Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

VỆ SINH LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP part 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.67 KB, 30 trang )


28
DỊCH TỄ HỌC TRONG Y HỌC LAO ĐỘNG

1. VẤN ĐỀ CHUNG
sTừ những năm 80 của thế kỷ này, dịch tễ học đã từng bước phát huy vai trò to
lớn của nó trong lĩnh vực y học lao động. Các phương pháp dịch tễ học được sử dụng
rộng rãi để mô tả tình trạng sức khoẻ trong cộng đồng người lao động ở các loại hình
lao động đặc thù, như sự mắc bệnh có liên quan đến công việc, các tác hạ
i nghề nghiệp
đặc trưng, thử nghiệm các giả thiết về mối quan hệ nhân quả hay đánh giá sự can thiệp.
Nghiên cứu dịch tễ học trong y học lao động giúp chúng ta đánh giá được mức
độ tác hại của các tác hại nghề nghiệp và chứng minh rõ ràng các quan hệ nhân quả
trong vệ sinh lao động và bệnh nghề nghiệp đồng thời cũng khắc phục dần được những
sai sót hoặc ngộ nhậ
n một cách đơn thuần khi có nhiều vấn đề tổng hợp hay tác dụng
nhiều chiều lên sức khoẻ người lao động. Trong nghiên cứu về y học lao động một số
yếu tố cần được tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống như sau:
- Mô tả đặc điểm chung về môi trường lao động.
- Mô tả đặc điểm các yếu tố tiếp xúc (E = expose) hay các yếu tố nguy cơ
đối với
sức khoẻ người lao động.
- Xác định thời gian và cường độ tiếp xúc của người lao động đối với các yếu tố
môi trường, các tác hại nghề nghiệp.
- Định lượng hoặc định tính các vấn đề sức khoẻ bệnh tật ở người lao động trong
môi trường.
Đánh giá được sự tác động tương hỗ giữa các biến số trong môi trường (các yếu
tố
nguy cơ) với vấn đề sức khoẻ tương ứng ở người lao động (tìm ra mối liên quan).
Trong quá trình nghiên cứu, người cán bộ y tế lao động cần thiết phải nắm được
một số kiến thức chuyên môn sau đây:


- Bản chất và khả năng tác động của các yếu tố tác hại nghề nghiệp có trong lao
động (hoá học, lý học, sinh vật học, Ergonomie và tâm lý học ) trong đó bao gồm tác
hại riêng rẽ, t
ổng hợp hay đa phương hoặc tác động nhiều chiều.
- Phương pháp lâm sàng và cận lâm sàng bệnh nghề nghiệp.
- Phương pháp thu nhập số liệu, thông tin từ các nguồn có thể có được (y tế cơ
sở, bệnh viện ).

II. MỘT SỐ LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU THÔNG DỤNG
2.1. Phương pháp

29
Về mặt phương pháp nghiên cứu người ta cần phải thiết lập được mối liên quan
hay kết hợp (nếu có) giữa một yếu tố phơi nhiễm cần nghiên cứu (E) và sự phân bố
bệnh tật hoặc tử vong (D), song cũng khống chế được sự có mặt của các yếu tố bên
ngoài (CF và EM) có khả năng làm nhiễu mối quan hệ giữa E và D.

Một nghiên cứu thông thường người ta có thể tiến hành theo sơ đồ sau:

Trong thực tế người ta thường thấy có sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác hại
nghề nghiệp lên cơ thể nên muốn làm rõ được người ta còn phải lưu ý các vấn đề sau:
- Ảnh hưởng của một nhóm các yếu tố lên sức khoẻ, khả năng lao động hoặc
chức năng.
- So sánh sự biến đổi các yếu tố này với các yếu tố khác không có trong nghiên
cứu.
- Các xu hướng có thể tác động đến những vấn đề sức khoẻ, bệnh tật trong
nghiên cứu.
- So sánh từng yếu tố và giải thích được những yếu tố liên quan đến sự tác động
lên những sự kiện nghiên cứu.
- Xem xét những phương thức tác động qua lại giữa các yếu tố tác hại nghề

nghiệp và các rối loạn bệnh lý hoặc bệnh nghề nghiệp (tương quan và hồi quy). Trong
quá trình nghiên c
ứu khi gặp những vấn đề phức tạp như thế này là bình thường nhưng
để đáng giá nó không phải ai cũng có trình độ tính toán về mặt toán học để có thể minh
chứng được chuẩn xác, do vậy người ta đưa ra một loại hình nghiên cứu nhân quả đơn
giản hơn dễ áp dụng trong thực tế nghiên cứu y học lao động và bệnh nghề nghiệp
bằng cách chia nhóm các yếu tố tiếp xúc, các yếu t
ố nguy cơ E+ và E- đối với tính chất
“bệnh” được ký hiệu là D+ và D-
Vậy trên mẫu nghiên cứu chúng ta không chỉ có hai nhóm mà thường có nhiều
nhóm cơ bản và nhóm phụ. Kết quả thu được của mỗi nhóm phụ được đưa vào một
bảng tiếp liên (bảng 2 x 2) hoặc hơn (nhiều hàng nhiều cột).

30

m1 : Số người bị bệnh m0: Số người không bị bệnh
n1: Số người có tiếp xúc n0: Số người không tiếp xúc
a: Số người tiếp xúc bị bệnh b: Số người tiếp xúc không bị bệnh
c: Số người không tiếp xúc bị bệnh d: Số người không tiếp xúc không bị bệnh

Trước khi nghiên cứu, thường phải có một giả thuyết là tiếp xúc đó gây bệnh
tương ứng. Nhìn vào bả
ng 2 x 2 trên, ta phải thấy a và d lớn hơn hẳn theo lẽ thường và
tỷ suất chênh (OR) lớn hơn 1, OR: ad/cb > 1, nếu yếu tố nguy cơ là có thật.
Nếu tỷ suất chênh càng lớn thì giả thiết này đưa ra càng có lý.
Nếu không sử dụng mô hình dịch tễ học, thường người ta chỉ tính tỷ lệ mắc bệnh
của nhóm tiếp xúc, hoặc tốt hơn nữa là nhóm chính rồi chia hai tỷ lệ này với nhau
(cách làm trên chưa hoàn chỉ
nh).
2.2. Các nghiên cứu mô tả

Giống với cách làm trước đây chúng ta thường mô tả tình hình mắc một bệnh,
nhóm bệnh theo các nhóm công nhân có tuổi nghề khác nhau, ở những mức tiếp xúc
khác nhau, ở các bộ phận sản xuất khác nhau Như vậy chưa đủ để trả lời câu hỏi tại
sao có sự khác nhau giữa nhóm này và nhóm kia. Mô tả sự phân bố bệnh tật trong các
nhóm khác nhau cho phép đưa ra một nhận xét về càn nguyên. Nhà dịch tễ học coi mô
t
ả so sánh là giả thuyết căn nguyên thôi. Nhiều khi chỉ mới nghiên cứu mô tả đã cho
kết luận chắc chắn về căn nguyên gây bệnh là chưa đủ căn cứ.
2.3. Các nghiên cứu phân tích hay nghiên cứu tìm nguyên nhân
Để trả lời câu hỏi (chứng minh giả thuyết) liệu có phải E gây ra D không, có hai
cách chính là tìm xem nếu có E hoặc E càng lớn, càng nhiều thì D càng nặng, càng
nhiều người mắc. Ví dụ: Khi muốn chứng minh tiếp xúc với nóng gây cao huyết áp ta
phải trả l
ời được hai câu hỏi: (l) có phải tiếp xúc với nóng càng lâu ngày tỷ lệ cao
huyết áp càng tăng và (2) có phải những người cao huyết áp thường là những người có
tiếp xúc với nóng nhiều hơn không.
Để trả lời câu hỏi dạng (l) người ta sử dụng các nghiên cứu nhóm. Đối với câu
hỏi dạng (2) người ta thường dùng nghiên cứu bệnh - chứng.
2.3.1. Nghiên cứu nhóm

31
Mô hình các loại nghiên cứu này như sau:
Trong nghiên cứu nhóm có nghiên cứu so sánh diện cắt ngang và nghiên cứu
nhóm thuần tập cohort (hồi cứu, tương lai).
Nghiên cứu so sánh diện cắt ngang: Số liệu về E+, E-, D+, D- do thu thập trong
cùng một giai đoạn thời gian ngắn. Nghiên cứu này cho kết quả kém chính xác nhưng
rẻ tiền, nhanh và nếu có nhiều nghiên cứu tương tự cho kết quả giống nhau sẽ cho ta
kết luận khá chính xác.

Nghiên cứu được tiến hành trên hai nhóm chính: Có tiếp xúc với bụi và không

tiếp xúc với bụi. Từ các nhóm chính này, chia ra các nhóm phụ, nhóm phụ của nhóm
phụ theo các yếu tố nhiễm (ví dụ: hút thuốc lá, giới tuổi). Tổ chức khám phát hiện
viêm phế quản mạn tính: tổng số mắc, tính gánh nặng tiếp xúc với bụi (lấy nồng độ bụi
lúc nghiên cứu nhân với tuổi nghề) kết quả của từng cặp nhóm ph
ụ đưa vào một bảng
tiếp liên (l) và tính tỷ suất chênh riêng cho từng bảng kết quả đó (ad/ bc).
2.3.2. Nghiên cứu các nhóm thuần tập cohort: D và E lấy trong những thời
điểm khác nhau:
Khác với nghiên cứu diện cắt ngang (cần nhiều thời gian), nghiên cứu dạng này
thu nhập số liệu về E và D trong một khoảng thời gian dài về trước (nghiên cứu hồi
cứu) hoặc trong thời gian vài tháng, năm tới (nghiên cứu tương lai). Cách tổ ch
ức
giống nghiên cứu diện cắt ngang, số bệnh nhân được tính bằng tổng số mới mắc (hàng
năm hoặc hàng tháng), như sơ đồ ở phần 2.3.1 song có thể theo hai chiều đi và ngược
lại (vấn đề chính là xuất phát điểm nghiên cứu là từ yếu tố nguy cơ)

32

Nghiên cứu thuần tập hồi cứu ngược lại là tìm hai nhóm tiếp xúc và không tiếp
xúc với yếu tố nguy cơ sau đó khai thác ngược lại tình hình bệnh tật có hoặc không để
đánh giá.
2.3.3. Nghiên cứu bệnh chứng (ca bệnh đối chứng)
Xuất phát điểm từ các ca bệnh, đi tìm xem có phải người bệnh tiếp xúc với độc
hại nhiều hơn không.
Sơ đồ

Đây là nghiên cứu hồi cứu, thích hợp với các bệnh ít gặp. Kết quả của từng
nhóm, dưới nhóm cũng cho vào bảng tiếp liên (l). Chỉ số nguy cơ được tính gần đúng
qua tỷ suất chênh OR = ad/ bc.
Khi tính toán các chỉ số nguy cơ, cần tính χ

2
, nếu sự khác biệt giữa các nhóm
không có nghĩa thống kê thì các chỉ số có nguy cơ tính được có cao đến đâu cũng
không có ý nghĩa (kiểm định).
2.4. Nghiên cứu can thiệp
Sau khi tìm được nguyên nhân, cần loại bỏ nguyên nhân đó đề phòng bệnh. Để
đánh giá hiệu quả của một loạt các giải pháp, người thực hiện các nghiên cứu can thiệp
có mô hình “so sánh trước – sau”. Ví dụ, đánh giá hiệu quả phòng bệnh viêm mũi họng
cấp tính do ti
ếp xúc với bụi, bằng cách phun sương và bao bọc nguồn bụi.

33
Trước hết phải thu nhập số liệu về nồng độ bụi và tỷ lệ công nhân bị viêm mũi
họng cấp tính trong một tháng, trước khi áp dụng các biện pháp trên. Sau đó đưa vào
áp dụng các biện pháp chống bụi. Sau một thời gian vài tháng, hoặc vài năm, đo bụi và
khám mũi họng cho công nhân trong một tháng. Kết quả sẽ thể hiện không chỉ qua
nồng độ bụi mà còn giảm tỷ lệ bệnh m
ũi họng cấp tính (số mắc hàng tháng). Cũng
bằng cách này, so sánh giữa các biện pháp khác nhau sẽ tìm được cách nào vừa đỡ tốn
kém vừa có hiệu lực. Nghiên cứu này cần được đánh giá bằng chỉ số hiệu quả.

III. DỊCH TỄ HỌC TRONG Y TẾ LAO ĐỘNG Ở CÁC TUYẾN CƠ SỞ
Nói chung vấn đề nghiên cứu dịch tễ học đều xuất phát từ các đề xuất về yếu t

tác hại nghề nghiệp và vấn đề sức khỏe người lao động trong cộng đồng. Yêu cầu
nghiên cứu có rất nhiều song một số vấn đề mà cơ sở y tế lao động xí nghiệp cần phải
làm thường xuyên là:
- Điều tra sức khoẻ bệnh tật nói chung của người lao động (các chỉ số tiếp xúc và
sinh học, bệnh tật )
- Xác định các tác hại nghề nghiệ

p hiện có tại cơ sở (các chỉ số môi trường và lao
động).
- Đánh giá mối liên quan giữa môi trường và sức khoẻ.
- Đề xuất những vấn đề về sức khỏe và môi trường ưu tiên
Cán bộ y tế cơ sở cần thu thập thông tin cơ bản và cần thiết thông qua ghi chép
và tìm hiểu quan sát.
Các số liệu về sự tiếp xúc: có những tác hại gì theo đơn vị, quy trình sản xuất, số
ng
ười tiếp xúc, thời gian tiếp xúc
- Các số liệu về bệnh tật như trên theo bệnh hoặc chứng bệnh, sổ khám nghỉ ốm,
chết, tai nạn lao động chi phí thuốc men và bảo hiểm lao động
- Lưu trữ hồ sơ y tế lao động để sử dụng cho các mục đích sau này.

34
VI KHÍ HẬU TRONG SẢN XUẤT

I. ĐẠI CƯƠNG
Vi khí hậu (VKH) trong sản xuất là một khái niệm về điều kiện khí tượng hay
các yếu tố vật lý môi trường sản xuất như nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió và bức xạ Vi
khí hậu trong sản xuất chịu sự chi phối của quy trình sản xuất và thời tiết thiên nhiên ở
khu vực tại thời điểm đó. Vi khí hậu trong sản xuấ
t mang tính đặc thù và ảnh hưởng
tới sức khoẻ con người do tác động lên cơ thể người thông qua các phản ứng sinh lý,
sinh hoá của cơ thể. Có 3 loại hình VKH trong sản xuất:
- Vi khí hậu ngoài trời
- Vi khí hậu nóng
- Vi khí hậu lạnh
Vi khí hậu ngoài trời mà nông dân, thợ rừng phải tiếp xúc là điều kiện môi
trường bình thường. Ở nước ta do phát triển kỹ nghệ đông lạnh còn ít nên số người
tiếp xúc chưa nhi

ều.
Phần lớn sản xuất công nghiệp ở nước ta có môi trường là môi trường lao động
nóng, có số người tiếp xúc từ 20-30% trong tổng số người lao động. Hàng năm số
người bị các bệnh đo môi trường lao động nóng gây nên rất cao đặc biệt là suy giảm
sức khoẻ nghỉ việc do ốm đau, tai nạn. Các yếu tố vi khí hậu đặc thù trong lao động
nóng bao gồm cả trong và ngoài xưởng máy, thường là có tác động liên h
ợp với đặc
điểm là phụ thuộc vào bức xạ.
1.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ của bất cứ một vật nào đều biểu thị mức độ làm nóng của vật đó và thay
đổi tuỳ theo lượng nhiệt năng bên trong. Nhiệt là một thứ động năng luôn luôn truyền
từ vật nóng nhiều sang vật ít nóng hơn, tiếp tục truyền nhiệt tới khi nhiệt độ c
ủa hai vật
được thăng bằng. Việc truyền nhiệt có 3 hình thức: dẫn nhiệt, đối lưu và bức xạ. Dẫn
nhiệt là trực tiếp truyền nhiệt từ vật này sang vật khác. Đối lưu và truyền nhiệt qua
không khí. Nhiệt lượng truyền bằng hình thức đối lưu trong một đơn vị thời gian có
thể tính theo công thức Nguồn:
Q = KS (T –T
1
)
T : Nhiệt độ của vật làm nóng.
T
1
: Nhiệt độ không khí xung quanh
S : Diện tích của vật thể
K : Hệ số truyền nhiệt.

35
1.2. Bức xạ
Đặc điểm cơ bản của vi khí hậu nóng trong sản xuất là bức xạ nhiệt. Theo quan

niệm gần đây thì bức xạ là luồng điện từ không gian, tức là luồng các hạt cơ bản, luồng
lượng tử (quan tum) trong không gian. Giữa năng lượng lượng tử và số rung động có
một quan hệ (về lượng) nhất định, theo công thức Franki.
E = HY
E : năng lượng của l
ượng tử
V : Số rung động
H : Hằng số lượng tử bằng 6,547 x 10
27
erg/ giây.
Như vậy số rung động càng nhiều hoặc luồng sóng càng ngắn (luồng sóng tỷ lệ
nghịch với số rung động) thì năng lượng bức xạ càng nhiều.
Có rất nhiều loại bức xạ khác nhau:
- Tia hay sóng điện từ (sóng Hertz) thường gặp trong công trình vô tuyến điện.
- Tia ngoại đỏ (hồng ngoại)
- Tia thấy được.
- Tia ngoại tím (cực tím).
Một số loại bức xạ khác nh
ư rơngen, phóng xạ, tia vũ trụ.
Khi tác động tới sinh vật, những bức xạ sóng ngắn vì nhiều năng lượng lượng tử
thường có tác dụng sinh vật học mạnh hơn tia bước sóng dài. Trong khi đó các tia bức
xạ sóng dài lại có tác dụng sinh nhiệt mạnh hơn.
Bức xạ của vật được làm nóng hoặc bức xạ nhiệt có đặc điểm là quang phổ liên
tục, tổng năng l
ượng bức xạ của từng phần quang phổ tuỳ theo nhiệt độ tuyệt đối của
vật bức xạ (vật được hun nóng). Bảng sau đây thể hiện vấn đề này.
Nhiệt độ 500
0
500 - 1.200
0

1.200 - 1.800
0
2.000 - 4.000
0

Quang phổ
Tia ngoại đỏ sóng
dài
Tia ngoại đỏ sóng
dài. Tia thấy được
r

t y
ế
u, mới đ

u đỏ
rồi trắng.
Tia ngoại đỏ sóng ng

n.
Tia thấy được r

t sáng.
Tia ngoại tím chỉ có ở
1500-2000
0

Tia ngoại đỏ.
Tia thấy được.

Tia ngoại tím
nhiều
Nguồn
nhiệt
Ống hơi nước nhà
máy điện, các loại
lò, các bộ phận sản
xuất hoá chất.
Mặt trong các lò.
Lò rèn th

i nóng.
Lửa kim loại th


lỏng.
Kim loại thể lỏng. Thuỷ
tinh thể lỏng.
Lò luyện các
kim loại khó
nóng chảy hoặc
phản xạ


36
1.3. Sự thay đổi và chênh lệch của nhiệt độ và bức xạ nhiệt
Trong sản xuất, cường độ bức xạ nhiệt hay nhiệt độ không khí đều luôn luôn thay
đổi, ngay ở cự ly rất ngắn (ở các điểm, chiều cao khác nhau trong phân xưởng). Trong
các buồng có nguồn bức xạ mạnh (xưởng luyện kim, lò thuỷ tinh ) thường thấy sức
nóng giữa mặt trước và sau công nhân chênh lệch rất nhiều. Thí dụ ở

đầu máy xe lửa,
nhiệt độ ngang đầu và ngang bàn chân hay ở phía lưng có thể chênh lệch tới 20
0
C.
Ngoài ra, điều kiện khí tượng còn thay đổi từng giây, từng phút, thí dụ trước và trong
lúc mở cửa lò, xả than ra bãi từ lò
1.4. Độ ẩm
Trong sản xuất công nghiệp, những địa điểm sau đây thường có độ ẩm cao: hầm
mỏ kiểu ướt, phân xưởng nhuộm hay phân xưởng kẻo sợi và dệt vải ở các xí nghiệp
dệt, các nhà máy giấy, thuộc da, xà phòng, đường
Khi độ ẩm cao và không khí ở độ
cao trên mặt đất cũng như ở các bộ phận khác
ở nơi làm việc đều ẩm ướt. Nếu độ ẩm tuyệt đối rất cao, không khí đã bị hơi nước làm
bão hoà quá độ, hơi nước sẽ đọng lại thành sương mù rồi rơi xuống, nếu gặp bề mặt
lạnh, như nền nhà, sẽ tụ lại thành giọt to hơn như đổ mồ hôi ở n
ền nhà hoặc nước ở
trần hầm mỏ, nhà nhuộm
1.5. Gió (vận tốc lưu chuyển của không khí)
Ở các phân xưởng có nguồn phát nhiệt mạnh, về mùa đông, nếu có nhiều không
khí lọt qua lỗ thông hơi hay qua cửa ra vào phân xưởng, không khí sẽ lưu chuyển
mạnh. Ở một số trường hợp có thể sử dụng luồng không khí để làm cho cơ thể toả
nhiệt được dễ dàng, thoải mái và gi
ữ gìn sức khoẻ cho công nhân, thí dụ “tắm không
khí” thông gió thải nhiệt

II. SỰ ĐIỂU HOÀ THÂN NHIỆT
2.1. Sự thăng bằng nhiệt độ
Thân nhiệt của người không thay đổi theo nhiệt độ bên ngoài và trong điều kiện
bình thường. Thân nhiệt thăng bằng nghĩa là thu và toả nhiệt hoàn toàn ngang nhau.
Như vậy cơ thể không tích trữ nhiệt, cũng không toả ra nhiều nhiệt lượng thừa, cơ thể

không nóng và cũ
ng không lạnh, luôn ở 37
0
C. Trong quá trình lao động cơ chế sinh lý
đảm bảo cho trao đổi nhiệt giữa cơ thể và ngoại cảnh được tiến hành thuận lợi, duy trì
nhiệt độ cơ thể ổn định không bị nhiệt độ bên ngoài chi phối gọi là điều hoà thân nhiệt.
Sự điều hoà thân nhiệt được thực hiện dưới sự điều chỉnh của trung tâm điều hoà thân
nhiệt nằm ở vùng dướ
i đồi. Với sự điều chỉnh này sẽ có hai phương thức điều nhiệt
được thực hiện đó là phương thức vật lý (các hình thức toả nhiệt) và phương thức hoá
học (sự tăng sinh năng lượng và giảm sinh năng lượng). Trong những điều kiện khác
nhau các phương thức điều nhiệt cũng khác nhau. Điều hoà bằng phương thức hoá học

37
thường chỉ thích hợp trong điều kiện lạnh. Trong môi trường nóng cơ thể không thể
giảm sinh nhiệt và giảm các phản ứng tiêu hao năng lượng được.
2.2. Phương thức lý học (các hình thức toả nhiệt)
Các hình thức toả nhiệt gồm: truyền dẫn và đối lưu, bức xạ, bốc hơi nước qua da,
phổi và niêm mạc đường hô hấp.
Người ta cảm thấy dễ chịu trong khi tổ
ng số nhiệt lượng do cơ thể sinh ra có 30%
toả theo cách truyền dẫn và đối lưu, 45% theo cách bức xạ và 25% theo hơi nước, 3-
5% trong số nhiệt toả theo cách truyền dẫn dùng để làm nóng không khí hít vào và các
thức ăn, nước uống. Lớp không khí tiếp xúc với thân thể và mặt trong quần áo và lớp
không khí tiếp xúc với mặt ngoài quần áo có nhiệt độ cao hơn nhiệt độ không khí (khi
nhiệt độ bên ngoài thấp hơn nhiệt độ da).
2.2.1. Bứ
c xạ nhiệt và tác dụng của bức xạ nhiệt
Nhiệt độ của tường sàn, bề mặt thiết bị, nguyên liệu, thành phẩm đều có liên
quan với toả nhiệt theo cách bức xạ và chỉ khi nào nhiệt độ xung quanh cao hơn cơ thể

mới không toả nhiệt theo cách bức xạ. Khi đánh giá ý nghĩa của các nguồn bức xạ, cần
xem xét đến mức độ xuyên thấu của các tia ở trong tổ ch
ức và mức độ hấp thụ tia của
tổ chức. Đối với da người, tia đỏ của quang phổ thấy được và tia ngoại đỏ sóng ngắn
có sức xuyên thấu mạnh nhất khi đó cảm giác nóng, chỉ thấy ở mặt ngoài da nếu phản
ứng của da đối với tác dụng bức xạ của tia ngoại đỏ sóng ngắn bị lớp sau của da hấp
thụ. Như vậy,
đối với cơ thể thì không những phải xét cường độ của bức xạ mà còn cả
thành phần quang phổ của bức xạ.
Khi đánh giá tác dụng sinh lý học của bức xạ trong điều kiện cụ thể, cần xét đòng
bức xạ ở nơi làm việc.
- Cường độ lao động chân tay, tính chất quần áo, có đối lưu của luồng không khí
thế nào.
- Thời gian bức xạ
: bức xạ liên tục hay không (vì bức xạ chỉ ngừng vài giây cũng
có tác dụng rất tốt đối với sự điều hoà thân nhiệt).
Nhiệt bức xạ có thể hấp thụ, có tác dụng toàn thân và tác đụng cục bộ. Tác dụng
toàn thân quyết định bởi nhiệt lượng đã hấp thụ và sức chịu đựng của cơ thể. Việc toả
nhiệt tiến hành trên khắp bề m
ặt thân thể, có bức xạ chỉ tác dụng vào một vài bộ phận
của cơ thể. Tính chất ấy của bức xạ và thời gian bức xạ ngắn cắt nghĩa tại sao cơ thể
điều hoà một cách tương đối với những bức xạ nhiệt thường thấy trong điều kiện sản
xuất (vài calo/ cm
2
/ phút).
Khi bức xạ tia ngoại đỏ gây tác dụng cục bộ đối với công nhân thì nhiệt độ ở chỗ
da bị bức xạ sẽ tăng rõ rệt. Nếu bức xạ chỉ vào khoảng 1,0 - 1,5 calo/ cm
2
/ phút thì
nhiệt độ vùng lân cận chỗ da bị bức xạ không tăng. Nhưng nếu cường độ bức xạ tăng,

chỗ da bị bức xạ nóng lên thì tổ chức ở lớp sâu và máu cũng nóng lên. Nếu nhiệt độ

38
bức xạ quá mạnh, tác dụng lâu, sự điều hoà thân nhiệt sẽ gặp trở ngại và thân nhiệt
tăng.
Tác dụng cục bộ của nhiệt bức xạ đối với da còn biểu hiện ở cảm giác chủ quan
từ mức nóng ẩm tới bỏng rát không chịu nổi.
Calo 1 cm
2
/phút Cường độ bức xạ đối với cảm giác chủ quan
04 - 0,8
Yếu, có thể chịu đựng vô thời hạn.
0,9 -1,3
Yếu vữa, có thể chịu đựng 3 - 5 phút
1,3 -2,3
Vừa có thể chịu đựng 40 - 60 giây
2,4 – 3,0
Cao vừa, có thể chịu đựng 20 - 30 giây
3,1 -4,0
Cao, có thể chịu đựng 12 - 24 giây
4,1 - 5,0
Mạnh, có thể chịu đựng 8 - 10 giây
> 5
Rất mạnh, có thể chịu đựng 2 - 5 giây

2.2.2. Đối lưu và dẫn truyền
Hiện tượng đối lưu và dẫn truyền nhiệt trong môi trường lao động nóng phụ
thuộc nhiều vào nhiệt độ môi trường, cụ thể là sự chênh lệch nhiệt độ không khí và
nhiệt độ da của người lao động. Nhiệt độ không khí càng thấp hơn nhiệt độ da thì
phương thức này càng hiệu lực. Ngược lại nhiệt độ không khí càng cao gần hoặc cao

hơn nhi
ệt độ da thì tác động sẽ ngược lại làm cho cơ thể dễ tích nhiệt.
2.2.3. Tác dụng của sự bốc hơi và độ ẩm
Nước bốc hơi qua mặt ngoài da và phế bào để điều hoà thân nhiệt. Ở nhiệt độ
bình thường, người ta trung bình thở ra trong một ngày đêm 275 - 350 g hơi nước, số
hơi nước đó tiêu hao 150 - 200 Kcal nhiệt lượng trở lên. Thông thường lại mồ hôi hoặc
nước
ở bề mặt cơ thể ta muốn chuyển thành hơi nước bay đi nó phải thu của cơ thể ta
một nhiệt lượng là 0,58 Kcal. Như vậy trong lao động nóng chỉ mất 2 lít mồ hôi lượng
nhiệt toả đi đã hơn 1000 Kcal. Khi lao động chân tay, lượng không khí qua phổi tăng,
làm cho nhiệt lượng toả qua phổi cũng tăng. Khi nhiệt độ không khí cao, cũng có hiện
tượng như trên ở mặt ngoài đa, hơ
i nước không ngừng bốc ra do kết quả hoạt động của
các tuyến mồ hôi. Ở nhiệt độ bình thường và nếu không lao động chân tay nặng, thì số
nước bốc hơi qua da trung bình là 600ml/ ngày đêm. Số nhiệt toả theo hơi nước bốc ra
là 14,55 - 22,50 Kcal/ giờ. Khi nhiệt độ không khí tăng thì mồ hôi chảy ra cũng tăng.
Số là vì đoạn thần kinh cảm giác trong da bị nhiệt kích thích, đồng thời trung tâm tiết
mồ hôi ở
tuỷ sống (và dưới vỏ não) cũng bị máu tương đối nóng kích thích trực tiếp và
tiết mồ hôi do phản xạ.
Đối với việc toả nhiệt theo cách bốc hơi, ảnh hưởng của độ ẩm tương đối mạnh
hơn độ ẩm tuyệt đối. Như trên đã trình bày, việc chảy mồ hôi trực tiếp đã bị ảnh hưởng
của nhiệt độ không khí và mứ
c bão hoà của hơi nước trong không gian chứ không do

39
độ ẩm tuyệt đối quyết định (vì có nhiều mồ hôi bốc ra ngoài bề mặt thân thể được che
kín). Nói một cách khác, nhiệt toả theo cách bốc hơi qua da quyết định bởi hiệu số bão
hoà sinh lý của độ ẩm.
Số nước bốc hơi qua mặt ngoài phế bào cũng do hiệu số bão hoà của độ ẩm quyết

định, khi nhiệt độ của máu và không khí trong phế bào cao hơn nhiệt độ của da. Nhiệt
độ không khí cao, thì độ ẩm tương đối đóng vai trò quyết định. Khi độ ẩm tương đối
cao thì thường có hiện tượng chảy nhiều mồ hôi. Thí dụ, trong điều kiện yên tĩnh, nếu
độ ẩm tương đối là 22% thì nhiệt độ 80
0
mới làm chảy mồ hôi, nhưng nếu độ ẩm tương
đối là 60, thì nhiệt độ 25-26
0
đã làm chảy mồ hôi. Trong trường hợp nhiệt độ không
khí cao hơn nhiệt độ da, việc toả nhiệt bằng truyền dẫn và bức xạ hầu như hoàn toàn
đình chỉ (vì các vật thể xung quanh cũng đã có một nhiệt độ tương đương), lúc đó việc
toả nhiệt chỉ dựa vào cách ra mồ hôi, cho nên đôi khi lượng mồ hôi trong một ngày lao
động có thể lên tới 10 lít. Trong điều kiện đó,
độ ẩm tương đối của không khí càng
cao, thì toả nhiệt càng khó, cơ thể càng chóng tích luỹ nhiệt và bị quá nóng.
2.3. Quan hệ giữa các quá trình điều hoà thân nhiệt
Khi vượt quá giới hạn vùng trung bình hoặc vùng không có cảm giác (18 – 22
0
C
Với điều kiện độ ẩm trung bình và tốc độ gió bình thường) thì cơ quan điều hoà thân
nhiệt bắt đầu làm việc. Sự điều hoà toả nhiệt xảy ra, khi nhiệt độ không khí xuống
thấp, do phản xạ thần kinh thực vật của cơ quan cảm thụ nhiệt ở da làm cho huyết
quản đoạn cùng co bóp, nên máu trong da giảm và máu trong nội tạng tăng, sự phân
phối lạ
i máu gây nên phản ứng của cơ thể. Khi nhiệt độ hạ thấp, thì nhiệt lượng toả
theo cách truyền dẫn và bức xạ sẽ giảm. Trái lại khi nhiệt độ tăng, thì huyết quản nở
ra, lượng máu tích trữ tăng, nhiệt độ da tăng, do đó toả nhiệt cũng tăng theo. Như vậy
khi nhiệt độ không khí lên tới một mức nào đó, hơi nước bốc qua da sẽ tă
ng, lúc đó
nhiệt lượng toả theo truyền dẫn và bức xạ sẽ giảm và lượng nước bốc hơi qua da tăng

nhiều.
Da ướt dễ truyền nhiệt hơn da khô ở nhiệt độ không khí thấp, nếu độ ẩm cao
người ta thấy khó chịu hơn khi thấy độ ẩm thấp. Ngoài ra không khí ẩm đọng lại có thể
đẩy không khí ở các lỗ hơi quần áo ra ngoài và làm tăng sức dẫn nhi
ệt của quần áo.
Sự chuyển động của không khí là yếu tố quan trọng trong việc điều hoà thân
nhiệt, khi nhiệt độ không khí thấp hơn nhiệt độ da, sự đối lưu sẽ không ngừng đưa đến
không khí mới và mát. Lúc đó luồng không khí làm tăng toả nhiệt, nên cần phải đưa
không khí mới và mát đến. Ngoài ra lượng hơi nước tối đa trong không khí lưu động
thường ít hơn hơi n
ước trong không khí mặt trong quần áo, do đó có thể làm tăng toả
nhiệt bằng bốc hơi.
Trong trường hợp nhiệt độ không khí và nhiệt độ da chênh lệch nhau rất ít và lao
động chân tay nặng, thì sự lưu thông của không khí lại càng quan trọng (vì truyền dẫn
và bức xạ giảm nhiều). Khi nhiệt độ không khí cao hơn nhiệt độ da, sự lưu động của

40
không khí sẽ làm cho da nóng và làm tăng thân nhiệt, do đó ảnh hưởng không tốt tới
việc điều hoà thân nhiệt. Nhưng khi nhiệt độ cao, độ ẩm tương đối thấp hoặc rất thấp,
không khí có thể hút rất nhiều hơi nước và giúp việc toả nhiệt bằng bốc hơi dễ tiến
hành. Theo Rubner, tốc độ 0,3m/giây của không khí lưu thông bắt đầu có ảnh hưởng
đối với việc đi
ều hoà thân nhiệt và cảm giác chủ quan. Theo Macsac, với tốc độ
0,03m/giây của không khí lưu động mà ta chưa cảm giác thấy đã có thể làm cho nhiệt
độ da bắt đầu giảm. Gần đây người ta lợi dụng sự lưu động của không khí để cải thiện
điều kiện lao động trong buồng máy như tắm không khí với tốc độ 1 - 5m/giây.
Điều hoà việc sinh nhiệt được tiến hành theo phương thức
điều hoà hoá học. Khi
nhiệt độ không khí tăng, việc sinh nhiệt sẽ giảm, trái lại khi nhiệt độ không khí giảm
thì việc sinh nhiệt tăng. Sự biến đổi này có liên quan tới cường độ của sự chuyển hoá

tế bào và chịu ảnh hưởng của các tuyến nội tiết (tuyến giáp, tuyến thượng thận, gan và
tuỵ). Sự phân phối lại máu ở nội tạng và xung quanh có một tác dụng nhất đị
nh trong
điều hoà hoá học.
Nhiệt độ không khí thấp có thể làm cho cơ co mạnh (mới đầu là co bóp theo ý
muốn, rồi sau chuyển sang co bóp không theo ý muốn). Khi nhiệt độ thấp, sự sinh
nhiệt sẽ tăng nhiều, biểu hiện là chuyển hoá oxy tăng mạnh. Khi nhiệt độ cao, tác dụng
điều hoà của sinh nhiệt sẽ vô ích, lúc đó chỉ có toả nhiệt là còn tác dụng. Hiện tượng
chuyển hoá tăng lúc nhiệt độ thấp và chuy
ển hoá giảm lúc nhiệt độ cao là cơ chế thích
ứng có ích cho con người. Trái lại, khi nhiệt độ cao nếu toả nhiệt giảm, chuyển hoá
tăng, là cơ chế điều hoà thân nhiệt bị trở ngại và có thể đưa đến trạng thái bệnh lý
nặng. Trên thực tế việc điều hoà thân nhiệt, trung tâm dưới vỏ não, dưới đồi như hạch
xám và thể vân đóng vai chính, ngoài ra vỏ bán cầu đại não cũng
đóng góp một vai trò
quan trọng. Khi ám thị là lạnh, thì chuyển hoá tăng, khi ám thị là nóng thì chuyển hoá
giảm. Sự điều hoà thân nhiệt (tức là thay đổi hình thức toả nhiệt và sinh nhiệt) còn
mang theo tính chất phản xạ có điều kiện, nhưng nếu chịu ảnh hưởng của kích thích có
điều kiện, đã quen thuộc, thì cơ chế điều hoà thân nhiệt có tác dụng. Trong trường hợp
này, ảnh hưởng của nhiệ
t độ thực tế đối với sự điều hoà thân nhiệt có kém hơn ảnh
hưởng của phản xạ có điều kiện do một nhiệt độ khác trong cùng hoàn cảnh ấy gây
nên.
Quá trình điều hoà thân nhiệt cần đảm bảo cho toả và sinh nhiệt được thăng bằng
cho nên thân nhiệt được điều hoà. Nhưng sự điều hoà thân nhiệt cũng có giới hạn. Giới
hạ
n điều hoà thân nhiệt của người ở trạng thái yên tĩnh là độ ẩm tương đối: 65% -
nhiệt độ 30 - 36
0
và độ ẩm tương đối 30%, nhiệt độ 40

0
(Marchak).
Người ta có thể quen thuộc với điều kiện khí tượng nào đó là nhờ có việc điều
hoà thân nhiệt. Cơ thể người có khả năng thích ứng một phần nào với vi khí hậu, biểu
hiện bằng cảm giác dễ chịu đối với hoàn cảnh và thông qua các phản ứng sinh lý. Sau
nhiều lần thích ứng như vậy, người ta sẽ quen với khí hậu. Với nhiệt độ cao có thể làm
tăng tiết mồ hôi, nâng cao khả năng làm việc của cơ và giảm những biến đổi về chức

41
phận của các giác quan.
Sự điều hoà thân nhiệt của một số người có thể khác nhau. Thí dụ các bệnh nội
tiết, thần kinh thực vật, mạch xơ cứng có thể làm cho sự điều hoà thân nhiệt không
được bình thường, những người béo không chịu được nhiệt độ cao nhất là việc lao
động chân tay.

III. NHỮNG BIẾN ĐỔI SINH LÝ CỦA CƠ THỂ TRONG LAO ĐỘNG NÓNG
Những điều kiệ
n khí tượng khác thường trong sản xuất có thể ảnh hưởng đến cơ
quan điều hoà thân nhiệt và sẽ ảnh hưởng đến các quá trình sinh lý. Khi tác dụng quá
mạnh và lâu, các điều kiện đó sẽ làm cho một số bệnh sẵn có thêm nghiêm trọng, thậm
chí có thể sinh bệnh mới, đặc biệt là khí hậu nóng, tuy nhiên trong sản xuất, quá nóng
nguy hiểm hơn quá lạnh cho nên cần tránh làm việc căng thẳng trong điều kiện khí
t
ượng xấu.
3.1. Nhiệt độ da
Nhiệt độ của da có liên quan với quá trình điều hoà thân nhiệt và sự thăng bằng
nhiệt lượng toàn thân, đồng thời là chỉ số sinh lý chịu ảnh hưởng của điều kiện bên
ngoài. Nhiệt độ của da (khi cảm giác của thân thể tốt) không vượt quá 31 -33
0
C ở đầu

ngón tay và 30,5 – 32
0
Cở trán. Khi người ở trạng thái yên tĩnh và làm việc nhẹ, nhiệt
độ của da ngực là 31 - 33,5
0
C.
3.2. Nhiệt độ thân
Khi việc điều hoà thân nhiệt bị trở ngại thì thân nhiệt tăng, nói ngược lại nếu thân
nhiệt tăng rõ rệt tức là cơ quan điều hoà thân nhiệt bị trở ngại. Vì vậy dù thân nhiệt chỉ
hơi tăng (0,3 - 1
0
) trong khi làm việc cũng phải đặc biệt chú ý. Điều kiện khí hậu xấu
ít, làm việc nhẹ thì thân nhiệt đã tăng sẽ chóng trở lại bình thường (sau 5 - 30 phút).
Thời gian thân nhiệt trở lại bình thường nhanh hay chậm còn tuỳ theo điều kiện toả
nhiệt ở nơi nghỉ của công nhân. Thí dụ, công nhân làm ở lò luyện kim khi nhiệt độ nơi
nghỉ là 25-30
0
và không khí lưu thông rất ít thì sau 15 phút, nhưng nếu nhiệt độ là 20 -
24
0
và tốc độ chuyển động không khí là 1,5 - 2,0 m/giây thì chỉ sau 5 - 10 phút nhiệt
độ đã trở lai bình thường.
3.3. Chuyển hoá oxy
Căn cứ vào tình hình chuyển hoá oxy khi nhiệt độ cao có thể kết luận rằng trong
buồng máy nóng dù có làm việc nhẹ hay nặng cũng tiêu thụ oxy nhiều hơn, cho nên
cần phải tính mức chuyển hoá oxy trong điều kiện đó để nhận xét tình trạng vệ sinh lao
động và sức chịu đựng của công nhân. Khi làm việc ở nhiệ
t độ cao, chỉ số chuyển hoá
hô hấp cũng hồi phục chậm hơn.
3.4. Chuyển hoá nước


42
Công nhân làm việc ở nhiệt độ cao, có thể mất nhiều mồ hôi, nên thường phải
uống rất nhiều nước. Thông thường một ngày đêm có thể tiết ra 500 - 1000 ml mồ hôi.
Sau một ngày làm việc công nhân có thể sút cân (0,3 - 3kg). Nhưng trong thời gian
nghỉ giải lao, cân sẽ trở lại bình thường vì được uống nhiều nước. Mồ hôi mất sẽ kèm
theo mất nhiều muối (có 0,1 - 0,5% NaCl trong mồ hôi). Bình thường có thể mất 30-
40g muối trong một ngày lao
động (thức ăn hàng ngày chỉ cung cấp 10 - 20g muối).

Sơ đồ hiện tượng mất muối, nước trong và ngoài tế bào

3.5. Máu và hệ tim mạch
Khi mồ hôi chảy nhiều, còn có hiện tượng tỷ lệ huyết sắc tố và hồng cầu tăng,
máu thêm quánh. Làm việc càng nặng máu càng chóng cô đặc.
Nhiệt độ cao làm trở ngại việc chuyển hoá nước, cô đọng máu và có tác dụng
trực tiếp lên cơ tim cho nên hệ tim mạch có những phản ứng quan trọng.
Khi không cần đi
ều hoà thân nhiệt đặc biệt, thì mạch không thay đổi rõ rệt,
nhưng nếu cần điều hoà đặc biệt thì mạch sẽ tăng rất nhanh. Lúc đó huyết áp thường
giảm thấp vì sức căng của huyết quản cũng giảm. Khi việc điều hoà thân nhiệt bị rối
loạn nghiêm trọng thì hoạt động của tim cũng rối loạn rõ rệt. Tim co bóp rất nhiều
(100 lần mỗ
i phút) nhưng rất yếu. Ở những người mắc bệnh tim mạch, hiện tượng đó
lại càng nghiêm trọng. Khi làm việc nặng ở nhiệt độ cao huyết áp có thể tăng ở một số
trường hợp.
3.6. Thận, tiết niệu
Bình thường, thận bài tiết 50 - 75% tổng số nước, khi nhiệt độ cao, việc tiết dịch
của cơ thể, căn bản nhờ vào sự
bài tiết qua tuyến mồ hôi. Lúc đó, thận chỉ bài tiết 10 -

15% tổng số nước, đó là một hiện tượng về chức phận của thận, tiết niệu. Công nhân
làm việc ở các phân xưởng nóng cũng có thể mắc nhiều bệnh ở thận, tiết niệu do hiện
tượng ứ đọng và kém thanh thải ở thận. Trong cặn nước tiểu có hồng cầu và trụ hình
và có thể có nhiều mu
ối. Trong khám sức khoẻ thường kỳ, cần kiểm tra phát hiện bệnh
tiết niệu ở những công nhân mẫn cảm với nhiệt độ cao.

43
3.7. Đường tiêu hoá
Trong lao động nóng do phân phối máu nội tạng thiếu và mất thăng bằng muối
nước, thường ảnh hưởng đến chức phận của cơ quan tiêu hoá và có khi gây bệnh
đường ruột. Những công nhân làm việc trong buồng máy nóng phải uống nhiều nước
cho nên dịch vị lỏng, đồng thời tuyến dạ dày bị ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ cao,
đường tiêu hoá lại thiếu máu nên độ axit củ
a dịch vị sẽ giảm, lượng niêm dịch tăng,
tiêu hoá kém và có khi chức phận vận động bị trở ngại, dạ dày phình dãn, tế bào niêm
mạc đường tiêu hoá chóng già cỗi thoái hoá. Những yếu tố trên làm cho bệnh viêm dạ
dày, ruột tăng (tỷ lệ bệnh cấp diễn cao hơn, trung bình 40%, mãn tính cao hơn 22,5%).
3.8. Hệ thần kinh trung ương
Nhiệt độ cao có thể ảnh hưởng đến chức phận của hệ thần kinh cao cấ
p, làm tăng
ngưỡng vận động và cảm giác, đồng thời có thể làm hỏng chức phận điều hoà của dịch
não tuỷ. Thần kinh dễ bị ức chế, chậm hồi phục.

IV. NHỮNG BỆNH LÝ XẢY RA DO LAO ĐỘNG Ở VI KHÍ HẬU NÓNG
4.1. Say nóng (hội chứng quá nhiệt cấp diễn)
Thường xảy ra khi nhiệt độ không khí và độ ẩm cao, ít gió, lao động nặng. Quá
trình thải nhiệt bị cả
n trở gây tích nhiệt cao trên 38
0

5C, có khi lên tới 39
0
- 40
0
C. Ở đây
vai trò của các tia bức xạ sóng dài (chủ yếu là hồng ngoại) cao hơn.
- Trường hợp nhẹ: Cảm thấy bải hoải toàn thân, nhức đầu, chóng mặt, cảm giác
khát tăng, buồn nôn, tức ngực, khó thở, da mặt và toàn thân đỏ, da nóng, nhớp nháp
mồ hôi, mạch, nhịp thở tăng.
Xử trí: Kịp thời đưa bệnh nhân vào chỗ thoáng mát, nằm nghỉ, các triệu chứng sẽ
giảm dần.
- Trường hợp nặng: Có biểu hiện:
+ Có rối loạn hô hấp: Tím tái, thở nhanh nông, nhịp thở 50- 60 lần/phút.
+ Mạch nhanh yếu, tần số trên 100 lần/phút.
+ Thân nhiệt tăng cao trên 40
0
C.
+ Rối loạn tinh thần, nói mê sảng
Bệnh nhân có thể chết trong tình trạng hôn mê do liệt trung tâm tuần hoàn, hô
hấp.
Xét nghiệm:
+ Cl huyết, Cl niệu bình thường.
+ Tính chất của máu bình thường.

44
Xử trí:
+ Nhanh chóng đưa bệnh nhân vào chỗ thoáng mát.
+ Hạ nhiệt độ từ từ, có thể cho tắm nước 26 – 29
0
C trong 5 - 6 phút rồi đắp

chăn mỏng. Hoặc bọc bệnh nhân vào chăn tẩm nước 200 - 250 trong 5 - 10
phút, lau khô người và đắp chăn mỏng vào trán, cứ vài phút lại thay.
+ Cho thuốc trợ tim, trợ hô hấp.
4.2. Say nắng (bệnh nhật xạ)
Thường gặp ở nông dân, công nhân lao động ngoài trời, bộ đội hành quân dưới
ánh nắng mặt trời hoặc công nhân làm việc trong điều kiện nóng có lò nhiệt với bức xạ
mạnh. Trong đi
ều kiện này 99% lượng tia bức xạ giữ ở ngoài hộp sọ, chỉ có 1% vào
não làm tăng nhiệt độ của màng não dẫn đến xung huyết, phù nề ở màng não, nhiệt độ
ở vùng này có thể lên đến 40
0
C. Vì vậy gây rối loạn hoạt động của tế bào vỏ não, đặc
biệt nếu là ở các trung khu tuần hoàn, hô hấp Thông thường hiện tượng này là do
bức xạ tử ngoại (các bức xạ sóng ngắn).
Trường hợp nhẹ:
+ Bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, uể oải, chóng mặt hoa mắt ù tai.
+ Có thể có nôn hoặc buồn nôn.
+ Da mặt và da các vùng mầu đỏ.
+ Thân nhiệt bình thường hoặ
c tăng ít.
Trường hợp nặng: Có rối loạn phản xạ, nói mê sảng, ảo ảnh, ghê rợn, co giật, hôn
mê và tử vong do liệt trung tâm hô hấp, tuần hoàn
Xử trí:
+ Đưa nạn nhân vào nơi thoáng mát, chườm lạnh vùng đầu.
+ Cho thở oxy thuốc trợ tim, trợ hô hấp.
+ Truyền dịch, chống phù não.
+ Châm cứu hoặc bấm huyệt: ấn đường, bách hội, nhân trung, đại chuỳ,
thần môn.
4.3. Hội chứng co gi
ật

Nguyên nhân: Chủ yếu do mất nhiều nước, muối, vitamin B, C, đặc biệt mất
nhiều Na
+
, Ca
++
, Mg
++

+ Nạn nhân cảm thấy: Mệt mỏi, ra nhiều mồ hôi, đau nhiều các cơ.
+ Triệu chứng chính là co cứng các cơ.
Cơ cẳng chân: 31%.

45
Cơ cẳng tay: 18,5%
Bàn, ngón tay: 18,2%
Bàn chân: 14,5%
Đôi khi co cứng cơ bụng, cơ hoành.
+ Thân nhiệt không tăng hoặc tăng ít trước khi co cơ.
Trường hợp nặng: Nạn nhân khó thở, da khô lạnh, xanh xao, tím môi, tiếng nhỏ
yếu.
Xét nghiệm máu: Hồng cầu tăng do máu bị cô đặc, NaCl giảm.
Xét nghiệm nước tiểu: Giảm số lượng và các muối khoáng.
Xử trí:
+ Truyền dịch bù nước, điện giải.
+ Cho thu
ốc trợ tim, mạch.
+ Cho các vitamin: B,C
+ Cho nước chè đường nóng.
4.4. Hội chứng mệt lả do nhiệt
Có thể gặp trong lao động nặng, môi trường lao động nóng. Mệt lả do mất nhiều

nước, muối kéo dài kèm theo tiêu hao năng lực quá mức và sự ức chế thần kinh.
Triệu chứng
+ Nạn nhân cảm thấy khát nước, mệt mỏi, buồn nôn, sức lực yếu đi rất
nhiều.
+ R
ối loạn thần kinh trung ương, có khi co cứng cơ.
Trường hợp nặng: Sốt cao, mê sảng, hôn mê.
- Mệt mỏi do mất nước muối: Thường gặp ở người bị mất nhiều nước nhưng khi
bổ sung nước lại thiếu muối làm cho lượng muối thụt nhanh, dẫn đến cơ thể không
thích nghi kịp sau khi đã mất muối, nước cả trong tế bào.
Triệu chứng:
+ Nạn nhân c
ảm thấy mệt, đau đầu, chán ăn, nôn mửa, hoặc ỉa chảy.
+ Có thể có co giật các cơ, đặc biệt khi uống càng nhiều nước càng co giật mạnh.
+ Nét mặt đau khổ, da xanh tím.
Điều trị bằng mọi cách: Truyền dịch muối và đường đẳng trương, phục hồi sức
khoẻ.
4.5. Những bệnh đặc hiệu khác trong lao động nóng

46
- Đục nhân mắt nghề nghiệp do tia hồng ngoại.
- Hồng ban da nghề nghiệp do tia tử ngoại.
- Viêm mắt do tia lửa hàn.
- Viêm giác mạc, kết mạc cấp tính.
- Sạm da do tia tử ngoại.
- Một số bệnh ở các cơ quan tuần hoàn, tiêu hoá, tiết niệu đều tăng.

V. PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ SỨC KHOẺ TRONG LAO ĐỘNG Ở VI KHÍ
HẬU NÓNG
5.1. Cải tiến kỹ thuật

Nhìn chung các biện pháp kỹ thuật
đều nhằm mục đích giảm thiểu tối đa sự tiếp
xúc của cơ thể đối với các nguồn nhiệt trong sản xuất cũng như sử dụng các máy tự
động cho nhiên liệu (than đá) để thay lao động nặng của thợ đốt lò và điều khiển lửa.
Cách đốt than bột và thiết bị hơi ẩm cũng có tác dụng. Để tránh bỏng, tránh bức xạ
nhi
ệt, người ta dùng máy lấy thép hoặc máy trục đảo khuôn thay cách thông thường
tháo thép ra khỏi khuôn.
Quá trình cơ giới hoá cũng là việc thường xuyên phải làm như:
- Dùng búa hơi hay máy đập thay các cách rèn sắt bằng tay.
- Đúc khuôn bằng hơi ép để tránh bức xạ nhiệt của kim loại chảy.
- Cơ giới hoá công việc xếp dỡ vật liệu ở các loại lò, nhà sấy.
- Cơ giới hoá quá trình cán thép.
- Cơ giới hoá việc mở, đóng cửa lò
đúc thép, đúc gang.
- Cơ giới hoá quá trình sản xuất thuỷ tinh
5.2. Phương pháp ngăn cản nhiệt xâm nhập vào cơ thể khi làm việc
Các lò cần phải che cẩn thận và chú ý xem các tấm che ở lò có bị hư hỏng
không? Nếu cửa lò dùng lâu có khe hở thì phải kịp thời tu sửa ngay. Người ta còn
dùng tấm cản nhiệt làm bằng amiăng. Tấm che tháo được hoặc di chuyển bằng dây
xích. Cửa lò hoặc nắp lò phải được làm nguộ
i bằng không khí hoặc nước. Người ta
sáng chế ra một loại cửa lò rỗng luôn luôn được làm nguội bằng dòng nước. Với loại
cửa này, khi đóng cửa lò, bức xạ có thể giảm xuống còn 1/3 - 1/5. Nhiệt độ không khí
trên sàn lò cũng giảm rất nhiều. Người ta còn dùng các loại màn cản nhiệt trên các
nguồn bức xạ (thường là lò): Màn cản nhiệt bằng nước phun ra những dòng nước rất
nhỏ, màn cản nhiệt bằ
ng hơi nước hoặc màn nước chảy từ trên xuống theo lưới sắt ở
trước cửa lò. Nên dùng tấm che di động để giảm bớt bức xạ mạnh. Một phương pháp


47
đề phòng bức xạ nhiệt là bố trí các máy móc và lò cho hợp lý, thí dụ lò sản xuất axit
sunfuric phải bố trí thành hàng một, không được bố trí song song.
Phương pháp làm nguội mặt đất
- Tưới nước qua mặt sàn làm cho nguồn không khí nguội bay lên.
- Phun nước để làm nguội sắt.
Nếu trong lò phun ra khí có ngọn lửa, phải dùng sức ép mạnh phun không khí
thành màn không khí cản nhiệt.
Thông gió thải nhiệt là một việc rất quan trọng để đề phòng điều kiện khí hậu x
ấu
(tắm không khí).
5.3. Chế độ lao động hợp lý
Không thể quy định một chế độ thống nhất cho các loại công việc trong điều kiện
nhiệt độ cao. Phải căn cứ vào mức sinh lý (sự biến đổi và khôi phục của hệ tim mạch,
tình hình khôi phục của quá trình hoá học của máu và chuyển hoá oxy), vào cảm giác
toàn thân của công nhân và sức sản xuất để quy định chế độ riêng cho từng trường
hợp. Các thao tác cũng phải nhanh gọn theo quy trình phù hợp như chia việc nấu chảy,
đổ rội, đóng hòm, làm khuôn trong quá trình đúc khuôn thành từng giai đoạn (thời gian
và nơi làm khác nhau).
5.4. Chế độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý
Sau khi làm việc ở nhiệt độ cao, nếu được nghỉ ngơi ở nhiệt độ bình thường thì
mọi chức phận sinh lý sẽ chóng trở lại bình thường. Vì vậy mọi buồng máy nóng phải
có phòng nghỉ
tạm thời. Ở các phòng này cần đề phòng bức xạ nhiệt, nếu không cách
ly được toàn diện, có thể dùng bình phong cách ly Trong trường hợp nghỉ ở gần nơi
làm việc, phải tìm cách cản nhiệt, phải thoáng gió, ngoài ra bố trí tắm không khí và
tắm hương sen.
Nếu không có phòng nghỉ, thì phải để ghế dài và thổi gió vào chỗ để ghế.
- Mỗi ngày nên tắm gội cả người 2-3 lần.
- Phát hiện những công nhân có triệu chứng ban đầu c

ủa chứng quá nóng, cho
nghỉ độ nửa giờ để tắm ấm và nằm nghỉ 10 phút.
5.5. Chế độ ăn uống hợp lý
Công nhân các phân xưởng nóng thường hay ăn uống mặn. Khi ra nhiều mồ hôi
nếu được bổ sung muối kịp thời mới tránh được máu cô đặc, giữ được nước và đỡ hao
tốn clorua trong máu, sẽ chảy ít mồ hôi hơn, đỡ sút cân, cảm giác dễ chịu và năng suất
cao. Nói chung cầ
n quan sát để bù những gì đã mất theo mồ hôi, như cho uống nước
rau muống hoặc nước cháo có thêm 0,3% muối hoặc uống nước quả có ướp đường để
bù muối nước. Ở nhiều nước, người ta cho công nhân lao động nóng uống nước có
0,5% muối và bão hoà CO
2
để thích hợp với vị giác. Nếu ăn thức ăn có nhiều thoát,

48
thoát của tổ chức đỡ tiêu hao, do đó tinh thần được sảng khoái và năng suất lao động
cao. Cần cung cấp đầy đủ các loại vitamin, đặc biệt là vitamin B và C (bị mất nhiều
theo mồ hôi)
5.6. Y tế và bảo hộ lao động
Khi làm việc trong buồng máy nóng, công nhân nên mặc quần, áo, giày dép cách
nhiệt rộng, thoáng, dễ truyền nhiệt và truyền không khí ẩm, không trở ngại tới sự tuần
hoàn của máu.
Cần lưu ý trong khám tuyển, khám đị
nh kỳ sức khoẻ cho người lao động ở môi
trường nóng. Các bệnh sau đây không được làm việc (không tuyển) ở môi trường lao
động nóng:
- Bệnh cơ tim có chiều hướng không bù được.
- Huyết áp cao liên tục, mạch xơ cứng đang tiến triển, giãn tĩnh mạch chân, thiếu
máu rõ rệt.
- Lao phổi, khí thũng phổi, hen xuyên.

- Viêm thận, nước tiểu có albumin.
- Bệnh đái đường, basedow, các chứng bệnh nội tiết.
- Động kinh và các ch
ứng bệnh thần kinh trung ương.
- Người béo bệu.
Phải khám sức khoẻ định kỳ hai lần trong năm để phát hiện các trường hợp bệnh
lý thông thường cũng như các bệnh nghề nghiệp để kịp thời chữa trị cho công nhân.
Giám sát thường xuyên môi trường lao động cũng như việc tiêu chuẩn hoá môi trường
lao động nóng, góp phần bảo vệ và tăng cường sức khoẻ công nhân.

VI. VI KHÍ HẬU LẠNH
Thường xảy ra về mùa đông do lao động ngoài trời hoặc làm việc trong các kho
lạnh, nhà máy nước đá, rượu, bia, trong điều kiện nhiệt độ từ 0
0
C - 15
0
C. Ảnh hưởng
cục bộ thường gặp như:
- Da đầu chi, chóp mũi tê cóng, nứt nẻ.
- Có thể liệt dây thần kinh mặt
- Mẩn ngứa giảm cảm giác đầu chi.
- Có thể viêm cơ, đau cơ.
Ảnh hưởng toàn thân khi lạnh thường là gây ra một phản ứng sinh lý dồn máu về
trung tâm, tăng sinh nhiệt, run, tăng chuyển hoá cơ bản. Thân nhiệt lúc đầu tăng sau đó
giảm dần chứng tỏ
năng lực bù trừ của cơ thể không đủ, nếu không thích ứng thì thân

49
nhiệt giảm xuống (35
0

C), nạn nhân có biểu hiện buồn ngủ, chóng mặt, hôn mê và dẫn
đến tử vong.
Làm việc trong môi trường lạnh có thể: làm tăng các bệnh đường hô hấp, gây
giảm miễn dịch, làm tăng các bệnh về cơ, thần kinh.
Biện pháp chống lạnh
Khi lao động trong môi trường vi khí hậu lạnh cần chú ý các biện pháp sau đây:
- Che chắn gió lùa từ nơi sản xuất.
- Ở các kho lạnh cần đủ quần áo ấm.
- Sưở
i ấm, cung cấp đủ năng lượng hợp lý

50
BỨC XẠ ION HOÁ TRONG SẢN XUẤT

ừ khi bức xạ ion hoá hay phóng xạ được phát hiện và đưa vào sử dụng cho đến
nay, tuy thời gian chưa lâu song về mặt lợi ích và tác hại của nó đã được nhiều
người quan tâm đến vì lợi ích rất lớn song lại nguy hiểm vô cùng. Vào thế kỷ XVI đã
có một số người mắc bệnh do nhiễm bức xạ ion hoá trong các mỏ quặng hiếm và đã
được ghi nhận như ung thư phổi (Joschimstal và Schimeeberg). Song các công trình
nghiên cứu m
ới chỉ thực sự có chiều sâu từ cuối thế kỷ XIX đến nay, khi mà việc sử
dụng bức xạ ion hoá ngày càng rộng rãi. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai,
người Mỹ đã thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki - Nhật Bản làm
cho hàng vạn người bị bệnh. Đến nay tác hại do bom nguyên tử ở Nhật Bản vẫn còn đè
nặng lên tinh thần của nhân loại. Từ nă
m 1896, người ta đã thấy tình trạng viêm da ở
bệnh nhân được chụp X-quang và những người làm việc có tiếp xúc với tia X. Nhà bác
học Marie Curie cũng bị tổn thương do những mảnh Radi có độ phóng xạ cao. Hiện
nay ở nước ta đã có nhiều người bị nhiễm xạ và được giám định do thiếu máu, ung thư
máu


I. TÍNH CHẤT CỦA BỨC XẠ ION HOÁ
Các chất phóng xạ rất khó nhận biết, ngay cả liều gây chế
t người mà máy đo
cũng không phải lúc nào cũng phát hiện được. Hiện nay người ta đã biết khoảng 50
nguyên tố phóng tự nhiên và hơn 1.000 đồng vị phóng xạ nhân tạo được đưa vào sử
dụng. Người ta không thể tác động được vào hiện tượng phân rã phóng xạ bằng các
biện pháp lý hoá mà nó tự phân rã theo quy. luật riêng của nó. Các tia phóng xạ có khả
năng đâm xuyên qua vật chất và gây hiện tượng ion hoá (nên gọi là bức xạ ion hoá) có
hai loại tia: là tia b
ức xạ hạt (α,β neutron) và tia bức xạ điện từ (tia X và tia γ).
1.1. Tia anpha (α)
Đối với một nguyên tử nặng, hạt nhân không ổn định và phóng ra một lúc 2
proton và 2 nguồn, dưới dạng hạt nhân heli. Như vậy, hạt anpha là hạt nhân của
nguyên tử hen thoát ra từ một nhân nguyên tử nặng trong quá trình biến đổi hạt nhân.
Hạt anpha mang điện dương. Các hạt α có cùng năng lượng, năng lượng này mấ
t
đi nhanh chóng khi đi qua vật chất, nhưng chỉ đi được rất gần. Sở dĩ như vậy vì các hạt
α va chạm vào các hạt nhân và các điện tử của những nguyên tử vật chất. Những va
chạm liên tiếp đó làm cho các hạt α đi chậm lại, cuối cùng, các hạt này nhường lại
toàn bộ năng lượng đủ để đẩy các điện tử ra khỏ
i quỹ đạo, tạo ra các ion: tia α (có tác
dụng ion hoá rất mạnh (30.000 cặp ion trong 1cm không khí mà tia đi qua) nhưng rất ít
đâm xuyên (vài centimét không khí hay da là đủ để chặn lại).
T

51
1.2. Tia bêta (β)
Tia bêta gặp ở trường hợp hạt nhân không ổn định vì tuy không quá nặng nhưng
lại có nhiều proton hay nguồn. Khi có nhiều nguồn, sự biến đổi nguồn thành proton

phát sinh một điện tử (-), tốc độ cao, hạt β.
Khi có nhiều proton, sự biến đổi ngược lại và phát sinh một điện tử (+) hay một
positron hoặc hạt β (+).
Như vậy, tia bêta là chùm điện tử, phát ra từ h
ạt nhân nguyên tử, có kèm theo
hiện tượng hạt nhân trung hoà (nguồn) biến thành hạt mang điện (proton) hoặc ngược
lại, và có tia bêta (-) (khi P
32
biến thành S
32
) và tia bêta (+) khi Na
22
biến thành Ne
22
).
Trong y học và công nghiệp, những người sử dụng các nguyên tố phóng xạ hay
phải tiếp xúc với loại tia này.
Nói chung, năng lượng của các hạt β kém các hạt α, khả năng ion hoá cũng thấp
hơn nhiều (150 cặp ion qua 1cm không khí). Nhưng tia bêta đâm xuyên mạnh hơn.
Năng lượng của tia bức xạ β có thể biến thành tia γ hay tia X khi các hạt β chậm lại lúc
đi gần một hạt nhân củ
a chất bị đâm xuyên (bức xạ hãm).
1.3. Tia gamma (γ)
Một số hạt nhân, sau khi phóng ra α, β + hay β - sẽ có quá nhiều năng lượng và
ở trạng thái kích thích. Sự trở lại trạng thái ổn định sẽ phát ra photon gamma.
Như vậy, tia gamma là chùm hạt photon phóng ra từ hạt nhân nguyên tử. Các tia
γ không bị từ trường làm lệch hướng, khả năng ion hoá rất kém, chỉ sinh vài cặp ion
khi đi qua một centimet không khí. Trái lại, khả năng
đâm xuyên lại rất mạnh so với
các tia α và β. Phải đùng những tấm chì dầy hàng centimet mới làm giảm được rõ rệt

số tia đi qua. Không bao giờ tia gamma bị hấp thu hoàn toàn hoặc bị chặn hẳn lại. Bản
chất tia gamma là điện tử, như: ánh sáng, tia X, tốc độ của tia gamma là 300.000
km/giây.
1.4. Nơtoron
Nơtron là những hạt không mang điện của hạt nhân nguyên tử, được giải phóng
trong quá trình phá vỡ
hạt nhân nguyên tử nặng uran (lò phản ứng nguyên tử).
Nơtron chỉ bị giữ lại khi va chạm vào các hạt nhân khác, do đó, nó có khả năng
đâm xuyên rất lớn. Các nguyên tố có hạt nhân bị va chạm trở thành có tính phóng xạ.
1.5. Tia X
Giống như tia gamma, tia X cũng là tia bức xạ điện tử nhưng có bước sóng dài
hơn. Các tính chất của tia X cũng tương tự như tia gamma.
Sự đổi chỗ của các điệ
n tử từ quỹ đạo này sang quỹ đạo khác phát ra tia X.
Trong các bóng X quang, tia X phát ra do một luồng điện tử động năng lớn đập

52
vào đối âm cực.
1.6. Đơn vị đo lường và đều lượng tối đa cho phép
1.6.1. Curi (Ci)
Curi là đơn vị hoạt tính phóng xạ. Curi là hoạt tính của một nguyên tố phóng xạ
nào đó mà cứ mỗi giây có 3,7.10
10
nguyên tử bị phân rã. Một Curi xấp xỉ bằng hoạt
tính của 1gam Ra
226
.
1Ci =
10
3

mCi (miliCuri)
= 10
6
µCi (MicroCuri)
= 10
9
nCi (nanoCuri)
= 10
12
pCi (picoCuri).
1.6.2. Rơnghen (R)
Rơnghen là đơn vị liều chiếu, nghĩa là sự truyền năng lượng dưới hình thức tia
bức xạ được sử dụng đối với tia X hay tia γ. Đơn vị đo có thể là Rơnghen (R) hoặc là
Culomb/ kg (C/ kg).
R là liều tia X hay tia γ khi chiếu vào 1cm
3
không khí ở điều kiện chuẩn sẽ tạo ra
ở đó 2,09.10
9
cặp ion tương đương với 1 đơn vị tĩnh điện C.G.S. cho mỗi dấu (1cm
3

không khí, ở điều kiện chuẩn tương đương với 0,001293 gam không khí).
R là đơn vị đo số lượng photon toả lan trong không khí ở một điểm đã cho sẵn.
1.6.3. Rad (Roentghen Absorbed dose)
Rad là đơn vị liều hấp thụ. Đơn vị này đo số năng lượng do các tia để lại khi đi
qua tổ chức. Cụ thể 1 rắn là liều bức xạ ion hoá tương đương với 100 erg hoặc 10-
2
jun
năng lượng mà mâm vật chất giải phóng. Trong an toàn bức xạ còn gọi là Giấy (Gy/s).

1 Gy/s = 100 rad/s.
Một Renghen trong 1 gam không khí, giải phóng một năng lượng bằng 87,8 erg
tương đương với 0,878 rad, và trong 1 gam tổ chức mềm hoặc nước, giải phóng một
năng lượng bằng 97,4 erg tương ứng với 0,974 rad.
1.6.4. Rem (Roentgen equivalent man)
Rem là đơn vị liều tương đương, là liều lượng của tia được hấp thu không kể đến
bản chất c
ủa tia, tạo ra hiệu lực bằng 1 rắn của tia X.
Như vậy, theo định nghĩa đối với tia X và gamma, ta có:
1 rem = 1 rad
Đối với những tia hạt nhân, ta có:
1rem = 1 rad x E. B. R.

×