Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỈNH HÀ GIANG_2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.39 KB, 18 trang )

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỈNH
HÀ GIANG

Tài nguyên khoáng sản

Do cấu tạo địa chất phức tạp, trong quá trình thành tạo lòng đất, Hà
Giang đã hình thành nhiều mỏ khoáng. Nguồn khoáng sản trong đất
Hà Giang tuy chưa được điều tra có hệ thống toàn diện và chưa có
mỏ nào được thăm dò chi tiết.

Với tiềm năng cho thấy trữ lượng khoáng sản nhiên liệu, gồm có sắt
ở dạng manhetit - hematit - sunfua ở Tùng Bá (Bắc Mê), mănggan ở
vùng Đồng Tâm, chì ở Bằng Lang (Bắc Quang), thiếc còn ở dạng sa
khoáng, còn mỏ thì tìm thấy ở Việt Lâm và Nà Moi; chì - kẽm ở Tùng
Bá (Bắc Mê); mỏ than ở Phố Bảng (Đồng Văn); vàng sa khoáng tập
trung ở nhiều nơi, gặp nhiều ở sông Lô và sông Gâm các tài nguyên
này hiện nay chưa có điều kiện khai thác và, chưa xác định được trữ
lượng.

II. DÂN CƯ VÀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI

1.Dân cư

Dân số: Trên 680.000 người.
Dân tộc: 22 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một sự đa dạng
về bản sắc văn hoá. Trong đó dân tộc Mông chiếm 30,6%, Tày chiếm
24,9%, Dao chiếm 15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12%

mật độ trung bình khoảng 90 người/km2 , tuy nhiên mật độ dân số
không đồng đều sự chênh lệch mật độ giữa thành thị và nông thôn là
rất lớn. Sự tăng nhanh dân số ở Hà Giang nói chung và các dân tộc


thiểu số nói riêng trước hết liên quan tới mức sinh đẻ tương đối cao
của các cư dân ở đây, bên cạnh đó cũng phải kể đến một bộ phận
không nhỏ nhân dân các tỉnh miền xuối lên khai hoang phát triển
vùng kinh tế mới tại Hà Giang trong những thời kỳ khác nhau và đặc
biệt là trong những thập kỷ gần đây.

Qua những cứ liệu khảo cổ học cho thấy Hà Giang là một vùng đất cổ,
từ lâu đã có người sinh sống, có lịch sử văn hoá lâu đời. Trong quá
trình phát triển của lịch sử, Hà Giang là nơi hội tụ của các dân tộc di
cư từ nhiều vùng đất khác nhau vào các thời điểm khác nhau. Có
những dân tộc thiểu số là đông nhất cả nước, nhưng cũng có những
dân tộc ít người nhất cả

nước và chỉ có ở Hà Giang, tất cả đã làm nên diện mạo văn hoá nhân
văn ở Hà Giang rực rỡ, đa sắc màu tạo nên những nét độc đáo và
riêng biệt mà chỉ có ở Hà Giang

Theo số liệu thống kê 2008, hiện nay ở Hà Giang có tất cả là 22 dân
tộc thuộc 6 nhóm ngôn ngữ khác nhau, đông nhất là người Hmông
(chiếm tới trên 30% dân số), sau đến người Nùng, Tày, Dao, Kinh,
Giáy, La Chí, Hoa Hán, Pà Thẻn, Ngạn, Cờ Lao, Lô Lô, Bố Y, Phù Lá, Pu
Péo, Mường, Cao Lan, Thái, Sán Dìu.

Các nhóm ngôn ngữ và các dân tộc tiêu biểu của Hà Giang bao gồm:
- Nhóm ngôn ngữ Mông Dao, gồm các dân tộc: Mông, Dao, Pà thẻn
- Nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Giáy, Bố Y
- Nhóm ngôn ngữ Ka - Đại, gồm các dân tộc: La chí, Cờ lao, Pu Péo
- Nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, gồm các dân tộc: Lô Lô, Phù Lá
- Nhóm ngôn ngữ Hán, gồm dân tộc: Hoa
- Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, gồm dân tộc: Kinh


Cũng như các dân tộc thiểu số ở nước ta, các dân tộc thiểu số ở Hà
Giang có đặc điểm là cư trú phân tán và xen kẽ. Mỗi dân tộc có thể
phân bố ở nhiều điạ phương khác nhau trong tỉnh, nhưng cũng có
nhưng dân tộc chỉ phân bố ở những khu vực nhất định.

Đời sống dân cư: Tăng trưởng GDP đạt tốc độ tăng trưởng cao, giai
đoạn 2001-2005 đạt bình quân 10,3%/năm, thu nhập bình quân đầu
người năm 2005 khoảng 2,4 triệu đồng/năm, hệ thống điện- đường -
trường - trạm được tập trung đầu tư đáp ứng được nhu cầu của
người dân. Phấn đấu đến năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ nghèo từ 26%
xuống còn 15%.

2.Điều kiện kinh tế xã hội

tỷ Cơ cấu kinh tế: Đang chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông
– lâm nghiệp, tăng trọng công nghiệp và dịch vụ.

Hà giang là vùng miền núi nên dân số trong tỉnh không đông, đồng
bào Kinh chiếm đa số, còn lại là đồng bào các sắc dân Thổ, Mèo, Tày,
Dao, Mán, Nùng, Giấy và Lô Lô. Phần đông đều thờ cúng tổ tiên, thần
linh; và đều có những sắc thái văn hóa đặc thù.

Một trang trại ở Hà Giang, tiêu biểu cho mô hình nông-lâm kết hợp.
Cũng vì địa thế toàn rừng núi nên kinh tế Hà Giang tương đối kém
phát triển. Lâm sản chính là vài loại gỗ quý như lát hoa, lát da đồng;
và các loại gỗ cứng như lim, sến, trai, táu, đinh. Củ nâu, vầu, nứa ở
đâu cũng có.

Nông sản gồm lúa, ngô, khoai và các loại đậu đỗ. Vùng chân núi Tây

Côn Lĩnh trồng nhiều trà. Dân chúng cũng trồng cây ăn trái, mận và
lê ở vùng Đồng Văn, Hoàng Su Phì rất nổi tiếng. Nghề nuôi ong lấy
mật khá thịnh hành. Rừng Hà Giang có nhiều động vật hoang dã như
phượng hoàng, trăn, rắn, công, trĩ

Khoáng sản có mỏ chì, đồng, thủy ngân và cát trộn vàng. Sông Năng
và Bảo Lạc có các kỹ nghệ lọc vàng nhưng vẫn còn thô sơ, ngoài ra
chỉ toàn những tiểu công nghệ sản xuất vật dụng hàng ngày. Nền
thương mại Hà Giang chỉ giới hạn ở sự trao đổi lâm sản với miền
xuôi và với Trung Quốc.
Các vùng núi thấp như Vị Xuyên, Bắc Quang có kinh tế phát triển hơn
vùng núi.

Dựa vào sông Lô và lượng mưa lớn, các ngành nông nghiệp ở khu
vực này rất phát triển, không kém gì vùng núi trung du. Nơi đây có
vùng trồng cam sành nổi tiếng, những cánh đồng phì nhiêu


III. DU LỊCH

Thắng cảnh và Di tích

Hang Phương Thiện: cách thành phố Hà Giang 7 km (4,38 dặm) xuôi
về phía nam. Đây là nơi có nhiều phong cảnh, nhiều hang động tự
nhiên. Các loại quả đặc sản: mận, lê, cam, táo và các loại chè tuyết
san cổ thụ mọc trên độ cao 900 m (2.700 ft).

Hang Chui: cách thành phố Hà Giang 7 km (4,38 dặm) về phía nam.
Hang ăn sâu vào lòng núi khoảng 100 m (300 ft). Cửa hang hẹp phải
lách người mới qua được. Vào trong lòng hang mở rộng, vòm hang

cao vút, nhiều nhũ đá rủ xuống đủ mọi hình thù. Đặc biệt hang có
nhiều dơi, có dòng suối dâng cao đổ xuống thành thác.

Động Tiên và Suối Tiên: Động cách thành phố Hà Giang 2 km (1.25
dặm). Động có Suối Tiên rất đẹp. Tương truyền xưa, các tiên nữ vẫn
thường xuống động này để tắm vào dịp Tết nên được đặt tên là Động
Tiên. Nhân dân quanh vùng vẫn thường đến Động Tiên lấy nước và
cầu may mắn vào lúc giao thừa.

Động Én: Động cách thành phố Hà Giang 60 km (37,5 dặm) thuộc địa
phận huyện Yên Minh. Từ thành phố Hà Giang qua cổng trời Quản
Bạ, qua những cách rừng thông sẽ tới động Én. Hang động còn mang
nhiều nét hoang sơ nhưng đẹp.

Đồng Văn - "Cổng Trời": Là một huyện vùng cao biên giới của Hà
Giang. Độ cao vùng khoảng 1.000 m (3.000 ft) so với mặt biển, địa
hình hầu như chỉ thấy núi đá. Huyện lỵ cách thành phố Hà Giang 146
km (91,25 dặm) giao thông rất khó khăn. 9 trong 19 xã thuộc huyện
có đường biên giới với Trung Quốc.

Mùa đông nhiệt độ có lúc xuống đến 1 °C, nhưng mùa hè nóng nhất
chỉ khoảng 24 °C. Bầu trời hầu như quanh năm mưa và mù nên ở đây
người dân có câu: "thấy nhau trong tầm mắt, gặp nhau mất nửa
ngày" và "đất không ba bước bằng, trời không ba ngày nắng". Đồng
Văn có điểm cực bắc của Việt Nam tại xã Lũng Cú.

Người ta nói rằng nếu chưa lên Lũng Cú thì coi như chưa đến Đồng
Văn, bởi Lũng Cú là "nóc nhà của Việt Nam" nơi mà "cuối mặt sát đất,
ngẩng mặt đụng trời". Đồng Văn nổi tiếng về trái ngon quả ngọt: đào,
mận, lê, táo, hồng về dược liệu: tam thất, thục địa, hồi, quế Đồng

Văn còn nổi riếng về phong cảnh như núi non, hang động, những
rừng hoa đủ sắc màu

Thung lũng Quản Bạ
Núi đá Mèo Vạc, đèo Mã Pí Lèng

Núi Đôi (Thị trấn Tam Sơn và xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà
Giang) Danh thắng Núi Đôi thuộc thị trấn Tam Sơn và xã Quản Bạ,
huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.

Cách thành phố Hà Giang 46km về phía Bắc. Khi vượt qua cổng trời
Quản Bạ, du khách có dịp dừng chân chiêm ngưỡng Núi Đôi Quản Bạ,
với “đôi gò Bồng Đào” do thiên tạo thật cân đối, quyến rũ. Đây thực
sự là một cảnh quan karst độc đáo của thị trấn Tam Sơn, huyện Quản
Bạ và của cả khu vực cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc.

Cũng bắt đầu từ đây là cánh đồng Quản bạ thấp, phẳng, vì thế càng
tạo không gian thoáng đãng cho “đôi gò” nhô cao, bay bổng. Theo
đánh giá của các nhà khoa học địa chất thì Núi Đôi được cấu tạo bằng
đá Đôlômít. Do quá trình phong hóa đá lăn đồng đều theo sường núi
làm lùi dần sườn và hạ thấp dần đỉnh núi. Cuối cùng tạo nên hình
nón như hiện nay.

Đá Đôlômít bị phong hóa (do quá trình tự vỡ) thành các hạt sạn và
cát rất dễ dàng di chuyển theo sườn xuống dưới chân do trọng lực và
nước chảy tràn trong mùa mưa. Đặc biệt, còn đóng vai trò trọng
trong việc hình thành hình nón của Núi Đôi nói riêng và của các ngọn
núi có hình chop nón nói chung là có sự đan xen của các đứt gãy,
hướng khác nhau làm đá bị phá hủy dễ dàng hơn.


Núi Đôi thuộc kỷ Đệ Tứ - có niên đại cách ngày nay khoảng 1,6 triệu
đến 2 triệu năm trở lại đây. Ngoài Núi Đôi ra còn có một mực cao
hơn gồm các đồi dạng nón được hình thành theo con đường tương
tự nhưng ở giai đoạn cổ hơn, thể hiện rõ nhất là ba ngọn núi đang
tồn tại ở khu vực thị trấn Tam Sơn hiện nay. Danh thắng Núi Đôi
Quản Bạ xếp hạng quốc gia ngày 16/11/2009.

Thành phố Hà Giang: Thành phố Hà Giang là một thành phố đẹp nằm
trong một thung lũng, bốn bên là núi, có dòng sông Lô chảy qua
thành phố. Thành phố Hà Giang là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa của tỉnh. Thành phố có khu di chỉ khảo cổ học Đồi Thông nằm
ngay trong lòng thành phố, nơi đây đã tìm thấy hàng ngàn di vật từ
thời tiền sử và được xác định là một trong những vùng văn hóa sớm
nhất của Việt Nam.

Di tích kiến trúc nghệ thuật phố cổ Đồng Văn (Thị trấn Đồng Văn,
huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang) Từ thành phố Hà Giang ngược lên
phía Bắc theo đường quốc lộ 4C (Hà Giang – Đồng Văn) 155km là
đến phố cổ. Phố cổ Đồng Văn nằm ở thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng
Văn, tỉnh Hà Giang.

Phố cổ phân bố trên diện tích hơn 10.000 km2, bao gồm khu chợ và
những ngôi nhà thuộc hai thôn Quyết Tiến và Đồng Tâm. Trước đây,
khi chưa hình thành Phố cổ, mảnh đất thung lũng hình lòng chảo này
cây cối rậm rạp, nhà cửa dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, với ý đồ của chính quyền đô hô là xây dựng Đồng Văn trở
thành một trung tâm giao thương trên vùng cao nguyên đá, cũng
thời kỳ này Phố cổ được hình thành và xây dựng.

Từ đó đến nay nơi đây vẫn giữ vai trò là một trung tâm buôn bán

sầm uất trong khu vực cao nguyên đá Đồng Văn. Nhìn về tổng thể,
khu Phố cổ Đồng Văn là sự kết hợp giữa kiến trúc truyền thống của
cư dân bẩn địa với kiến trúc của cư dân vùng Hoa Nam (Trung
Quốc). Các ngôi nhà cổ với kiến trúc kiểu nhà phòng thủ: trình
tường, mái lợp ngói máng truyền thống của địa phương tạo cho toàn
bộ khu phố cổ Đồng Văn có nét đẹp riêng, độc đáo.

Đến nay, nhiều nhà cổ Đồng Văn tuy mới chỉ ngót khoảng trăm tuổi,
song nét rêu phong và sự phong lưu một thời của những dãy nhà cổ
còn lưu lại gợi cho ta cảm giác về một góc Phố cổ Đồng Văn xưa.
Cũng như các vùng miền đa dân tộc khác, Phố cổ Đồng Văn là khu
vực đa sắc màu văn hóa.

Người Tày chiếm đa số trong cộng đồng dân cư và có đời sống văn
hóa nổi trội so với các dân tộc có số ít dân hơn. Tuy nhiên, mỗi dân
tộc nơi đây vẫn bảo lưu được những nét sinh hoạt văn hóa tinh thần
đặc trưng của dân tộc mình. Di tích kiến trúc nghệ thuật Phố cổ Đồng
Văn được xếp hạng quố gia ngày 16/11/2009.

Dinh Họ Vương: Tại huyện Đồng Văn hiện có một điểm du lịch là
dinh họ Vương (Vương Chí Sình) thuộc địa phận xã Sà Phìn. Quy mô
của dinh không lớn nhưng đây là một công trình kiến trúc đẹp hiếm
có và rất độc đáo của vùng cao nguyên này. Đoạn đường dẫn vào
dinh chỉ dốc thoai thoải, được lát bằng những phiến đá lớn vuông
vức, phẳng lỳ.

Dinh được bao bọc bởi hai vòng tường thành xây bằng đá hộc. Vòng
thành ngoài là một bức tường dày khoảng 40 cm, cao khoảng 2 m (6
ft). Vòng thành trong dày và kiên cố hơn vòng thành ngoài. Cả hai
vòng thành đều có lỗ châu mai. Giữa hai vòng thành là một dải đất

rộng khoảng 50 m (150 ft), trồng toàn trúc. Dinh có ba ngôi nhà sàn.
Ngôi nhà chính quay mặt ra cổng thành, hai ngôi nhà phụ song song
nhau và vuông góc với ngôi nhà chính.

Cả ba ngôi nhà được làm bằng gỗ, từ cột, kèo, sàn, vách, mái đều làm
bằng gỗ quý. Ngôi nhà chính là nơi ở của "vua" họ Vương, ở đó hiện
vẫn còn bức hoàng phi với bốn chữ "Biên chinh khả phong" được
vua Nguyễn ban cho. Hai ngôi nhà kia dành cho những người phục
vụ và lính bảo vệ.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Nhà Vương (ảnh về Dinh thự Nhà
Vương) Dinh thự Nhà Vương thuộc xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn,
được xếp hạng cấp quốc gia năm 1993. Dinh thự được xây dựng chủ
yếu bằng đá xanh, gỗ pơ-mu, ngói đất nung già, các chi tiết được
chạm trổ tỉ mỉ, công phu, đẹp mắt với các hình chủ đạo là rồng,
phượng, dơi,… tượng trưng cho quyền quý và hưng thịnh.

Dinh thự mang vẻ đẹp bề thế, uy nghi với kiến trúc hình chữ
“vương”, tọa lạc trên quả đồi hình mai rùa và được bao bọc bởi hai
vòng tường thành xây bằng đá hộc có tác dụng vừa làm dinh thự vừa
làm pháo đài phòng thủ. Đây là một điển hình về sự giao thoa nghệ
thuật kiến trúc của người Mông và người Hán ở khu vực biên giới
Việt – Trung. Di tích kiến trúc nghệ thuật nhà Vương từng được ví
như một hạt ngọc xanh giữa lòng Công viên địa chất Cao nguyên đá
Đồng Văn.

Chợ tình Khâu Vai: Chợ chỉ họp mỗi năm một lần vào ngày 27 tháng
3 âm lịch tại xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc. Truyện kể rằng, ngày xưa
có một đôi trai gái thuộc hai bộ lạc yêu nhau. Người con gái rất xinh
đẹp, bộ lạc của cô không muốn cô lấy chồng sang bộ lạc khác; còn bộ

lạc bên chàng trai lại muốn cô về làm dâu bộ lạc của mình.

Chính vì vậy mà hiềm khích giữa hai bộ lạc xảy ra. Mối thù của hai bộ
lạc càng nhân lên khi tình yêu của họ càng thắm thiết. Một ngày kia,
khi người con trai đang ngồi với người yêu của mình trên núi thì
nhìn thấy cảnh tượng hai bộ lạc đang đánh nhau rất quyết liệt ở phía
dưới. Họ biết tình yêu của họ là nguyên nhân chính.

Để tránh đổ máu giữa hai bộ lạc, hai người đau đớn quyết định chia
tay và hẹn sẽ gặp nhau mỗi năm một lần đúng vào ngày ấy. Địa điểm
gặp nhau tại nơi họ vẫn thường hò hẹn - Khâu Vai. Dần sau đó, Khâu
Vai trở thành nơi hò hẹn chung cho tất cả những người yêu nhau
trong vùng. Chợ Khâu Vai ban đầu họp không có người mua, không
có người bán. Khoảng mười năm trở lại đây, do nhu cầu cuộc sống
nên ngày chợ họp ngoài việc hò hẹn, gặp gỡ, người ta mang cả hàng
hóa đến bán ở chợ. Do vậy đến chợ Khâu Vai, người ta cũng có thể
mua, bán, trao đổi những sản vật.

Tiểu khu Trọng Con

Cách đường quốc lộ số 2, 20 km về phía Đông Nam, cách Thành phố
Hà Giang khoảng 60 km về phía Bắc ở tại Xã Bằng Hành, Huyện Bắc
Quang, Tỉnh Hà Giang (đã được Nhà nước xếp hạng năm 1996). Năm
1945, thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí: Lê
Quảng Ba, Bế Triều, Nam Long cùng đội vũ trang tuyên truyền tiến
về tổng Bằng Hành xây dựng lực lượng cách mạng đặt tên là Tiểu
Khu Trọng Con. Tiểu Khu Trọng Con là cái nôi của phong trào cách
mạng ở Hà Giang.

Từ đây phong trào cách mạng được nhân lên, lan rộng khắp các địa

bàn của Tỉnh Hà Giang, từ vùng thấp đến các huyện vùng cao, Tiểu
khu Trọng Con đã góp phần vào sự thắng lợi của Cách mạng, giải
phóng Hà Giang trong thời gian ngắn, đưa nhân dân thoát khỏi cuộc
sống kìm kẹp của thực dân Pháp, Phát xít Nhật cùng bè lũ tay sai.
Tạo tiền đề cho sự phát triển tốt đẹp của phong trào cách mạng ở Hà
Giang trong những thời kỳ lịch sử sau này.

Di tích lịch sử Kỳ Đài.

Di tích nằm ở Trung tâm thành phố Hà Giang, nơi đây ngày
27/3/1961 đồng bào các dân tộc Hà Giang đã vinh dự được đón Bác
Hồ thăm và nói chuyện thân mật. Di tích Kỳ Đài không những là công
trình văn hóa, mà còn là nơi ghi dấu, gìn giữ những kỷ niệm về Bác
Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang, động viên khích lệ nhân dân
Hà Giang làm theo lời Bác Hồ căn dặn, hăng hái tham gia sản xuất,
đoàn kết một lòng theo Đảng xây dựng và bảo vệ quê hương Hà
Giang ngày càng phát triển. Bia và Chuông chùa Sùng Khánh

Di tích lịch sử nghệ thuật chùa Sùng Khánh cách Thành phố Hà Giang
9 km về phía Nam thuộc thôn Làng Nùng, xã Đạo Đức, Huyện Vị
Xuyên, Tỉnh Hà Giang (đã được nhà nước xếp hạng năm 1993). Cách
Thị xã Hà Giang 09 km về phía Tây Nam theo trục đường quốc lộ số
2.

Chùa nằm trong Thôn Nùng thuộc xã Đạo Đức, địa thế ngôi chùa rất
đẹp, phía sau lưng dựa vào dải núi, phía trái có núi hình Rồng Chầu,
phía phải có núi hình Hổ Phục, mặt quay về hướng Đông có cánh
đồng rộng và dòng suối trong "Thích Bích" chảy qua, xa xa là dòng
Sông Lô uốn mình cùng với trục đường quốc lộ số 2.


Chùa Sùng Khánh được xây dựng thời Triệu Phong (1356), do thời
gian, chùa bị hư hại, đến năm 1989 được nhân dân xây dựng trên
nền chùa cũ. Ở đây còn lưu giữ hai di vật: Bia đá thời Trần (1367)
ghi lại công lao của người sáng lập ra chùa và một quả Chuông cao
0.90 m, đường k ính 0.67 m, đươc đúc thời Hậu Lê (1705).

Nghệ thuật khắc trên đá, trên Chuông đồng và kỹ thuật đúc Chuông
là một bằng cứ nói lên bàn tay tinh sảo của các nghệ nhân vùng biên
giới phía Bắc này, và từ đó biết thêm lịch sử phát triển thời Trần và
Lê tới tận vùng biên ải Hà Giang.

Chuông chùa Bình Lâm

Chùa Bình Lâm thuộc địa phận thôn Tông Mường xã Phú Linh,
Thành phố Hà Giang. Chùa còn có tên gọi chữ Hán là "Bình Lâm Tự".
Do thời gian ngôi chùa không còn, nhân dân làm một ngôi nhà bảo vệ
và lưu giữ một quả chuông thời Trần được đúc vào tháng 3 năm Ất
Mùi (1295) chuông có chiều cao 103 cm, đường kính miệng 65 cm,
quai được cấu tạo bởi hai hình rồng, trên chuông có khắc bào Minh
bằng chữ Hán gồm 309 chữ năm Bính Thân, niên hiệu Hưng Long
thứ 4 (1296). Đây là quả chuông được coi là duy nhất và sớm nhất
tìm thấy ở nước ta hiện nay, trên quả chuông ta bắt gặp tiêu bản
rồng nổi trên chất liệu đồng (thế kỷ 13). Cùng với quả chuông, tại
chùa Bình Lâm còn phát hiện được một số di vật như Tháp đất nung,
mái ngói có hoạ tiết hoa chanh là những nét quen thuộc và tiêu
biểu của văn hoá thời Trần. (Hiện di tích đang được hoàn tất hồ sơ
đề nghị Nhà nước công nhận). Khu nhà Dòng họ Vương

Di tích kiến trúc nghệ thuật dòng họ Vương (dân tộc Mông) ở xã Sà
Phìn, Huyện Đồng Văn, Tỉnh Hà Giang (đã được nhà nước xếp hạng

năm 1993). Đầu thế kỷ XX, Vương Chính Đức được phong làm Bang
Tá đã xây dựng khu nhà của mình thành một dinh cơ phú cường và
độc đáo để ở và làm việc. Khu nhà được xây dựng theo kiến trúc cổ
Trung Hoa (cuối thời Thanh), tổng thể khu chia ba phần chính: Khu
tiền dinh, trung dinh và hâu dinh, gồm bốn nhà ngang, sáu nhà dọc,
hai tầng với 64 phòng với diện tích sử dụng là 1120 m2.

Bao bọc khu nhà là hệ thống tường đá dày từ 0,6 đến 0,9 m; Cao 2,5
đến 3m. Là di tích hiếm có ở vùng miền núi phía Bắc của một dòng
họ người Mông ở Hà Giang, với kiến trúc đẹp, những bức phù điêu
trạm trổ trên đá được trang trí cầu kỳ, tỉ mỉ các khung cửa sổ bằng
gỗ được trạm trổ khá tinh xảo, mái nhà được lợp bằng ngói máng.

Công trình khu nhà dòng họ Nhà Vương là công trình nghệ thuật -
Một di sản văn hoá, qua đây chứng tỏ nước ta và Trung Quốc có sự
giao lưu kiến trúc trong xây dựng, cảnh quan nơi đây đẹp, mát mẻ,
có núi cao đồng rộng thuận lợi cho khách đến tham quan du lịch khi
đến với Hà Giang; Khu nhà Dòng họ Vương cách Thành phố Hà Giang
145 km về phía Tây Bắc, cách Trung tâm huyện Đồng Văn 24 km về
phía Tây Nam. (Theo sách Hà Giang thành tựu trong công cuộc đổi
mới - Báo Đối ngoại Việt Nam 2004)

Lễ hội

Hà Giang là nơi có nhiều sản phẩm văn hóa đặc sắc từ truyền thống
lâu đời của hơn 20 dân tộc, một địa danh du lịch đáng nhớ bởi cảnh
quan thiên nhiên và con người ở đây. Không giống với bất kỳ một
nơi du lịch nào ở Việt Nam, đến Hà Giang, du khách có thể thấy được
những sản phẩm kết tinh từ truyền thống văn hóa độc đáo của đồng
bào miền núi, đó là các loại khăn thêu, túi vải, áo váy với các loại hoa

văn rực rỡ.

Du khách sẽ tham dự những phiên chợ vùng cao đầy thơ mộng.
Lễ mừng nhà mới dân tộc Lô Lô: Lễ mừng nhà mới kéo dài khoảng 2
ngày 2 đêm ở ngôi nhà mới của người dân tộc Lô Lô. Cả bản kéo tới
ăn mừng cho ngôi nhà mới. Thầy cúng đi hát, sau đó cùng ăn uống
vui chơi, hòa tấu kèn sáo và hát giao duyên nam nữ.

Lễ hội mùa xuân: Đây là lễ hội vui xuân của dân tộc H'mông và dân
tộc Dao, thường được tổ chức vào những ngày sau Tết Nguyên Đán
và kéo dài từ 3 đến 7 ngày. Lễ hội mang tính chất tổng hợp mừng
công, cầu mưa, cầu con trai. Lễ hội có thi bắn nỏ, hát giao duyên, ném
pa páo, uống rượu, mở tiệc đãi khách.

×