tin tốt. Tin
tốt là vì: Khi nhìn thấy sự khủng hoảng của ngành ngân hàng tại Mỹ, các ngân hàng Việt Nam
sẽ suy xét và nhìn nhận lại cách làm ăn của mình. Họ sẽ thận trọng hơn với các khoản cho vay
của mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; họ sẽ đề phòng và miễn dịch với
các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; họ sẽ tập trung vào các
khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai.
- Cạnh tranh giữa các ngân hàng:
Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Càng
ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là có nhiều vốn, có
tiềm lực tài chính và quản lý. HSBC là ngân hàng nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC
vừa được Ngân hàng Nhà nước chính thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước
ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép HSBC mở rộng mạng lưới phân
phối rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng như khách hàng mới. HSBC trở thành ngân
hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước sau
khi nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở
rộng sức ảnh hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng

đối với các ngân hàng nội.
Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này là hiển nhiên nhưng có xu thế mới đó là
việc hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh ATM”. Cầm thẻ ATM của
ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền của ngân hàng Vietcombank bạn vẫn có
thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng tầm hoạt động, khả năng cạnh tranh, sức thu hút khách
hàng hơn là những ngân hàng không nằm trong liên minh.
Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như thế các
ngân hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch vụ, luôn luôn sáng
tạo để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân và các doanh nghiệp.
- Cạnh tranh với thị trường chứng khoán:
Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các
ngân hàng về mặt huy động vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ
gửi tiền nhàn rỗi của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng
khoán đã làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những người dân có tiền
nhàn rỗi họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào
ngân hàng (tuy có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó, các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là
vay mượn các ngân hàng họ còn có cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một
cách tốt để huy động vốn.
Nói đến khó khăn thì cũng cần nhắc đến những dấu hiệu khả quan mà ngành ngân hàng
đã làm được trong năm nay:
Trong năm nay, ngành ngân hàng phải chống chọi với lạm phát và cơn bão khủng hoảng
tín dụng của Mỹ nên chưa có những bước phát triển như mong muốn.
Dấu hiệu khả quan có thể nhận thấy ngay là góp phần cùng với Ngân hàng trung ương
hạn chế lạm phát một cách tích cực và hiệu quả.
3. Một số hạn chế, tồn tại và những vấn đề đặt ra cho NHTM Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay:
Mặc dù đạt những thành tựu, song NHTM cũng còn tồn tại một số hạn chế cơ bản cần
nhanh chóng khắc phục để có thể đứng vững trước “cơn bão tài chính” ở Mỹ và đang có xu
hướng lan rộng ra toàn cầu hiện nay.
Tính từ thời điểm cuối năm 2006, đã có nhiều biến động lớn xảy ra đối với NHTM Việt

Nam. Những biến động này bao gồm cả những chuyển biến tích cực trong giai đoạn chuẩn bị
gia nhập và sau gia nhập WTO, cũng như những hoạt động sôi nổi khác nhờ sự phát triển tốt
của nền kinh tế và sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán trong giai đoạn đó. Tuy
nhiên, có nhiều nguy cơ tiềm ẩn trong những hoạt động này. Một số nguy cơ đã được nhận thấy
khi bước sang năm tài khóa 2008 và đang được để tâm khắc phục, nhưng một số nguy cơ mang
tính căn bản khác hoặc chưa được nhìn nhận, hoặc được nhìn nhận nhưng lại thiếu quyết tâm
và khả năng để khắc phục. Một số vấn đề cần nói đến là:
Sự bùng nổ thành lập ngân hàng mới: Chỉ tính từ nửa cuối năm 2006, Ngân hàng Nhà
nước liên tục nhận được hồ sơ xin thành lập mới ngân hàng với con số thống kê đến hết tháng
11/2007 là 20 bộ. Con số này tiếp tục tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008 và sau đó giảm dần
do chính sách siết chặt quản lý của Chính phủ. Hiện tượng bùng nổ thành lập ngân hàng mới do
một số nguyên nhân như tâm lý đón đầu cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO, hay do sự cởi mở
của Nhà nước sau một thời gian dài quản lý chặt chẽ. Tốc độ phát triển của con số các ngân
hàng mới cũng đồng nghĩa với việc đem lại những xáo trộn trong ngành ngân hàng và sự nảy
sinh những lo ngại về năng lực quản lý và cạnh tranh của các ngân hàng mới.
Tăng trưởng tín dụng nóng rồi sau đó siết chặt tín dụng: Có thể nói, mức độ tăng trưởng
tín dụng trong nửa cuối năm 2007 và vài tháng đầu năm 2008 được xem là “nóng”. Điều đó
cũng dẫn đến tình trạng “nóng” trong các hoạt động đầu tư của xã hội và là một trong những
nhân tố thúc đẩy lạm phát, bên cạnh những yếu tố khách quan khác. Việc tăng trưởng tín dụng
ồ ạt cũng đã nâng nợ xấu tại một số ngân hàng lên một cách rõ rệt, đặc biệt là ở lĩnh vực cho
vay đầu tư với thị trường bất động sản. Tuy vậy, trong những tháng sau đó, Nhà nước đã thực
thi một số biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát cùng một loạt các quyết định quản lý hành chính
nên tăng trưởng tín dụng đã giảm đi.
Được bảo hộ: Hiện nay ngành ngân hàng đang được bảo hộ khá nhiều. Tuy nhiên, cần
phải nhìn nhận một thực tế là, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, sức ép cạnh tranh đến từ
các ngân hàng nước ngoài đang ngày càng gia tăng. Do vậy, phải chuẩn bị đối mặt với sự cạnh
tranh khi bị giảm bảo hộ là việc cần thiết đối với các ngân hàng trong nước hiện nay.
Chất lượng dịch vụ của ngân hàng trong nước còn yếu kém: Hiện tượng nhân viên làm
việc đủng đỉnh trong khi khách hàng đang chờ đợi là hiện tượng còn khá phổ biến tại một số
ngân hàng trong nước. Còn có những ngân hàng yêu cầu khách hàng phải đến rút tiền đúng nơi

gửi, vì thông tin của khách hàng chưa được “post” lên mạng của ngân hàng. Những hạn chế
tương tự như vậy gay nhiều phiền toái cũng như cảm giác không hài lòng cho khách hàng.
Công nghệ lỗi thời: Mặc dù gần đây các ngân hàng trong nước đã đẩy mạnh việc hiện
đại hóa hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng, tuy nhiên hiệu quả của những đầu tư không
đồng đều. Đặc biệt, tại các ngân hàng thương mại nhà nước, việc đầu tư thường được chú trọng
nhiều vào “bề nổi” là các hệ thống thông tin, nhưng lại không tiếp cận được vấn đề cốt lõi là
tạo lập cơ sở nguyên tắc nghiệp vụ và quản trị để tận dụng tối đa những tiện ích do các hệ
thống công nghệ thông tin mang lại.
Khả năng quản lý rủi ro còn yếu kém: Có thể nói, cho đến thời điểm này, đây là một đặc
điểm nổi bật của nhiều ngân hàng Việt Nam. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều
có lịch sử phát triển chỉ khoảng 20 năm (khoảng thời gian quá non trẻ so với con số 158 năm
tuổi của Lehman Brothers- ngân hàng Mỹ vừa bị phá sản). Tiến trình hội nhập vào nền kinh tế
thế giới của kinh tế Việt Nam cũng chỉ chừng ấy năm. Hệ thống pháp luật về phòng ngừa rủi ro
và nghiệp vụ quản trị rủi ro trong ngành tài chính vẫn còn lỏng lẻo và yếu. Nhiều ngân hàng
vẫn chưa chú trọng đầy đủ đến vấn đề quản lý rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường.
Ảo tưởng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế và thị trường bất động sản: Ở Mỹ, phần lớn
những gì ngành tài chính Mỹ đang phải trải qua lúc này đều xuất phát từ khủng hoảng của thị
trường bất động sản và từ đó lan ra các lĩnh vực khác. Trước năm 2007, ở Việt Nam cũng đã có
những dấu hiệu tương tự. Những nỗ lực của Chính phủ trong việc thắt chặt chính sách tiền tệ và
một loạt các biện pháp khác đã giúp ngành ngân hàng không rơi vào vùng mất an toàn trong
việc cho vay đầu tư bất động sản. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi rủi ro đều đã được
loại bỏ. Hiện nay, đã có một số dấu hiệu cho thấy ngành ngân hàng bắt đầu hoạt động “thoáng”
hơn. Do vậy, bảo đảm sự giám sát chặt chẽ nhằm lành mạnh hóa các nguồn vốn đổ vào lĩnh
vực bất động sản là việc vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay có nguyên nhân từ cuộc khủng
hoảng cho vay dưới chuẩn (bắt đầu bằng sự cố “nổ bong bóng bất động sản”. Một trong các hệ
quả của việc này là kéo theo sự mất giá trị của các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp, càng
làm cho thị trường tài chính thiếu vốn trầm trọng.
Đối với Việt Nam, hiện tượng “thổi phồng” giả tạo do những kẻ đầu cơ là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bong bóng bất động sản”. Nếu thị trường bất động

sản vỡ sẽ ảnh hưởng đến các hệ thống dịch vụ khác, trong đó có ngành ngân hàng. Vì vậy, yêu
cầu có một cơ chế giám sát chặt chẽ các hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản và ngành ngân hàng trở nên một yêu cầu cấp thiết.
Tâm lý an toàn giả tạo cũng là một yếu tố gây bất lợi. Ở Mỹ, trong một thời gian dài tồn
tại một tâm lý chung là quá tin tưởng vào độ an toàn của các ngân hàng lớn. Cả khách hàng Mỹ
cũng như giới ngân hàng đều tin tưởng rằng, các ngân hàng lớn, có “tuổi đời” cao luôn được
kiểm soát một cách chặt chẽ và luôn có sự bảo trợ của nhà nước. Tuy nhiên, thực tế đã chứng
minh rằng, những ngân hàng lớn mặc dù có những bộ phận chuyên trách cho công tác quản lý
rủi ro nhưng do tính chất phức tạp của công việc nên vẫn tồn tại những lỗ hổng lớn. Sự tin
tưởng này nhiều khi tạo nên cảm giác an toàn giả tạo cho mọi thành viên, kế cả những thành
viên cấp cao nhất. Mặt khác, sự bảo trợ của nhà nước chỉ có thể thực hiện được nếu quy mô của
khủng hoảng còn nằm trong tầm kiểm soát và nếu nhà nước có khả năng tài chính đủ mạnh.
Tâm lý an toàn giả tạo cũng đang tồn tại tại Việt Nam. Đây là một điều nguy hiểm vì tại
những thị trường mới nổi như Việt Nam thì năng lực giám sát và khả năng xử lý sự cố còn rất
nhiều hạn chế, chưa nói đến khả năng tài chính của chúng ta cũng rất hạn hẹp. Tâm lý của cộng
đồng cũng chưa được thử thách. Do vậy, nếu có sự cố xảy ra với chỉ một trong bốn ngân hàng
thương mại lớn của chúng ta hiện nay thì khả năng xảy ra khủng hoảng dây chuyền là rất lớn.
Các khoản vay trên thị trường liên ngân hàng sẽ khó khăn hơn: Một đặc trưng của ngành
ngân hàng hiện đại là tính liên thông cao, do vậy, từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, sẽ có
thêm nhiều khó khăn đặt ra cho các ngân hàng trong nước do tính liên thông giữa các ngân
hàng. Những khó khăn từ cuộc khủng hoảng tài chính và sự đổ vỡ của hàng loạt các ngân hàng
hàng đầu tại Mỹ chắc chắn sẽ là bài học cho các ngân hàng của Việt Nam. Hiện nay, các ngân
hàng Việt Nam đều chưa có khả năng cạnh tranh giành thị trường quốc tế nên ảnh hưởng của
những gì đang xảy ra tại Mỹ đối với ngân hàng nước ta phần lớn mới chỉ là là những tác động
gián tiếp. Sắp tới, các ngân hàng quốc tế sẽ cơ cấu lại cách thức giao dịch với những ngân hàng
khác theo xu hướng thắt chặt các yêu cầu an toàn, vì vậy, các khoản vay trên thị trường liên
ngân hàng sẽ trở nên khó khăn hơn; chi phí cho các giao dịch liên ngân hàng cũng sẽ tăng cao.
Hiện tại, trong thị trường liên ngân hàng, một số công ty và ngân hàng của Việt Nam đã phải
vay của ngân hàng nước ngoài với lãi suất cao hơn trước.
III/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM DUY TRÌ SỰ PHÁT TRIỂN ỒN ĐỊNH VÀ BỀN

VỮNG CHO NHTM Ở VIỆT NAM:
1. Nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát và quản lý của Nhà nước:
Thực tế cho thấy, sự thiếu minh bạch và thiếu giám sát chặt chẽ là những nguyên nhân
chính dẫn đến tình trạng “bong bóng bất động sản” hay những thông tin thất thiệt trên thị
trường chứng khoán nói riêng, thị trường tài chính nói chung. Những hoạt động của thị trường
chứng khoán và thị trường bất động sản lại là những yếu tố cơ bản dẫn đến sự tăng trưởng
mạnh mẽ hay nguy cơ khủng hoảng tài chính của một nền kinh tế. Vì vậy, khả năng giám sát
thị trường và sự quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng hàng đầu trong vấn đề này.
2. Cần có một cơ chế giám sát rủi ro:
Ngân hàng là một trong những ngành nhiều rủi ro, vì vậy, cần có một cơ chế giám sát rủi
ro. Các sản phẩm của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất sơ khai, nhưng trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các sản phẩm bày sẽ được đa dạng hóa và phát triển rất
nhanh. Vì vậy, Nhà nước cần có một cơ chế giám sát theo kịp với sự biến đổi của thị trường
này, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định của ngành ngân hàng. Trên thực tế, hệ
thống quản lý rủi ro của các ngân hàng trong nước chưa được chú ý một cách thích hợp, đặc
biệt tại các ngân hàng mới thành lập, do áp lực của lợi nhuận và doanh số. Tình hình khả quan
hơn đối với các ngân hàng lớn và có kinh nghiệm hoạt động lâu năm.
Tuy nhiên, trong số đó cũng có ngân hàng lớn như Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Vietinbank), số lượng nhân viên làm công việc giám sát rủi ro chỉ chiếm khoảng 2%. Hiện
nay, do việc kinh doanh của phần lớn các ngân hàng trong nước vẫn chủ yếu dựa vào các loại
hình dịch vụ truyền thống nên chưa có vấn đề gì lớn xảy ra, ngoại trừ một số nợ xấu tập trung ở
lĩnh vực bất động sản và một số lĩnh vực khác. Song tình hình có thể thay đổi rất nhanh trong
tương lai khi các ngân hàng Việt Nam tiếp cận nhiều hơn với thế giới.
Thực tế cho thấy, những ngân hàng lớn của Mỹ như Lehman Brothers hay các công ty
bất động sản như Fannie Mae, Freddie Mac đổ vỡ là do dấn quá sâu vào những nghiệp vụ mang
tính rủi ro quá cao như cho vay thế chấp dưới chuẩn, và quá tin tưởng vào tính bền vững của tổ
chức mà thiếu đi sự giám sát chặt chẽ. Hiện nay, ở nước ta, chưa có cơ quan quản lý dịch vụ tài
chính một cách độc lập, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải làm công việc này. Trước mắt, Ngân
hàng Nhà nước nên có một bộ phận chuyên trách thông tin để chủ động cung cấp những nguồn
tin chính thức và trung thực cho công chúng. Việc giám sát cũng còn nhiều hạn chế, mặt khác,

pháp luật về ngân hàng của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, do vậy, sự tự giác, tự giám sát của
bản thân các ngân hàng càng trở nên quan trọng trong bối cảnh hiện nay.
3. Nâng cao khả năng quản trị và trình độ công nghệ ngân hàng:
Khả năng quản trị và mức độ hiện đại hóa công nghệ là một nhân tố quan trọng. Nếu
quản lý rủi ro góp phần ngăn chặn những đổ vỡ đột ngột thì khả năng quản trị và mức độ hiện
đại hóa công nghệ sẽ có ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh. Do các ngân hàng Mỹ chưa
có sự hiện diện mạnh mẽ tại Việt Nam, do vậy sẽ không có một khoảng trống đáng kể nào tại
thị trường hiện nay xảy ra do sự đổ vỡ các ngân hàng tại Mỹ. Điều đó có nghĩa là, sẽ không có
những xáo trộn lớn với việc một số ngân hàng chớp thời cơ để giành giật thị trường. Tuy nhiên,
nếu các ngân hàng trong nước không nâng cao được khả năng quản trị và hiện đại hóa công
nghệ thì những ưu thế có được do được bảo hộ sẽ dần mất đi. Và sẽ càng khó khăn hơn cho các
ngân hàng trong nước khi các ngân hàng nước ngoài (như HSBC hay Standad Chatered Bank)
đã bắt đầu được Chính phủ nước ta cấp phép mở chi nhánh tại Việt Nam, nếu như những hạn
chế này không được cải thiện. Nâng cao chất lượng dịch vụ là yếu tố quan trọng đối với bất cứ
một lĩnh vực kinh doanh nào, và ngành ngân hàng không phải ngoại lệ.
4. Cần sáp nhập các ngân hàng nhỏ, lẻ, yếu kém:
Sự sáp nhập này sẽ có các điều lợi sau:
Thứ nhất: Củng cố hệ thống ngân hàng trong nước.
Thứ hai: Việc quản lý vĩ mô của Chính phủ qua các ngân hàng sẽ dễ dàng hơn vì có ít các
ngân hàng để quản lý hơn.
Thứ ba: Tạo sức mạnh mới cho ngân hàng sáp nhập, mở rộng về qui mô và tầm hoạt
động.
5. Phát huy vai trò tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng:
Thực tế vừa qua cho thấy, ảnh hưởng của tin đồn và sự mất niềm tin rất lớn, vì vậy, khi
có những biến động trên thị trường tài chính, các phương tiện truyền thông đại chúng phải là
nơi cung cấp những nguồn tin trung thực, chính xác và kịp thời, tránh tình trạng người dân và
các nhà đầu tư không biết dựa vào thông tin nào là “chuẩn” nên nghe ngóng và tin theo những
tin đồn thất thiệt. Trong một số trường hợp, sự thiếu trung thực của một số phương tiện thông
tin đại chúng đã khiến người dân mất niềm tin, dẫn đến tình trạng sau đó họ hành động ngược
lại với những nguồn tin này. Việc này đặc biệt quan trọng khi có những biến động xảy đến với

ngành ngân hàng. Cần phải tránh xảy ra tình trạng khách hàng nghe tin đồn và kéo nhau đến rút
tiền hàng loạt, khi ấy, sự đổ vỡ của ngân hàng là khó tránh khỏi, nếu không có những “phao
cứu trợ” đủ mạnh.
Xuất phát từ thực tế này, cần sớm có một chế tài mạnh, vừa bảo đảm thông tin đầy đủ,
trung thực và kịp thời, vừa tránh được tình trạng “đầu cơ thông tin” để trục lợi, “thông tin nội
gián” , làm người dân khó phân biệt giữa thông tin rò rỉ, nội gián với những thông tin “vỉa hè”
thất thiệt, nhất là trong thời kỳ thị trường vốn, thị trường chứng khoán đang ngày càng phát
triển và trở thành kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế nước nhà.

×