Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

VỆ SINH LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP part 1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.71 KB, 30 trang )


PGS. TS ĐỖ HÀM











VỆ SINH LAO ĐỘNG
VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP












NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
HÀ NỘI - 2007

PGS.TS ĐỖ HÀM









THƯ KÝ BIÊN SOẠN VÀ CHỈNH LÝ
BS NGUYỄN ĐỨC ĐÀN
THS. NGUYỄN NGỌC ANH

















22 - 64
Mã số:
24 - 04


MỤC LỤC
Trang
LỜI GIỚI THIỆU 1
LỜI NÓI ĐẦU 2
ĐẠI CƯƠNG VỊ VỆ SINH LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP 3
Phần I VỆ SINH LAO ĐỘNG 14
SINH LÝ LAO ĐỘNG VÀ PHÒNG CHỐNG MỆT MỎI 15
ERGONOMIE 22
DỊCH TỄ HỌC TRONG Y HỌC LAO ĐỘNG 28
VI KHÍ HẬU TRONG SẢN XUẤT 34
BỨC XẠ ION HOÁ TRONG SẢN XUẤT 50
BỤI TRONG SẢN XUẤT 57
TIẾNG ỒN VÀ RUNG CHUYỂN TRONG SẢN XUẤT 69
CHẤT ĐỘC TRONG SẢN XUẤ
T 76
VỆ SINH NGHỀ NGHIỆP 86
PHẦN II MỘT SỐ BỆNH NGHỀ NGHIỆP THƯỜNG GẶP 109
NHỮNG ĐIỂM CHUNG TRONG TIẾP CẬN VỚI BỆNH NHÂN BỆNH NGHỀ
NGHIỆP 110
BỆNH BỤI PHỔI SILIC 113
BỆNH BỤI PHỔI ASBESTE 123
BỆNH BỤI PHỔI BÔNG (BYSSINOSES) 130
BỆNH VIÊM PHẾ QUẢN MẠN TÍNH NGHỀ NGHIỆP 134
BỆNH ĐIẾC NGHỀ NGHIỆP 139
BỆNH RUNG CHUYỂN NGHỀ NGHIỆ
P 144
BỆNH DO ÁP LỰC CAO CỦA KIIÔNG KHÍ 152
BỆNH NHIỄM XẠ 158
BỆNH SẠM DA NGHỀ NGHIỆP 169

BỆNH DA DO CRÔM 174
BỆNH NHIỄM ĐỘC CHÌ VÔ CƠ 180
BỆNH NHIỄM ĐỘC CHÌ HỮU CƠ 189
BỆNH NHIỄM ĐỘC THUỶ NGÂN 194
BỆNH NHIỄM ĐỘC MANGAN 204
BỆNH NHIỄM ĐỘC BENZEN 211
BỆNH NHIỄM ĐỘC ASEN VÀ CÁC HỢP CHẤT ASEN 217
BỆNH NHIỄM ĐỘC TNT (TBINITROTOLUEN) 222
BỆNH NHIỄM ĐỘC CACBON OXIT (CO) 226
BỆNH NHIỄM ĐỘ
C HOÁ CHẤT TRỪ SÂU (HCTS) DIỆT CỎ VÀ DIỆT CHUỘT 230
MỘT SỐ BỆNH DO VI SINH VẬT 245
GIÁM ĐỊNH BỆNH NGHỀ NGHIỆP 255
TÀI LIỆU THAM KHẢO 269
PHỤC LỤC 272

1
LỜI GIỚI THIỆU

Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, lao động sản xuất bao
gồm cả công, nông nghiệp luôn là vấn đề mang tính nền tảng. Tuy nhiên trong quá
trình phát triển sản xuất nhiều yếu tôi độc hại phát sinh và ảnh hưởng tới môi trường,
sức khoẻ cũng như các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Việc từng bước nâng
cao trình độ của đội ngũ cán bộ y tế về vệ sinh lao độ
ng và bệnh nghề nghiệp, có kiến
thức cơ bản và sâu rộng nhằm phục vụ quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước là vô cùng quan trọng.
Cuốn sách mang tính giáo khoa này của PGS. TS Đỗ Hàm chính là để đáp ứng
yêu cầu trên, không những để tham khảo trong từ ức hành mà còn có thể sử dụng
trong đào tạo bậc sau Đại học và Đại học. Đó còn là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa

thực tiễn cao, trong lúc lực l
ượng cán bộ y học lao động còn hạn chếch về số lượng và
chất lượng và đặc biệt là các sách tham khảo, giáo khoa cho bậc trên Đại học. Là một
chuyên gia về y học lao động chuyên sâu, PGS. TS Đỗ Hàm có nhiều năm kinh nghiệm
về vệ sinh lao động và bệnh nghề nghiệp, vừa chuyên sâu về dự phòng vừa chuyên sâu
về điều trị nên đã biên soạn với những nội dung, kiến thức vừa cơ bả
n vừa mở rộng,
chuyên sâu, Với Cách trình bày trong sáng và mạch lạc, phù hợp với những đòi hỏi
thực tiễn giảng dạy hiện nay.
Cuốn “Vệ sinh lao động và bệnh nghề nghiệp” này là tài liệu tham khảo, giảng
dạy cho bậc trên Đại học, đồng thời là tài liệu cần thiết, bổ ích tham khảo cho cán bộ
y tế, cũng là tài liệu tham khảo bổ ích với những cán bộ quản lý khoa họ
c.
Tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng các quý vị độc giả và hy vọng tiếp
tục có nhiều tài liệu được công bôlvà in ấn, đáp ứng nhiệm vụ vô cùng quan trọng cho
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và bảo vệ tính mạng người lao động.

PGS.TS Nguyễn Văn Hoài
HỌC VIỆN QUÂN Y

2
LỜI NÓI ĐẦU

Trong quá trình lao động sản xuất, người lao động thường xuyên tiếp xúc với các
yếu tố nguy cơ nghề nghiệp và có thể mắc bệnh nghề nghiệp. Trong vòng 60 năm trở
lại đây việc nghiên cứu vệ sinh lao động và các rối loạn bệnh lý nghề nghiệp ở nước ta
đã có những tiên bộ đáng kể. Đội ngũ thầy thuốc làm việc xung quanh vấn đề này ngày
một đông đảo song v
ẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội nước ta. Trải
qua nhiều năm giảng dạy và phục vụ sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ người lao động đặc

biệt là qua nhiều khoá đào tạo sau đại học, chúng tôi đã từng bước rút kinh nghiệm để
hoàn chỉnh cuốn sách “Vệ sinh lao động và bệnh nghề nghiệp”.
Cuốn sách bao gồm những ki
ến thức cơ bản về y học lao động. Trong tương lai
cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các tác hại nghề nghiệp và bệnh nghề nghiệp sẽ
có khả năng thay đổi nhiều. Tác giả hy vọng cuốn sách này sẽ giúp cho các thầy thuốc
nghiên cứu và thực hành vệ sinh lao động, bệnh nghề nghiệp giải quyết cụ thể những
vấn đề chuyên môn ngày một tốt hơn.
Do đặc
điểm của vệ sinh lao động và bệnh nghề nghiệp là vấn đề rất rộng và
phức tạp, có sự đan xen của nhiều ngành khoa học, cho nên cuốn sách còn có thể thiếu
sót và chưa đầy đủ. Rất mong các quý vị độc giả, các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến
xây dưng để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG XÃ HỘI


3
ĐẠI CƯƠNG VỊ VỆ SINH LAO ĐỘNG
VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP

ệ sinh lao động và bệnh nghề nghiệp là môn học về các khoa học nghiên cứu và
thực hành với mục tiêu là phục vụ đối tượng người lao động và các vấn đề có
liên quan. Thực chất nó là môn khoa học nghiên cứu về các tác hại nghề nghiệp sinh ra
do lao động và điều kiện lao động cũng như các loại bệnh tật và sức khoẻ của những
người chịu tác động của những đi
ều kiện đó gây nên. Thông qua nghiên cứu thực trạng
và phỏng đoán, người ta có thể tìm kiếm ra các phương pháp bảo vệ và tăng cường sức
khoẻ người lao động phòng chống các tai nạn và bệnh nghề nghiệp, các bệnh có liên
quan, trên cơ sở tăng cường các biện pháp cải thiện điều kiện lao động, phòng chống

độc hại và nâng cao năng suất lao động.
Đối tượng nghiên cứu của khoa học vệ sinh lao
động (VSLĐ) và bệnh nghề
nghiệp (BNN) không những chỉ quan tâm đến khía cạnh an toàn, vệ sinh lao động đối
với các quy trình công nghệ, điều kiện lao động, chế độ và tổ chức lao động, nhằm tìm
ra những yếu tố nguy cơ, tác hại nghề nghiệp, các yếu tố cần thiết cho sự phù hợp giữa
con người và môi trường lao động mà còn phải phát hiện, điều trị và dự phòng các rối
lo
ạn bệnh lý nghề nghiệp có thể xảy ra do hậu quả của công việc và môi trường lao
động cùng các điều kiện có liên quan không hợp lý.
Từ thời kỳ sơ khai, người ta cũng đã biết các tác hại nghề nghiệp và bệnh nghề
nghiệp xảy ra do lao động. Tuy vậy, những khái niệm lúc bấy. giờ hết sức đơn giản
dựa trên các hiện tượng là chính.
Vào thế kỷ thứ V, VI trước Công nguyên Aristot và Lukresi đ
ã ghi nhận những
người lao động nặng nhọc, mang vác nhiều thường hay bị đau xương sườn. Avigia và
Pluta đã ghi nhận rằng có sự liên quan chặt chẽ giữa lao động nặng nhọc và tử vong
sớm ở một số nghề nặng nhọc như đào quặng, xây cất nhà cửa, lăng mộ
Thời Hyppocrates (Thế kỷ thứ IV Trước Công nguyên) người ta đã thấy nhiều
thợ mỏ
bị chết sớm so với các nghề khác. Vào cuối đời, đa số những người thợ mỏ này
bị khó thở, đặc biệt là khi làm các công việc nặng nên Hyppocrates gọi là cơn khó thở
của những người thợ mỏ.
Vào đầu thế kỷ thứ XVI - XVII khi nền công nghiệp bắt đầu phát triển ở các
nước Tây âu, cũng là lúc người ta hiểu được bản chất của nhiều hiện tượng, ví d
ụ như
bản chất của các hơi khí độc, các loại bụi, các yếu tố vật lý Hàng loạt các yếu tố hoá
lý ra đời và được phát hiện, đồng thời với nó là các bệnh nghề nghiệp cũng được ghi
nhận một cách rõ nét hơn. Các thầy thuốc đã chủ động quan sát những tác hại nghề
nghiệp để phát hiện ra những ảnh hưởng không tất của nó và các mối liên quan, trên cơ

sở
đó tìm ra các biện pháp phòng chống. Người ta gọi thời kỳ này là thời kỳ quan sát
V

4
chủ động và dự phòng thụ động của các nhà y học lao động. Các tác giả như: Agricola,
Paracelus người Đức, là những thầy thuốc phục vụ cho các tập đoàn, các chủ mỏ của
ngành luyện kim đã viết những dòng y văn đầu tiên về tác hại nghề nghiệp và bệnh có
liên quan đối với người lao động ở các khu mỏ, các nhà máy luyện kim
Vào đầu thế kỷ XX, khi nền công nghiệp phát triển mạnh, các môn khoa họ
c tự
nhiên và xã hội cũng đạt đến đỉnh cao, người ta không những hiểu biết về bản chất các
tác hại nghề nghiệp trong lao động mà thực tế con người cũng hiểu biết tương đối
nhiều về các rối loạn bệnh lý cũng như các bệnh nghề nghiệp xảy ra do lao động. Khoa
học vệ sinh lao động và bệnh nghề nghiệp đã chuyển sang thời kỳ nghiên cứu mang
tính chất tổng hợp và lấy xu hướng dự phòng là chính. Khoa bệnh nghề nghiệp đầu
tiên được xây dựng vào năm 1910 ở Milan Devoto. Sau đó có nhiều viện nghiên cứu
về VSLĐ và BNN được hình thành ở nhiều nước trên thế giới: Pháp, Anh, Nhật Bản,
Tây Ban Nha, Mỹ, Nga Đặc biệt vào những năm 50 trở lại đây những nghiên cứu
sâu được tiến hành ngày một khoa học hơn. Trước khi phóng những con tàu vũ trụ ra
khỏ
i trái đất người ta đã biết được các phi công vũ trụ có thể tiếp xúc với các yếu tố
tác hại nào trong vũ trụ và những rối loạn bệnh lý, hay bệnh gì có thể xảy ra, nên đã có
những phương án dự phòng trước khi thực hiện các chuyến bay Các hội nghị quốc tế
gần đây coi vấn đề bảo vệ nguồn nhân lực cho quá trình phát triển bền vững là hết sức
quan trọng (APOSHO-22/2006,
Đại hội thế giới về an toàn vệ sinh lao động ở
Mỹ/2005 ).
Mặc dù con người đã biết nhiều nhưng hàng trăm nghìn các hoá chất và dung
môi độc hại được đưa vào sản xuất và phục vụ đời sống cũng như hàng trăm các yếu tố

tác hại vật lý, sinh học có ở trong các môi trường sống và lao động, hàng ngày tác
động lên sức khoẻ con người có khả năng gây nên những rối loạn bệ
nh lý hoặc làm
mất cân bằng các phản ứng sinh lý, sinh hoá của cơ thể trong thời kỳ mới tiếp xúc
Còn nhiều điều chưa giải thích được và cần phải nghiên cứu. Trong thực tế do những
bí mật về nghề nghiệp, kinh doanh hoặc người ta chưa đủ khả năng nghiên cứu nên
còn nhiều tác hại nghề nghiệp, bệnh nghề nghiệp chưa được nghiên cứu và giải quyế
t.
Ở Việt Nam khoa học nghiên cứu VSLĐ và BNN đã được đặt nền móng và phát
triển từ những năm 60 trở lại đây, song chủ yếu là những nghiên cứu phát hiện điều
kiện vệ sinh môi trường, các yếu tố lý hoá, vi sinh vật trong sản xuất. Những năm
gần đây, những nghiên cứu về sinh lý, sinh hoá lao động, lâm sàng bệnh nghề nghiệp
cũng được phát triển, song chưa đồng bộ nên các bi
ện pháp dự phòng, bảo vệ công
nhân, nâng cao năng suất lao động và phòng chống các bệnh nghề nghiệp chưa có hiệu
lực cao. Do đất nước đang chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang phương thức thị trường
hoá trên cơ sở các phương tiện và điều kiện sản xuất lạc hậu, không đồng bộ, đồng
thời với nhịp độ sản xuất tăng nhanh trên thực trạ
ng môi trường lao động đang bị ô
nhiễm nặng nề, do vậy các tác hại nghề nghiệp vẫn không ngừng tăng lên. Hậu quả của
nó là các rối loạn bệnh lý, các bệnh nghề nghiệp ngày càng gia tăng, đây là vấn đề hết

5
sức nan giải trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, đòi hỏi nhiều cấp, nhiều ngành
phải phối hợp giải quyết vì mục tiêu sức khoẻ cho người lao động mới của đất nước.
Nghiên cứu về y học lao động là nghiên cứu mối quan hệ đa chiều tạo nên trạng
thái cân bằng động hoặc mất cân bằng, suy giảm sức khoẻ và lao động cùng với các
tác h
ại nghề nghiệp


Trên thực tế ta có thể nói vấn đề cơ bản, trên hết trong y học lao động là nghiên
cứu các tác hại nghề nghiệp cũng như các yếu tố liên quan và các biểu hiện sinh lý, rối
loạn bệnh lý nghề nghiệp và các bệnh nghề nghiệp trong bối cảnh một xã hội đặc thù.

I. CÁC TÁC HẠI NGHỀ NGHIỆP
Tác hại nghề nghiệp là những yếu tố trong quá trình sản xuất và điều kiện lao
động có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và khả năng lao động, gây nên những rối loạn
bệnh lý hoặc các bệnh nghề nghiệp đối với những người tiếp xúc
Tác hại nghề nghiệp tương đối phức tạp và đa dạng song ta có thể phân ra các
loại như sau:
1.1. Các tác hại nghề nghiệp liên quan đến tổ chức lao động không hợp lý
Tổ chức lao động không hợp lý có thể gây r
ất nhiều tác hại lên sự cân bằng trạng
thái sinh lý, sinh hoá của cơ thể người lao động, từ đó sinh ra các rối loạn bệnh lý.
Thời gian lao động quá lâu dài có thể gây nên sự căng thẳng về thần kinh, thể
chất bởi sự đáp ứng quá ngưỡng. Ví dụ: Quá trình hoạt động thần kinh là quá trình
hưng phấn liên tục, thời gian dài hoạt động sẽ làm cho sự hưng phấn quá mức, giảm
Acetylcholin, Cathecholamin dẫn
đến tình trạng ức chế thần kinh gây mệt mỏi. Lao
động lâu, năng lượng bị cạn dần các sản phẩm trung gian tăng lên ở các khối cơ, gây
đau mỏi, thậm chí co cứng cơ, mất khả năng hoạt động (ví dụ: axit lactic tăng lên, cơ
bị co cứng).
Cường độ lao động quá nặng nhọc và khẩn trương sẽ huy động khối lượng cơ
bắp, thần kinh lớn tham gia nhi
ều trong một thời gian ngắn, điều này sẽ làm tăng
nhanh sự tiêu hao năng lượng và hoạt động của các cơ quan. Khi sự đáp ứng vượt quá
ngưỡng bình thường như: khối lượng cơ hoạt động quá lớn, nhu cầu đáp ứng năng
lượng cao, cơ thể có thể không đáp ứng kịp. Lao động nặng, tim phải cung cấp các

6

chất dinh dưỡng, tăng năng lượng và trao đổi khí, có thể gây nên tình trạng giãn tim
đột ngột và tử vong ở những vận động viên. Do lao động quá khẩn trương, sự phối hợp
giữa các nhóm cơ, các bộ phận không hợp lý dễ gây nên tai nạn lao động, hoặc tăng
nhanh quá trình mệt mỏi.
Chế độ lao động và nghỉ ngơi không hợp lý dễ làm tăng nhanh quá trình mệt mỏi,
phát sinh các bệnh nghề nghiệp. Những lao động n
ặng, tiêu hao năng lượng nhiều hoặc
tiếp xúc với nhiều yếu tố độc hại sẽ gây nhiều ảnh hưởng xấu lên sức khoẻ nên cần
được rút ngắn thời gian lao động và kéo dài thời gian nghỉ ngơi, để các trạng thái sinh
lý, sinh hoá của cơ thể được hồi phục, khi chưa đến ngưỡng mất thăng bằng. Lao động
nặng kéo dài sẽ làm tăng các sản phẩm trung gian, cạn kiệt n
ăng lượng, nếu ta cho
nghỉ sớm, các sản phẩm trung gian chưa xuất hiện nhiều, chưa đầu độc tế bào, năng
lượng còn đủ để kích thích nhanh quá trình hồi phục, thời gian nghỉ ngơi không cần
dài song cơ thể lại hồi phục nhanh chóng (ví dụ: lao động trong môi trường có nhiều
tiếng ồn, thời gian lao động và nghỉ ngơi vẫn tương tự như các lao động tương ứng,
song số l
ần nghỉ tăng lên, thời gian lao động các giai đoạn trong ca ngắn lại, sẽ làm
giảm tỷ lệ bệnh điếc nghề nghiệp). Cơ sở của vấn đề là không để cho các phản ứng
vượt hoặc sát ngưỡng bệnh lý mới cho người lao động được nghỉ ngơi nhằm tạo điều
kiện cho tế bào mau hồi phục, nhanh chóng trở lại bình thường.
Tư thế
lao động không phù hợp với máy móc hoặc phương thức, phương tiện lao
động sẽ gây nên sự bất thường cho các hoạt động chức năng, vì thế, các rối loạn bệnh
lý dễ xảy ra hoặc quá trình mệt mỏi tế bào sẽ đến sớm. Điều này thường gặp ở những
cơ sở tiếp nhận công nghệ cũ hoặc mới, song không tính toán đến tầm vóc giải phẫu và
ch
ức năng sinh lý của cơ thể người Việt Nam (các nhà máy dệt công nhân phải đứng
lên ghế mới với đến thoi, tầm của cỗ máy tiện quá cao ). Trong thực tế, nhiều người
lao động phải làm việc ở các tư thế không hợp lý, nhiều nhóm cơ vận động trong tình

trạng vận cơ tĩnh hoặc tạo các góc quá nhiều, nhiều động tác uốn, vặn, sẽ làm tăng
nhanh sự mệt mỏ
i của thần kinh và thể chất.
Các cơ quan bị căng thẳng do hoạt động không đồng bộ dễ gây nên sự mệt mỏi
cục bộ. Trong các cơ quan dễ bị mệt mỏi sớm nếu hoạt động không phù hợp, người ta
thấy, đứng đầu là các giác quan (ví dụ: nhìn lâu mỏi mắt, viết nhiều mỏi tay ở những
nhân viên văn phòng, mặc dù các lao động này tiêu hao năng lượng thấp, một số lao
động đặc biệt như vi tính, lái xe người lao động dễ mệt mỏi thị giác và thần kinh, nếu
không lưu ý sẽ dẫn đến bị tai nạn).
1.2. Những tác hại nghề nghiệp liên quan đến quy trình sản xuất
Trong quá trình sản xuất các yếu tố tác tại nghề nghiệp mang đặc trưng vật lý, lý
hoá, vi sinh vật có thể phát sinh hoặc tăng tác dụng xấu lên cơ thể người lao động.
Ngày nay người ta đã thống kê
được hơn 200.000 các hoá chất và dung môi độc hại,
gần 400 tác nhân vật lý có hại và hàng ngàn tác nhân sinh học có thể gây hại cho người
lao động. Ở nước ta cũng đang sử dụng hàng trăm các tác nhân độc hại.

7
Các yếu tố vật lý như vi khí hậu, bức xạ, áp lực không khí không bình thường, ồn
rung chuyển Thường xuyên tác động lên cơ thể, ảnh hưởng đến sự cân bằng các
phản ứng sinh lý, sinh hoá Vi khí hậu xấu có thể là quá nóng hoặc quá lạnh. Trong
các lò nung vật liệu nhiệt độ tăng lên tới hàng nghìn độ, có thể phát sinh ra nhiều loại
bức xạ tử ngoại hoặc hồng ngoại làm nóng nhiệt độ không khí hơn nhiệt
độ da cơ thể
người lao động gây trạng thái tích nhiệt, có thể làm cho quá trình thoát nhiệt của cơ thể
bị ngừng trệ gây say nóng. Thông thường gió làm tăng quá trình đối lưu, giảm độ nóng
của môi trường, song nếu gió nóng sẽ làm rối loạn quá trình điều hoà nhiệt độ của cơ
thể. Độ ẩm trong môi trường tuỳ mức độ khác nhau có thể tạo điều kiện tốt cho cơ thể
t
ăng nhanh quá trình bay hơi của hồ môi, giúp cho cơ thể điều nhiệt hoặc ngược lại.

Các loại bức xạ có vai trò khác nhau đối với cơ thể người lao động. Các tia hồng ngoại
chủ yếu gây tích nhiệt song cũng có thể gây đục nhân mắt. Bức xạ tử ngoại có khả
năng đâm xuyên lớn, có thể gây tổn thương não làm cho người lao động bị say nắng.
Trường điện từ
của các loại sóng cao tần, siêu cao tần gây nhiều tác hại lên chức
năng sinh lý của cơ thể. Áp lực không khí thấp làm người ta thiếu không khí thở áp lực
cao tạo điều kiện cho nitơ chuyển thành dạng lỏng, nếu thay đổi áp suất đột ngột sự
biến đổi này sẽ gây tắc mạch máu. Tắc mạch máu não và tim, có thể gây tử vong, điều
này thường hay gặp ở những người l
ặn sâu, hoặc đào mố và trụ các loại cầu dưới lòng
sông, trong các giếng chìm. Tiếng ồn quá cao trong môi trường gây ảnh hưởng xấu
đến chức năng sinh lý, có thể gây rối loạn sinh lý, tiếng ồn cũng góp phần quan trọng
làm gia tăng bệnh điếc nghề nghiệp trong các nhà máy, xí nghiệp. Sự rung chuyển của
các vật dụng và máy tác dụng xấu lên các hệ thống cơ, xương, khớp, mạch máu của
người sử
dụng, đặc biệt là hiện tượng loãng xương và co thắt mạch đầu chi.
Các yếu tố lý hoá trong môi trường như bụi, hơi khí độc gây rất nhiều rối loạn
bệnh lý và BNN đứng đầu là các loại bụi vô cơ gây xơ hoá phổi không hồi phục, gây
tàn phế bộ máy hô hấp. Một số loại bụi hữu cơ như: lông súc vật, bông, đay, phấn hoa
gây phản ứng dị ứng co thắt khí ph
ế quản. Người ta thấy hiện tượng khó thở do tác
động của nhiều loại bụi, bông, đay gọi là bệnh bụi phổi bông (bysinose) rất phổ biến ở
nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam bệnh này cũng được đưa vào danh mục các bệnh
nghề nghiệp được bảo hiểm. Các chất độc có trong môi trường lao động có thể ở dạng
bụi hoặc khí gây nên nhiều bệnh nhi
ễm độc nguy hại như: Nhiễm độc chì, asen, thuỷ
ngân, thuốc trừ sâu Có những loại chất độc dễ quan sát nhưng cũng có rất nhiều loại
chất độc không mùi vị, khó quan sát, dễ gây nhiễm độc, cấp cứu khó khăn như oxit
cacbon, thuỷ ngân Ở Việt Nam có nhiều cơ sở sản xuất kim loại màu có nhiều kim
loại nặng độc hại như chì, asen, cadimi với hàng vạn người tiếp xúc trong đ

ó một số
lượng không nhỏ bị nhiễm độc, thậm chí là tử vong. Nhiều trường hợp suy thận, tăng
huyết áp, thiếu máu đã gặp ở Thái Nguyên và một số nơi khác do tiếp xúc với kim loại
nặng độc hại.
Trong môi trường lao động có nhiều yếu tố sinh học gây hại như: các vi trùng, ký
sinh trùng, các sản phẩm sinh học có tính chất dị nguyên gây nên viêm nhiễm và phản

8
ứng dị ứng, các nấm hoặc vi trùng có khả năng tồn tại cao ở ngoại cảnh như lao, bạch
hầu dễ gây bệnh cho những người công nhân vệ sinh, các thầy thuốc.
1.3. Những tác hại nghề nghiệp liên quan tới an toàn, bảo hộ lao động và
điều kiện vệ sinh kém
Điều kiện vệ sinh kém trong môi trường lao động là tập hợp bởi nhiều yếu tố tạo
nên cảm giác hoặc tr
ực giác đối với người lao động. Ví dụ: độ thông thoáng trong môi
trường, các thiết bị vệ sinh và an toàn lao động, nhằm ngăn cản sự phát sinh các yếu tố
độc hại từ nguồn hoặc bảo vệ thụ động như: khẩu trang, các loại máy hút bụi đôi khi
trở nên bất lợi cho sức khoẻ. Ánh sáng thiếu làm giảm khả năng hoạt động của thị
giác. Môi trường thiếu thông thoáng làm giảm khả n
ăng trao đổi nhiệt, khí

II. BỆNH NGHỂ NGHIỆP
Bệnh nghề nghiệp là loại bệnh phát sinh do các tác hại nghề nghiệp. Thông
thường người ta hiểu bệnh nghề nghiệp mang tính chất đặc trưng của một nghề nào đó
do yếu tố độc hại trong nghề tác động thường xuyên lên cơ thể người lao động, gây
nên những rối loạn bệnh lý cấp hoặc mạn tính. Cũng không nên hiểu theo khuynh
h
ướng quá rộng coi các bệnh xảy ra có liên quan đến môi trường lao động là bệnh
nghề nghiệp. Ví dụ: Bệnh tim mạch ở người lao động trong điều kiện môi trường
nóng, nặng nhọc. Song nếu quan niệm là bệnh đặc trưng như đau bụng chì đối với

người công nhân tiếp xúc với chì thì sẽ bỏ sót nhiều bệnh nghề nghiệp như thiếu máu
do nhiễm độc chì, viêm ống thận cấp do nhiễ
m độc các kim loại nặng Có thể nói
bệnh nghề nghiệp là một trong các loại bệnh môi trường bao gồm cả tình trạng cấp
tính và mạn tính, ví dụ nhiễm độc cấp tính do oxit các bon, viêm phế quản mạn tính
trong môi trường có nhiều bụi. Có rất nhiều bệnh nghề nghiệp nên người ta thường
phải chia ra thành 5 nhóm để dễ nhận biết.
Nhóm 1 : Gồm những bệnh sinh ra do tác hại của bụi trong môi trường lao động
ví dụ
bệnh bụi phổi do các bụi vô cơ, bệnh dị ứng đường hô hấp do các bụi hữu cơ
Nhóm 2: Gồm các bệnh sinh ra do các tác hại nghề nghiệp mang tính chất vật lý
như: tiếng ồn, áp lực cao, rung chuyển, vi khí hậu xấu
Nhóm 3: Các bệnh sinh ra do.các tác nhân hoá học như các hoá chất độc ô nhiễm
môi trường lao động ví dụ nhiễm độc thuốc trừ sâu, nhiễm độc kim loại nặng
Nhóm 4: Nhóm bệnh sinh ra các tác nhân sinh h
ọc như các nấm men, vi sinh vật
gây bệnh gặp ở môi trường lao động của nông dân, những người lao công
Nhóm 5: Bao gồm các bệnh sinh ra do hiện tượng căng thẳng thần kinh cơ,
xương, khớp, thường có liên quan với các loại lao động đặc biệt khi tiếp cận hoặc tác
động lên một số bộ phận của cơ thể một cách không đồng đều.
Mặc dù về mặt bệnh lý lâm sàng và cận lâm sàng người ta th
ấy hầu hết các bệnh

9
nghề nghiệp nhiều khi khó mà phân biệt được với các bệnh không do nghề nghiệp
khác song các bệnh nghề nghiệp vẫn mang những đặc điểm, đặc trưng khác hơn so với
các loại bệnh không do nghề nghiệp bởi yếu tố môi trường và sự phát sinh phát triển
bệnh lý đồng thời với tính chất xã hội đòi hỏi trách nhiệm của giới chủ cũng như giới
thợ
2.1. Đặ

c trưng về nguyên nhân
Do nhiều yếu tố độc hại khác nhau trong môi trường lao động tác động lên cơ thể
nên nguyên nhân của bệnh thường phức tạp. Một nguyên nhân có khả năng gây nên
nhiều hội chứng bệnh lý khác nhau ví dụ như chì có thể gây nên hội chứng thiếu máu)
rối loạn thần kinh thực vật Ngược lại một hội chứng cũng có thể do nhiều nguyên
nhân khác nhau tác động gây nên ví dụ: bezen, chì, asen đều gây thiế
u máu, suy nhược
cơ thể, tuy cơ chế có khác nhau. Điều khó ở đây là một yếu tố rất khó phân biệt theo
không gian, thời gian trong khi sản xuất ngày càng có sự kết hợp và đa dạng.
2.2. Đặc điểm lâm sàng
Bệnh nghề nghiệp bao gồm các trạng thái cấp tính hoặc mạn tính. Thông thường
các trường hợp cấp tính dễ phát hiện và xử trí. Đa số các bệnh nghề nghiệp là tiến triển
m
ạn tính, diễn biến bệnh lý phát triển chậm, dấu hiệu lâm sàng nghèo hoặc có nhưng
không đặc trưng. Về mặt lâm sàng và cận lâm sàng nhiều khi khó phân biệt được các
bệnh nghề nghiệp và không nghề nghiệp, ví dụ nhiễm độc chì giai đoạn đầu chỉ như
một trường hợp suy nhược cơ thể. Bệnh bụi phổi phải 5-10 năm sau mới có biểu hiện
suy hô hấp. Biểu hiện ho ở
những người mắc bệnh bụi phổi hoặc nhức đầu ở những
người nhiễm độc benzen là dấu hiệu bệnh lý của nhiều bệnh khác. Việc nghiên cứu
phát hiện sớm đối với các bệnh nghề nghiệp cần được đặt ra một cách nghiêm túc.
Đồng thời cũng xem xét để có những chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt cho
các bệnh nghề nghiệp. Trong quy trình khám phát hiện bệ
nh nghề nghiệp cần thận
trọng và thực hiện đúng các tiêu chuẩn trên cơ sở các yếu tố độc hại tiếp xúc, biểu hiện
lâm sàng và cận lâm sàng đặc hiệu. Nói chung nên nghĩ đến bệnh nghề nghiệp để
không bỏ sót, song chỉ nên kết luận chẩn đoán khi đã loại trừ được các bệnh không
phải do nghề nghiệp ví dụ thiếu máu do chì được chẩn đoán sau khi loại trừ các b
ệnh
nội khoa và các bệnh ký sinh trùng

2.3. Đối với nhiều bệnh nghề nghiệp bệnh khởi phát sớm và kín đáo
Bệnh nghề nghiệp có thể khởi phát từ khi bắt đầu tiếp xúc với các tác hại nghề
nghiệp. Lúc này các dấu hiệu bệnh lý đầu tiên đã có song người bệnh thường chủ quan
do mới tiếp xúc hoặc cảm nhận là mình vẫn khoẻ không chú ý đến các dấu hiệu bệnh
lý ban đầu nên khi
được chẩn đoán bị động thì bệnh đã tiến triển nông.
2.4. Các yếu tố nghề nghiệp và không nghề nghiệp thường kết hợp với nhau
Đây là nguyên nhân đa yếu tố trong sinh bệnh học của nhiều bệnh nghề nghiệp,
ví dụ trong bệnh viêm phế quản nghề nghiệp có thể các yếu tố khí hậu và thời tiết cũng

10
góp phần thậm chí còn có nguy cơ cao hơn.
2.5. Các phát hiện bệnh lý thường liên quan đối với liều lượng tiếp xúc
Tương tự như trong dược lý học, những yếu tố mang tính quyết định đối với tình
trạng bệnh lý là liều lượng và thời gian tiếp xúc trong đó các liều độc, rất độc có thể có
tác động sớm, dễ phát hiện, còn liều thấp hơn sẽ gây ra tình trạng mạn tính của bệnh
nên khó phát hiện hơn.
2.6. Những cần thiết phải ưu tiên về điều trị phục hồi chức năng
Thông thường muốn điều trị đạt kết quả cao cần phải đưa bệnh nhân tách ra khỏi
môi trường độc hại và loại trừ chất độc ra khỏi cơ thể. Các bệnh nghề nghiệp thường
làm suy giảm chức năng của các cơ quan hữu quan
đặc biệt là các cơ quan đóng vai trò
quan trọng đối với sự sống, góp phần tích cực trong chống độc của cơ thể như: gan,
thận, hệ thống tạo huyết Do vậy tuỳ các trường hợp khác nhau mà có thể có các
phương thức giải quyết cho phù hợp. Có thể khu trú chất độc vào một nơi nào đó trong
cơ thể để tránh nồng độ cao trong máu và nước tiểu hoặc thải độ
c từ từ song song với
nâng cao thể trạng. Nhìn chung cần ưu tiên khả năng tự đào thải các chất độc hoặc tự
hồi phục của các cơ quan chức năng cùng với việc nâng cao sức đề kháng, thể trạng
cho bệnh nhân.

2.7. Bệnh nghề nghiệp mang tính chất xã hội
Lao động là bát buộc trong quá trình phát triển kinh tế xã hội loài người, có lao
động là có tiếp xúc với các yếu tố độc hại và có thể
mắc các bệnh nghề nghiệp. Vì vậy
bệnh nghề nghiệp là vấn đề có liên quan đến các yếu tố xã hội trong nền kinh tế quốc
dân. Người mắc bệnh nghề nghiệp phải được giới chủ hay cơ quan chủ quản hoặc hệ
thống bảo hiểm xã hội có trách nhiệm đảm bảo về tinh thần vật chất và các vấn đề sức
khoẻ một cách thoả
đáng theo các quy định của mỗi quốc gia và quốc tế.
Vì tính chất xã hội với ý nghĩa tích cực nên những người làm công tác chăm lo
sức khoẻ cũng như các nhà quản lý phải luôn luôn xác định được thái độ nghiêm túc,
chuẩn mực trong mọi mặt công tác có liên quan đến bệnh nghề nghiệp.
2.8. Các bệnh nghề nghiệp ớượe đền bù ở nước ta
Ở các quốc gia phát triển đa số các bệnh nghề nghiệp đều đượ
c đền bù song ở
nước ta do điều kiện kinh tế chưa phát triển khả năng phát hiện các bệnh nghề nghiệp
chưa cao nên phải đến ngày 19/5/1976 lần đầu tiên nhà nước ta đưa ra danh mục 8
bệnh nghề nghiệp được đền bù. Ngày 25/12/1991 danh sách bệnh nghề nghiệp được
đền bù nâng thêm 8 bệnh. Ngày 4/2/1997 Bộ Y tế ra Quyết định 167 BYT/ QĐ công
nhận thêm 5 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm, do đó cho đế
n năm 1997 ở nước ta đã
có 21 bệnh được đưa vào danh mục các bệnh nghề nghiệp được đền bù (bảo hiểm).
Tháng 9 năm 2006 lại có thêm 4 bệnh nghề nghiệp được đưa vào danh mục bảo hiểm,
nâng số bệnh nghề nghiệp được đền bù lên 25 bệnh. Trong tương lai danh sách này sẽ

11
được tăng lên.
Với xu hướng phát triển kinh tế, xã hội danh sách các bệnh nghề nghiệp được
đền bù trong tương lại sẽ phải tăng lên không những chỉ đền bù cho các nghề nghiệp
mạn tính mà còn đối với các bệnh mạn tính mang tính chất nghề nghiệp, nhằm đảm

bảo công bằng xã hội cho tất cả những người lao động và nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các nhà quản lý, các doanh nghiệp.

III. MỘT SỐ BIỆ
N PHÁP BẢO VỆ SỨC KHOẺ NGƯỜI LAO ĐỘNG
Nhằm mục đích phòng chống các tác hại nghề nghiệp cho người lao động những
vấn đề mang tính chất phương hướng sau cần được ưu tiên.
3.1. Cải tiến kỹ thuật
Vấn đề cải tiến kỹ thuật bao gồm những tiến bộ trong sản xuất, tự động hoá và cơ
giới hoá không những làm giảm gánh nặng lao độ
ng mà còn làm giảm thời gian tiếp
xúc với các tác hại nghề nghiệp, vấn đề này được các tác giả trên thế giới coi là vấn đề
trọng tâm số một vì nó giảm thiểu các tác hại nghề nghiệp ngay từ nguồn phát sinh.
3.2. Tổ chức lao động hợp lý
Vấn đề tổ chức lao động hợp lý bao gồm phân bố lao động phù hợp với cấu trúc
giải phẫu, tâm sinh lý của người lao động, cường độ
lao động, chế độ lao động và nghỉ
ngơi hợp lý, ví dụ: máy móc phù hợp với kích thước giải phẫu của cơ thể, lao động có
các nhóm cơ hoạt động hài hoà, thời gian lao động từng môi trường khác nhau phù
hợp sẽ tăng năng suất lao động và giảm nguy cơ mắc các rối loạn bệnh lý nghề
nghiệp
3.3. Các biện pháp an toàn vệ sinh và phục hồi sức khoẻ người lao động
Sau một quá trình ho
ặc một ca lao động cơ thể người lao động cần được phục hồi
lấy lại thăng bằng sinh lý, sinh hoá các biện pháp nhằm phục hồi sức khoẻ người lao
động bao gồm chế độ dinh dưỡng đầy đủ và hợp lý, chế độ nghỉ ngơi giải trí luyện tập
phục hồi chức năng và các chế độ chăm sóc y tế, các vấn đề xã hội
Trong bấ
t kỳ hoàn cảnh nào các hoạt động tinh thần cũng đóng góp một phần
không nhỏ tạo điều kiện nâng cao sức khoẻ người lao động. Sau cùng là việc chăm lo

sức khoẻ, khám phát hiện các rối loạn bệnh lý và bệnh nghề nghiệp sớm với tinh thần
chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho tất cả mọi người cùng với công tác quản lý giám sát
môi trường, thực hiện các giải pháp an toàn và vệ sinh lao động th
ường xuyên ở mức
tối đa có thể có được tuỳ theo hoàn cảnh của doanh nghiệp, như vậy sẽ từng bước cải
thiện và tăng cường sức khoẻ cho công nhân một cách hữu hiệu.
Kế hoạch hoạt động chăm sóc sức khoẻ người lao động trong những năm tới
của toàn ngành Y học lao động cần tập trung vào các mục tiêu sau đây:

12
1. Xây dựng bổ sung các văn bản pháp quy về y tế lao động.
2. Xây dựng chính sách quốc gia phòng chống bệnh nghề nghiệp.
3. Tăng cường tuyền thông, giáo dục về chăm sóc sức khoẻ người lao động.
4. Nâng cao năng lực quản lý, giám sát sức khoẻ người lao động và phòng chống
bệnh nghề nghiệp cho cán bộ y tế lao động.
5. Tăng cường công tác an toàn vệ sinh lao động và chăm sóc sức khoẻ cho các
đối tượng lao động đặ
c thù, nhân viên y tế, lao động trong nông nghiệp, làng nghề và
trong các xí nghiệp nhỏ và vừa.
Trên cơ sở đó, các nội dung hoạt động y tế lao động cần tập trung vào một số
điểm cơ bản sau đây:
1. Công tác tổ chức, pháp luật y tế lao động
Xây dựng chính sách quốc gia về phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp. Xây
dựng Thông tư khám chữa bệnh nghề nghiệp. Xây dựng Thông tư hướng dẫn triể
n
khai An toàn vệ sinh lao động trong các cơ sở y tế. Thông tư liên tịch khai báo thống
kê tai nạn lao động. Xây dựng Quyết định ban hành hướng dẫn nâng cao sức khoẻ nơi
làm việc cho các loại hình công việc khác nhau. Xây dựng kế hoạch hành động
ATVSLĐ - Chăm sóc sức khoẻ người lao động nông nghiệp. Phối hợp tham gia xây
dựng bổ sung danh mục một số bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm mới, chức danh nghề


nặng nhọc độc hại, tiêu chuẩn sức khoẻ cho một số ngành nghề
2. Thông tin, tuyền truyền giáo dục và huấn luyện
Thông tin tuyên truyền rộng rãi về tuần lễ An toàn vệ sinh lao động PCCN. Xây
dựng phim cho các hoạt động An toàn vệ sinh lao động, phòng chống bệnh nghề
nghiệp. Xây đựng hồ sơ ATVS LĐ. Hội thảo và phổ biến thông tư cho cơ sở y tế các
tỉnh thành, tập huấn cho các đị
a phương/ngành nâng cao chất lượng báo cáo công tác
Y tế lao động các tỉnh, thành phố. Hội thảo tập huấn chăm sóc sức khoẻ nhân viên y tế
(tuần lễ ATVSLĐ). Hội nghị y tế các ngành về chăm sóc sức khoẻ người lao động
công nghiệp. Hội thảo liên ngành thực hiện các chính sách cho người lao động nông
nghiệp và làng nghề. Mở các lớp tập huấn về khám chữa bệnh nghề nghiệp (tập huấn
về
công tác khám chữa bệnh nghề nghiệp như tiêu chuẩn chẩn đoán, phác đồ điều trị
một số bệnh thường gặp, về sử dụng bộ phim mẫu ILO 2000, phân loại bệnh bụi phổi
nghề nghiệp)
3. Quản lý sức khoẻ người lao động và bệnh nghề nghiệp
Giám sát môi trường và sức khoẻ công nhân tiếp xúc với các tác hại nghề nghiệp.
Hướng dẫn triển khai kế
hoạch hành động về chăm sóc sức khoẻ trong lao động nông
nghiệp. Giám sát môi trường và sức khoẻ lao động nghề nghiệp. Nâng cao sức khoẻ
người lao động trong các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục triển khai các hoạt động
phòng chống bệnh nghề nghiệp, trong đó có bệnh bụi phổi silic.

13
4. Chế độ chính sách và kiểm tra, chỉ đạo
Xây dựng chế độ chính sách chăm sóc sức khoẻ lao động cho nhân viên y tế.
Quản lý, giám sát hoạt động y tế lao động các ngành và địa phương. Chỉ đạo, kiểm tra,
giám sát công tác y tế lao động các tỉnh trọng điểm công nghiệp.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá công tác nghiên cứu và phục vụ trong lĩnh

vực VSLĐ và BNN cần có những động thái tích cực và hợp tác toàn diện. Các khuyến
cáo của cộng
đồng quốc tế trong thời gian gần đây (Orlando, Mỹ - 2005; Bangkok,
Thailand - 2006) và hội nghị quốc tế lần thứ 18 sắp tới ở Hàn Quốc (2008) đều kêu gọi
tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực hơn nữa nhằm tạo ra môi trường lao động tốt
hơn, an toàn hơn, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ người lao động tốt hơn

14


Phần I

VỆ SINH LAO ĐỘNG
XβW

15
SINH LÝ LAO ĐỘNG
VÀ PHÒNG CHỐNG MỆT MỎI


ặc trưng của lao động là tiêu hao trí tuệ và thể lực. Đối với các lao động tư duy
trí óc, những biến đổi sinh lý trong lao động thường khó xác định, sự mệt mỏi
thường khó định lượng hơn. Tiếng khi đó các lao động thể lực thường dễ đo đạc các
biểu hiện thông qua các phản ứng sinh lý, sinh hoá, các chỉ số tương đối rõ ràng.
Trong bài này chủ yếu nhằm miêu tả một số biế
n đổi sinh lý và vấn đề mệt mỏi do lao
động thể lực. Lao động thể lực với đặc trưng của nó là hiện tượng vận cơ tăng lên phù
hợp với yêu cầu lao động. Vấn đề cơ bản ở đây là tiêu hao năng lượng để đáp ứng yêu
cầu của các thao tác trong sản xuất. Công và năng lượng là vấn đề mấu chốt làm thay
đổi, đáp ứng của t

ế bào tham gia dây chuyền hoạt động của các cơ quan trong cơ thể,
ví dụ: muốn có năng lượng phải có cơ chất, phải có oxy để đốt cháy. Năng lượng sinh
ra một phần ở dạng công một phần ở dạng nhiệt. Nhiệt làm nóng cơ thể, cơ quan điều
hoà thân nhiệt của cơ thể phải đáp ứng theo. Tổ chức cơ cần năng lượng để ho
ạt động,
bắt buộc hệ thống tuần hoàn, hô hấp phải hoạt động tăng theo để cung cấp oxy và các
chất dinh dưỡng. Quá trình hoạt động cơ sinh ra các sản phẩm, các chất trung gian kéo
theo sự hoạt động đáp ứng của hệ thống tiết niệu, thần kinh

I. SINH LÝ LAO ĐỘNG
Các biến đổi sinh lý của các cơ quan chức năng trong cơ thể trong điều kiện lao
động là những biế
n đổi nhằm đáp ứng với các yếu tố môi trường và tính chất lao động.
Các đáp ứng này ở mỗi cơ quan trong cơ thể có khác nhau, với mức độ và sự biểu hiện
ra ngoài có thể quan sát được.
1.1. Hệ thống tuần hoàn
Do nhu cầu cung cấp oxy, các chất dinh dưỡng và đào thải các hợp chất trung
gian, các chất thải sau các phản ứng sinh lý, sinh hoá ở tổ chức, hệ thống tuần hoàn
cần ph
ải có những thích ứng phù hợp đặc biệt là cho hoạt động cơ bắp. Sự hoạt động
của tim tăng lên cả về tần số lẫn cường độ làm gia tăng lượng máu bóp từ tim. Khi yên
tĩnh lưu lượng này là 3 - 4 lít/ phút, khi làm việc nặng 10 lít/ phút, lao động nặng đặc
biệt 30 - 35 lít/ phút.
Bình thường nhịp tim khoảng 70 lần/ phút. Trong lao động có thể tăng lên hàng
trăm lần/ phút. Huyết áp tăng lên, trị số huyết áp t
ối đa tăng, thường từ 20 đến
60mmHg. Huyết áp tối thiểu tăng nhẹ hoặc bình thường do dãn mạch ngoại vi. Kết quả
của hoạt động tim mạch và huyết áp làm tăng lượng máu đến cơ. Theo Bacrop thì ở cơ
cẳng chân bình thường chỉ có 2 đến 5 ml máu/ phút tưới cho 1000ml cơ. Trong lao
động lượng máu do áp lực dòng máu ở các tiểu động mạch lên tiểu mao mạch làm cho

Đ

16
số mao mạch hoạt động tăng lên. Bình thường chỉ 30 đến 100 mao mạch hoạt động
trên diện cắt 1 cm
2
cơ. Trong lao động số mao mạch hoạt động này có thể tăng lên đến
300, cơ chế của hiện tượng này là do sự gia tăng bài xuất Adrenalin kích thích tim và
gây co lách. Các sản phẩm trung gian như axit lactic, axit cacbonic cũng có khả năng
làm giãn mạch, tăng lưu thông máu.
1.2. Hệ hô hấp
Do nhu cầu cung cấp oxy nên hệ hô hấp cũng hoạt động tăng lên, nhịp độ và biên
độ hô hấp đều tăng. Bình thường nhịp hô hấp khoảng 20 lầ
n/ phút. Trong lao động có
thể tăng lên 40 lần phút. Biên độ hô hấp bình thường là 400 - 500ml. Trong lao động
biên độ hô hấp có thể tăng lên 1 lít. Do nhu cầu cung cấp oxy thường khác nhau trong
lao động nên đáp ứng của hệ hô hấp cũng thay đổi. CO
2
và phản xạ thần kinh có vai
trò quan trọng đối với các đáp ứng của hệ hô hấp trong lao động.
Lao động nhẹ 0,12 - 0,2 lít không khí/ phút/ kg cân nặng.
Lao động nặng 0,3 - 0,5 lít không khí/ phút/ kg cân nặng.
Như vậy người lao động thể lực sống bình thường cần 6 lít không khí/ phút. Lao
động nặng cần tới 15 - 20 lít trong 1 phút. Trong quá trình lao động do tiêu thụ nhiều
oxy và thải nhiều cacbonic nên khả năng trao đổi khí phế nang mao mạch cũng tăng
lên, hệ số sử d
ụng oxy cũng tăng lên (bình thường = 0,3). Thương số hô hấp cũng tăng
lên (
1
O

CO
R
2
2
==
trong khí thở ra).
Khi nào dự trữ glucogen giảm thì R có thể tụt xuống (0,7 - 0,6).
1.3. Hệ thống nội môi
Trong lao động các thành phần hữu hình trong máu tăng do phản xạ co lách đẩy
máu ra ngoài biên. Hiện tượng mất nước do bài tiết mồ hôi cũng làm máu cô đặc. Lao
động càng nặng thì lượng bạch cầu toan tính càng giảm, thậm chí hết. Lượng đường
huyết bình thường trong máu là 0,8 - l,2g/ lít. Lao động càng nặng kéo dài thì lượng
đường càng giảm có khi xuống 0,6 - 0,5g/ lít, song ăn uống nghỉ ngơi
đường huyết lại
hồi phục. Thông thường dự trữ đường trong máu là 300 - 500g. Nếu lượng này giảm
làm cho lượng đường huyết tụt xuống quá có thể dẫn đến hôn mê.
Các sản phẩm trung gian, đặc biệt là axit lactic thường tăng lên có khi lên hàng
chục lần (bình thường 0,015g%, trong lao động 0,1 - 0,2g%, nếu tăng lên tới 0,4g%
các cơ ở khu vực đó sẽ không co được).
1.4. Hệ bài tiết
Do bài tiết mồ hôi nhiều nên lượng nước ti
ểu giảm, hiện tượng giãn mạch ngoại
biên làm cho lượng máu qua thận giảm đi tuỳ theo cường độ lao động và sự mệt mỏi
lao động, nhiệt độ môi trường và điều kiện lao động kết hợp với hiện tượng điều hoà
thân nhiệt làm cho lượng mồ hôi được thoát ra có khi tới 3 hoặc 4 lít trong một ca lao

17
động. Người ta có thể tính được lượng muối trong mồ hôi toàn thân bằng công thức
sau: (Dựa vào nồng độ muối ở trong mồ hôi lưng - Công thức Zolina).
Y= 0,893 X - 0,098 (g/l)

Y: Nồng độ muối trong mồ hôi toàn thân.
X: Nồng độ natriclorua trong mồ hôi lưng (g/l)
r
xy
= 0,895 (tương quan thuận)
S
xy
= 0,292
Muốn tính lượng muối cơ thể mất đi ta chỉ cần tính lượng mồ hôi mất nhân với Y
là được kết quả.
Trong mồ hôi thành phần chính là nước (0,98), chỉ còn lại 0,02 là muối vô cơ và
sản phẩm chuyển hoá, tuy vậy người lao động trong môi trường nóng mất mồ hôi
nhiều sẽ gây mất cả nước lẫn điện giải, là tiền đề cho các rối loạn sinh lý bệnh lý.
1.5. Hệ th
ần kinh
Diễn biến của hoạt động thần kinh trong lao động là một quá trình “ức chế thụ
động - Hưng phấn - ức chế bảo vệ”. Từ ức chế thụ động lúc mới bắt tay vào công việc
sau đó có thể nhanh chóng thích nghi, hệ thần kinh chuyển sang giai đoạn hưng phấn,
làm việc thoải mái, năng suất lao động cao. Quá trình hưng phấn này dài hay ngắn tuỳ
thuộ
c vào sức khoẻ và công việc cũng như môi trường lao động. Sau quá trình hưng
phấn là sự mệt mỏi của thần kinh biểu hiện bằng hiện tượng ức chế, giảm tốc độ dẫn
truyền, ngưỡng đáp ứng thần kinh tăng lên. Người ta gọi hiện tượng ức chế này là ức
chế bảo vệ.
1.6. Tiêu hao năng lượng và oxy trong lao động
Trong lao động đặc biệt là lao độ
ng cơ bắp huy động nhiều oxy để cung cấp cho
hoạt động sinh năng lượng là một quá trình đáp ứng hết sức năng động của cơ thể. Do
hệ thống cơ chiếm đến 42% trọng lượng cơ thể nên lao động cơ bắp có thể tăng tiêu
hao năng lượng lên hàng nghìn Kcal/ 24 giờ. Hoạt động của cơ chia ra làm hai giai

đoạn. Giai đoạn đầu không cần sự có mặ
t của oxy vì chủ yếu là hiện tượng giải phóng
các dây nối giàu năng lượng như ATP, ADP cho năng lượng và axit lactic. Giai đoạn
sau là giai đoạn chuyển hoá axit lactic cho năng lượng, giải phóng CO
2
và H
2
O. Giai
đoạn này cần đủ oxy như vậy việc cung cấp oxy tuỳ thuộc vào sự tiêu hao năng lượng
và cũng là do nhu cầu hoạt động cơ bắp. Quá trình sinh năng lượng sẽ kéo theo hiện
tượng gia tăng các hoạt động hô hấp và thần kinh Thông thường năng lượng được
sinh ra chủ yếu dưới dạng nhiệt (70%) nên nó sẽ làm cho nhiệt độ của thể tăng lên.
Trong lao động nặng oxy cũng th
ường không đủ nên có hiện tượng nợ oxy trong giai
đoạn hồi phục.

18

Trên cơ sở năng lượng tiêu hao nhiều hay ít, người ta chia hoặc phân loại lao
động ra các mức độ như sau: lao động vừa, lao động nặng, lao động rất nặng, lao động
nặng đặc biệt (năng lượng tiêu hao từ 200 - 3500 Kcal). Riêng lao động trí óc, lao
động căng thẳng thần kinh tâm lý thì không dựa vào lượng năng lượng tiêu hao để
đánh giá.
Trong quá trình lao động có rất nhiều cơ quan bị chi phối gây ra những biến đổi
sinh lý lao động đặc thù c
ần xem xét thêm thông qua các chỉ số sinh lý, sinh hoá khác
nhau. Ví dụ: hệ thần kinh thực vật, hệ tiêu hoá, các giác quan

II. MỆT MỎI TRONG LAO ĐỘNG
Mệt mỏi là trạng thái mất cân bằng sinh lý tạm thời của cơ thể, nó được coi như

hiện tượng bắt đầu có những rối loạn các phản ứng sinh lý, sinh hoá của cơ thể trong
lao động song nếu được nghỉ ngơi sẽ trở lại bình thường không để lại di chứ
ng gì.
Trạng thái mệt mỏi được biểu hiện bằng dấu hiệu khó chịu, uể oải, chức năng sinh lý
mất cân bằng, năng suất lao động giảm dễ xảy ra tai nạn lao động.
- Mệt mỏi các khí quan riêng biệt do những biến đổi cục bộ ở bộ não không có ý
nghĩa toàn thân như: nhìn lâu mỏi mắt, vận cơ tĩnh đơn điệu, viết nhiều mỏi tay
Tr
ạng thái mệt mỏi này dễ cải thiện khi ta thay đổi vận động sang bộ phận khác.
- Mệt mỏi toàn thân thường gặp trong lao động thể lực nặng mà cơ thể phải huy
động khối lượng cơ hoạt động nhiều. Ví dụ: mang, vác, chạy, nhảy
- Mệt mỏi não lực: Là hiện tượng giảm khả năng hoạt động của tín hiệu thứ hai
làm cho khả năng tư duy bị suy gi
ảm. Các triệu chứng thông thường là nhức đầu,
chóng mặt, mất ngủ, trương lực cơ giảm, suy nhược mạch, suy nhược thần kinh thực
vật
- Mệt mỏi tâm sinh lý, tinh thần: Thường gặp ở những lao động kỹ thuật phức tạp
đòi hỏi sự căng thẳng về tâm lý khách quan, trách nhiệm. Ví dụ: lái xe, đánh máy chữ,
trực vô tuyến, ra đa
2.1. Cơ chế của mệt m
ỏi
Về cơ chế phát sinh mệt mỏi còn có nhiều quan điểm khác nhau:

19
- Có tác giả cho rằng mệt mỏi được hình thành do hiện tượng tiêu hao dự trữ
đường. Trong thực tiễn lao động nặng nhọc vận cơ nhiều thường làm cho đường huyết
giảm ở ngưỡng thấp bởi glucogen không kịp phân huỷ, hậu quả của quá trình này làm
cho cơ phải hoạt động thường xuyên ở trạng thái tiết kiệm đường glucoza và hiện
tượng mệt mỏi xuất hiện dần dầ
n.

Nhiều tác giả cho rằng mệt mỏi sinh ra do hiện tượng nhiễm độc cơ, tế bào bởi
các sản phẩm chuyển hoá trung gian. Trong thực tế lượng axit lactic thường là
0,015mg% song do hoạt động cơ quá mạnh và nhanh nên axit này có khi tăng gấp 10 -
20 lần làm cho cơ không co được.
Mệt mỏi cũng có thể bắt nguồn từ hiện tượng thiếu oxy của tổ chức bởi hiện
tượng nợ oxy quá dài do vận cơ. Thông th
ường hiện tượng thiếu oxy thường kết hợp
với sự gia tăng các sản phẩm trung gian không có lợi cho môi trường hoạt động của tế
bào.
Nhiều tác giả hiện nay thống nhất theo cách giải thích về cơ chế mệt mỏi gắn liền
với hoạt động của thần kinh. Lý thuyết này phù hợp với thực tế và có thể chứng minh
bằng thực nghiệm. Do hoạt động th
ể lực hoặc não lực căng thẳng, quá trình hưng phấn
ban đầu mạnh mẽ và kéo dài sẽ dẫn đến sự thiếu hoặc không đáp ứng kịp nhu cầu của
cơ thể. Hiện tượng ức chế bảo vệ xảy ra trong điều kiện trên đây sẽ là tất yếu. Trong
thực nghiệm người ta dùng phương pháp kích thích gây hưng phấn một vùng khác của
vỏ não, hưng phấ
n này sẽ lan toả có thể xoá vùng ức chế và cũng xoá luôn biểu hiện
mệt mỏi ở các vùng cơ mà nó chi phối. Trong thực hành người ta có thể ứng dụng học
thuyết này để chống mệt mỏi bằng cách thay đổi hoạt động hoặc kiểu hoạt động cơ
bắp, hay nói một cách khác là nghỉ ngơi tích cực.
2.2. Nguyên nhân của mệt mỏi
Mệt mỏi có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng người ta có thể
quy thành 2 nhóm
nguyên nhân chính là trong lao động và ngoài lao động.
2.2.1. Nguyên nhân trong lao động
Trong quá trình lao động đặc biệt là lao động vận cơ. Khi số lượng cơ hoạt động
khoảng 2/3 tổng số trở lên hoặc vận cơ anh máu sẽ không cung cấp đủ oxy các sản
phẩm trung gian sinh ra nhiều, thần kinh bị hưng phấn mạnh kéo dài, quá trình ức chế
hình thành làm cho mệt mỏi sớm xuất hiện.

Các cơ quan phân tích phải hoạt động điều chỉnh do tác độ
ng của lao động và
môi trường (tai, mắt ) quá tải, mệt mỏi sẽ mau đến với cơ quan đó, ví dụ: nhìn lâu
mỏi mắt, viết nhiều mỏi tay, hoạt động của hệ thần kinh trung ương càng nhiều, càng
tăng thì hiện tượng ức chế bảo vệ cũng sẽ đến sớm. Hiện tượng ức chế có tính lan toả
mạnh ở những người chưa quen việc, ít hoạt
động và không yêu nghề.
Một số yếu tố khác như điều kiện làm việc không tốt, tình trạng bệnh lý tiềm tàng

20
của người lao động Cũng làm cho quá trình mệt mỏi xuất hiện sớm.
2.2.2. Nguyên nhân ngoài lao động
Thông thường gánh nặng gia đình xã hội, trạng thái tâm lý, tinh thần trong cuộc
sống hàng ngày cũng đóng vai trò rất quan trọng tạo điều kiện xuất hiện mệt mỏi sớm
ở người lao động.
Chế độ dinh dưỡng không đầy đủ, hợp lý là nguyên nhân khá quan trọng gây nên
mệt mỏi của các đối tượng lao động, ví d
ụ: đồ ăn thiếu kali cơ mau chóng giảm trương
lực, chế độ ăn nghèo chất đạm hoạt động trí lực giảm, thiếu năng lượng hoạt động cơ
không thể kéo dài
2.3. Biểu hiện của mệt mỏi
Người ta có thể theo dõi các biểu hiện mệt mỏi thông qua các biểu hiện lâm sàng
hoặc cận lâm sàng. Các dấu hiệu quan sát thấy là hiện tượng giảm sút dẫn truyền thần
kinh, hoạt động bổ sung, mệt mỏi cấp diễn, hiện tượng quá sức và các chất bài tiết qua
nước tiểu, mồ hôi không bình thường. Hiện tượng giảm sút dẫn truyền thần kinh có thể
thấy rất rõ thông qua sự chậm phản ứng hoặc phản ứng không chính xác. Khi quá trình
lao động nặng nhọc kéo dài tốc độ sung động của thần kinh giảm, ngưỡng phản ứng
của thần kinh tăng cao. Hậ
u quả của hiện tượng này là trí nhớ giảm, chậm hiểu, phối
hợp động tác kém, thiếu linh hoạt, dễ xảy ra tai nạn, năng suất lao động giảm.

Biểu hiện bổ sung khi quá trình lao động kéo dài thường là do các nhóm cơ hoạt
động kém hiệu lực, cơ thể tự điều chỉnh bằng cách huy động thêm các nhóm cơ khác
làm cho tư thế lao động trở nên bất hợp lý và tăng tiêu hao năng lượng.
M
ệt mỏi cấp diễn thường gặp ở những người lao động thể lực nặng. Người ta có
thể quan sát thấy hiện tượng mệt mỏi toàn thân, kiệt sức, nắn các bắp thịt thấy đau,
trương lực và sức bền cơ giảm, mạch nhanh nhỏ, run tay, người lao động cảm thấy
chức phận mất cân bằng, miệng đắng, ăn không ngon, ngủ không yên. Tuy vậy, các
trườ
ng hợp mệt mỏi cấp diễn thường được hồi phục sau một thời gian nghỉ ngơi và bù
đắp các thiếu hụt dinh dưỡng.
Hiện tượng quá sức thường gặp trong vận cơ quá lớn (thi đấu thể thao). Hiện
tượng này xuất hiện nhanh có thể thấy tình trạng xỉu dần, ngừng hô hấp, tim dãn, có
thể gây tử vong. Có thể quan sát thấy hiện tượng khó thở, co cứng hoặc mềm nhũ
n các
cơ, tinh thần rối loạn
Các xét nghiệm thường tiến hành để tìm một số sản phẩm được bài tiết trong
nước tiểu hoặc mồ hôi với các chỉ số. albumin tăng, axit lactic tăng creatinin tăng,
glucoza giảm, cathecolamin giảm

21
III. BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG MỆT MỎI
Để phòng chống mệt mỏi, người ta thường áp dụng các biện pháp tổng hợp sau
đây.
3.1. Các biện pháp kỹ thuật và lao động học
Thông thường người ta cần lưu tâm nhiều nhất đến các trang bị kỹ thuật tiến bộ
để có thể làm giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, giảm tối đa tiếp xúc với các
chất độc hại. Ngày nay vấ
n đề tự động hoá, cơ giới hoá các dây chuyền sản xuất đã trở
nên phổ biến do vậy năng lượng tiêu hao cho các thao tác đã giảm thiểu nhiều vì vậy

hiện tượng mệt mỏi thể chất đã giảm đáng kể. Vấn đề kín hoá các dây chuyền sản xuất
có thể giảm thiểu sự phát tán các yếu tố độc hại ra môi trường, gây hại cho người tiếp
xúc. Việ
c sử đụng người máy kết hợp với kỹ thuật kín hoá và tự động hoá trên thực tế
là một minh chứng của nền kỹ thuật cao phục vụ con người trong lao động ở thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Các biện pháp lao động học ứng dụng để phòng chống mệt mỏi là rất phong phú.
Tuy nhiên trên thực tế sự vận dụng lại không đều ở các dây chuyền sản xu
ất. Tổ chức
lao động hợp lý cũng góp phần cùng lao động học giảm thiểu hiện tượng mệt mỏi. Các
máy móc phù hợp với hoạt động sinh lý, giải phẫu của người công nhân cũng là một
chỉ tiêu lao động học cần thiết, ví dụ: khoảng cách từ các chi tiết cần thao tác tới chỗ
ngồi, chỗ đứng phù hợp, người lao động chỉ nên ngồi khi nâng vật nặng dưới 5kg, khi
thao tác v
ật nặng trên 20kg nên đứng.
Về các giải pháp lao động học: nên chú ý giảm tối đa các động tác thừa, các động
tác uốn mình trên 20
0
, phối hợp đều các chiều hoạt động với thói quen hoạt động tự
nhiên, ví dụ: xếp các vật nặng theo trọng lực, trong thao tác nên loại trừ hoặc giảm bớt
các vận cơ tĩnh. Cần phối hợp xen kẽ và khoa học giữa thời gian nghỉ người và làm
việc trong cũng như ngoài lao động.
3.2. Các biện pháp y tế và dinh dưỡng
Tuỳ theo loại hình lao động khác nhau mà có chế độ dinh dưỡng hợp lý, đầ
y đủ
để cơ thể mau hồi phục. Dinh dưỡng hợp lý, đầy đủ là chế độ dinh dưỡng đáp ứng
được những thiếu hụt, tiêu hao năng lượng và các chất của cơ thể do lao động. Việc bù
đắp thường là khó khăn do vậy không nên để lao động quá mệt mỏi, mất cân bằng quá
nhiều đến mức cơ thể không biết bù như thế nào cho đủ, cho đúng. Về biện pháp y tế
.

cần lưu ý sắp xếp công việc phù hợp với sức khoẻ người lao động, tổ chức khám
tuyển, khám định kỳ phát hiện các rối loạn bệnh lý và bệnh nghề nghiệp, kịp thời có
biện pháp dự phòng và điều trị. Thời gian khám sức khoẻ định kỳ cũng như tiêu chuẩn
khám tuyển phải phù hợp với công việc của người lao động.
Thường xuyên kiể
m tra môi trường lao động, tiêu chuẩn hoá môi trường và lao
động là rất cần thiết, đặc biệt ở những nước chậm phát triển.

22
ERGONOMIE

1. KHÁI NIỆM
Trong lao động sản xuất bản thân người lao động không những phải thực hiện
công việc của mình trong điều kiện lao động mà còn chịu sự chi phối của các vấn đề
sẵn có trong gia đình và xã hội một cách thường xuyên liên tục. Nhiều khi có tỷ trọng
của những vấn đề này lớn hơn rất nhiều làm cho sức khoẻ của họ cũng bị ảnh hưở
ng.
Tổng hợp của tất cả những vấn đề trên trong lao động phải làm sao cân bằng để các
phản ứng sinh lý, sinh hoá của cơ thể vẫn diễn ra bình thường song năng suất lao động
vẫn cao. Đây chính là những điều mà các nhà nghiên cứu Ergonomie quan tâm.
Ergonomie (lao động học) là khoa học nghiên cứu về lao động và sự phù hợp với
sức khoẻ người lao động trong sự chi phối của các yếu tố liên quan. Như
vậy mỗi loại
hình lao động cần có một sự phù hợp tương ứng về sức khoẻ con người (cả về mặt thể
chất lẫn tinh thần). Những lao động giản đơn yêu cầu đáp ứng của cơ thể không phức
tạp, song khoa học kỹ thuật phát triển, lao động càng phức tạp càng cần có những
nghiên cứu về sức khoẻ tốt hơn, ti
ến bộ hơn để có thể theo kịp với lao động mới. Lao
động càng có kết quả khi nó đáp ứng tốt cho con người. Lao động phải không làm tổn
hại sức khoẻ mà làm cho sức khoẻ người lao động tất hơn.

Vào những thế kỷ gần đây, khi nền công nghiệp bước vào giai đoạn phát triển thì
những nghiên cứu về lao động học cũng được đặt nền móng và những nghiên c
ứu đầu
tiên ra đời, trong đó có công trình nghiên cứu của Martinpan, ông cho rằng tâm sinh lý,
giải phẫu phải phù hợp với lao động thì lao động mới cỏ năng suất và an toàn, thoải
mái. Năm 1949, Murrel đã dùng từ Ergonomie để chỉ môn khoa học này vì nó có
nguồn gốc từ chữ Hy lạp là Ergon (lao động) và nomos (quy luật, quy tắc). Thực ra
“Cụm từ” này bao hàm ý nghĩa tập hợp những tri thức khoa học và kỹ thuật có liên
quan với con người khi lao động, mặ
t khác cần sử dụng các kiến thức đó để thiết kế,
thực hiện hợp lý hoá lao động với mục đích vừa kinh tế vừa mang tính chất nhân văn.
Cụm từ “ Lao động học” thực ra là theo nhiều tác giả tạm dịch trong khi chưa có cách
dịch nào hoàn toàn thoả đáng. Đối tượng của Ergonomie là người lao động do vậy khi
nghiên cứu Ergonomie người ta cần nghiên cứu cả một hệ thống các v
ấn đề: công cụ
lao động, môi trường lao động, đối tượng lao động Trong thực hành Ergonomie
người ta cần thực hiện được những mục tiêu cơ bản là làm sao lợi ích sản xuất cùng
song song phát triển phù hợp với sức khoẻ người lao động, đó là một tam giác cơ bản:
Hiệu quả - Thoải mái về tinh thần - Khoẻ mạnh về thể chất. Vấn đề này đã được các
nhà khoa h
ọc thống nhất trong hội nghị Stokhom năm 1961. Đây là nguyên tắc chung
của Ergonomie.

×