Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỈNH BÌNH ĐỊNH pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.12 KB, 17 trang )

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỈNH
BÌNH ĐỊNH

Diện tích : 6.025 km2 (năm 2003)
Dân số : 1.556,7 nghìn người (năm 2005)
Tỉnh lị : thành phố Quy Nhơn
Mã điện thoại : 056

Biển số xe : 77

Vị trí địa lý: Bình Định là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, cách Hà Nội 1.065 km về phía
Nam, cách TP.HCM 649 km về phía Bắc. Phía đông bắc giáp tỉnh
Quảng Ngãi, phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía tây giáp tỉnh Gia Lai
và phía đông giáp biển Đông.

Diện tích tự nhiên 6.025,0 km2 (năm 2003)

Dân số 1.556,7 nghìn người (số liệu năm 2005), mật độ 258
người/km2. Trên địa bàn tỉnh có nhiều dân tộc chung sống, trong
đó dân tộc Kinh chiếm 98% tổng dân số, 3 dân tộc thiểu số chiếm
2% chủ yếu là Ba Na, H’re, Chăm ở 113 làng/22 xã các huyện miền
núi, trung du

Bình Định có 11 đơn vị hành chính là thành phố Quy Nhơn và các
huyện: An Lão, Vĩnh Thanh, Vân Canh, Tây Sơn, Hoài An, Hoài Nhơn,
Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước. Toàn tỉnh có 157 xã, phường,
thị trấn.

Khí hậu: Bình Định có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với nhiệt độ
trung bình năm 26 – 28 độ C, lượng mưa trung bình 1.700 – 1.800


mm.

Tài nguyên thiên nhiên: Bình Định có các sông lớn là sông Kôn, Lại
Giang, La Tinh, Hà Thanh cùng hệ thống sông suối thuận lợi cho phát
triển thủy lợi, thủy điện và cung cấp nước sinh hoạt.

Có 11 nhóm đất với 30 loại đất khác nhau, trong đó đất phù sa chiếm
71.000 ha. Hiện có gần 117.000 ha đất nông nghiệp, 202.700 ha đất
lâm nghiệp có rừng, gần 200.000 ha đất chưa sử dụng có thể khai
thác để phát triển nông lâm nghiệp.

Bình Định có bờ biển dài 13 km, có 3 cửa lạch lớn là Quy Nhơn, Đề
Gi, tam Quan; có đầm Thị Nại và cá đầm khác, có nhiều loại thủy hải
sản quý thuận lợi cho phát triển đánh bắt, nuôi trồng thủy sản.

Bình Định không giàu về tài nguyên khoáng sản nhưng có một số
khoáng sản có giá trị như đá xây dựng, quặng titan, nước suối
khoáng, caolin, cát trắng.

Bình Định là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung BộViệt
Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố cảng Quy Nhơn
nằm cách thủ đô Hà Nội 1.065 km về phía bắc và cách Thành phố Hồ
Chí Minh 649 km về phía nam.

Vị trí địa lý

Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung của Việt Nam. Lãnh thổ của
tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc - Nam, có chiều ngang với độ
hẹp trung bình là 55 km (chỗ hẹp nhất 50 km, chỗ rộng nhất 60 km).
Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi với đường ranh giới chung 63 km

(điểm cực Bắc có tọa độ: 14°42'10 Bắc, 108°55'4 Đông). Phía Nam
giáp tỉnh Phú Yên với đường ranh giới chung 59 km (điểm cực Nam
có tọa độ: 13°30'10 Bắc, 108o54'00 Đông). Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai
có đường ranh giới chung 130 km (điểm cực Tây có tọa độ: 14°27'
Bắc, 108°27' Đông). Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 134
km, điểm cực Đông là xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh) thuộc thành phố
Quy Nhơn (có tọa độ: 13°36'33 Bắc, 109°21' Đông). Bình Định được
xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và
vùng nam Lào.

Địa hình

Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông.
Phía tây của tỉnh là vùng núi rìa phía đông của dãy Trường Sơn Nam,
kế tiếp là vùng trung du và tiếp theo là vùng ven biển. Các dạng địa
hình phổ biến là các dãy núi cao, đồi thấp xen lẫn thung lũng hẹp độ
cao trên dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn, các
đồng bằng lòng chảo, các đồng bằng duyên hải bị chia nhỏ do các
nhánh núi đâm ra biển. Ngoài cùng là cồn vát ven biển có độ dốc
không đối xứng giữa 2 hướng sườn đông và tây. Các dạng địa hình
chủ yếu của tỉnh là:
 Vùng núi: Nằm về phía tây bắc và phía tây của tỉnh. Đại bộ phận
sườn dốc hơn 20°. Có diện tích khoảng 249.866 ha, phân bố ở
các huyện An Lão (63.367 ha), Vĩnh Thạnh (78.249 ha), Vân
Canh (75.932 ha), Tây Sơn và Hoài Ân (31.000 ha). Địa hình
khu vực này phân cắt mạnh, sông suối có độ dốc lớn, là nơi
phát nguồn của các sông trong tỉnh. Chiếm 70% diện tích toàn
tỉnh thường có độ cao trung bình 500-1.000 m, trong đó có 11
đỉnh cao trên 1.000 m, đỉnh cao nhất là 1.202 m ở xã An Toàn
(huyện An Lão). Còn lại có 13 đỉnh cao 700-1000m. Các dãy núi

chạy theo hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực
núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách
núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Đặc tính này đã
làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi
thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá.
 Vùng đồi: tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía
đông, có diện tích khoảng 159.276 ha (chiếm khoảng 10% diện
tích), có độ cao dưới 100 m, độ dốc tương đối lớn từ 10° đến
15°. Phân bố ở các huyện Hoài Nhơn (15.089 ha), An Lão
(5.058 ha) và Vân Canh (7.924 ha).
 Vùng đồng bằng: Tỉnh Bình Định không có dạng đồng bằng
châu thổ mà phần lớn là các đồng bằng nhỏ được tạo thành do
các yếu tố địa hình và khí hậu, các đồng bằng này thường nằm
trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được ngăn cách
với biển bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Độ cao
trung bình của dạng địa hình đồng bằng lòng chảo này khoảng
25-50 m và chiếm diện tích khoảng 1.000 km². Đồng bằng lớn
nhất của tỉnh là đồng bằng thuộc hạ lưu sông Kôn, còn lại là các
đồng bằng nhỏ thường phân bố dọc theo các nhánh sông hay
dọc theo các chân núi và ven biển.
 Vùng ven biển: Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy
hẹp chạy dọc ven biển với chiều rộng trung bình khoảng 2 km,
hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian. Trong tỉnh có các
dãi cát lớn là: dãi cát từ Hà Ra đến Tân Phụng, dãi cát từ Tân
Phụng đến vĩnh Lợi, dãi cát từ Đề Gi đến Tân Thắng, dãi cát từ
Trung Lương đến Lý Hưng. Ven biển còn có nhiều đầm như
đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại; các
vịnh như vịnh Làng Mai, vịnh Quy Nhơn, vịnh Vũng Mới ; các
cửa biển như Cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi
và cửa Quy Nhơn. Các cửa trên là cửa trao đổi nước giữa sông

và biển. Hiện tại ngoại trừ cửa Quy Nhơn và cửa Tam Quan khá
ổn định, còn các cửa An Dũ, Hà Ra, Đề Gi luôn có sự bồi lấp và
biến động.
Hải đảo

Ven bờ biển tỉnh Bình Định gồm có 32 đảo lớn nhỏ được chia thành
10 cụm đảo hoặc đảo một mình.
 Tại khu vực biển thuộc thành phố Quy Nhơn gồm cụm đảo Cù
Lao Xanh là cụm đảo lớn gồm 3 đảo nhỏ; cụm Đảo Hòn Đất gồm
các đảo nhỏ như Hòn Ngang, Hòn Đất, Hòn Rớ; cụm Đảo Hòn
Khô còn gọi là cù lao Hòn Khô gồm 2 đảo nhỏ; cụm Đảo Nghiêm
Kinh Chiểu gồm 10 đảo nhỏ (lớn nhất là Hòn Sẹo); cụm Đảo
Hòn Cân gồm 5 đảo nhỏ; Đảo đơn Hòn Ông Cơ.
 Tại khu vực biển thuộc huyện Phù Mỹ gồm cụm Đảo Hòn Trâu
hay Hòn Trâu Nằm gồm 4 đảo nhỏ; Đảo Hòn Khô còn gọi là Hòn
Rùa. Ven biển xã Mỹ Thọ có 3 đảo nhỏ gồm: Đảo Hòn Đụn còn
gọi là Hòn Nước hay Đảo Đồn, Đảo Hòn Tranh còn gọi là Đảo
Quy, Đảo Hòn Nhàn.
Trong các đảo nói trên thì chỉ đảo Cù Lao Xanh là có dân cư sinh
sống, các đảo còn lại là những đảo nhỏ một số đảo còn không có thực
vật sinh sống chỉ toàn đá và cát. Dọc bờ biển của tỉnh, ngoài các đèn
hiệu hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng Quy Nhơn, thì Bình Định còn
có 2 ngọn hải đăng: một ngọn được xây dựng trên mạng bắc của núi
Gò Dưa thuộc thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ huyện Phù Mỹ, ngọn này có
tên gọi là Hải Đăng Vũng Mới hay Hải Đăng Hòn Nước; ngọn thứ hai
được xây dựng trên đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Nhơn Châu thành phố
Quy Nhơn.

Sông ngòi


Các sông trong tỉnh đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn
phía đông dãy Trường Sơn. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao,
ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm
năng thuỷ điện 182,4 triệu KW. Ở thượng lưu có nhiều dãy núi bám
sát bờ sông nên độ dốc rất lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời gian
truyền lũ ngắn. Ở đoạn đồng bằng lòng sông rộng và nông có nhiều
luồng lạch, mùa kiệt nguồn nước rất nghèo nàn; nhưng khi lũ lớn
nước tràn ngập mênh mông vùng hạ lưu gây ngập úng dài ngày vì
các cửa sông nhỏ và các công trình che chắn nên thoát lũ kém. Trong
tỉnh có bốn con sông lớn là Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh cùng
các sông nhỏ như Châu Trúc hay Tam Quan. Ngoài các sông đáng kể
nói trên còn lại là hệ thống các suối nhỏ chằng chịt thường chỉ có
nước chảy về mùa lũ và mạng lưới các sông suối ở miền núi tạo điều
kiện cho phát triển thuỷ lợi và thuỷ điện. Độ che phủ của rừng đến
nay chỉ còn khoảng trên 40% nên hàng năm các sông này gây lũ lụt,
sa bồi, thuỷ phá nghiêm trọng. Ngược lại, mùa khô nước các sông
cạn kiệt, thiếu nước tưới.

Hồ đầm

Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ
mục đích tưới tiêu trong mùa khô. Trong đó có thể kể tên một số hồ
lớn tại các huyện trong tỉnh như: hồ Hưng Long (An Lão); hồ Vạn
Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê (Hoài Ân); hồ Mỹ Bình (Hoài Nhơn); hồ
Hội Sơn và Mỹ Thuận (Phù Cát); hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà
(Phù Mỹ); hồ Định Bình, Thuận Ninh (Tây Sơn); hồ Núi Một (Vân
Canh-An Nhơn); hồ Vĩnh Sơn, hồ Định Bình (Vĩnh Thạnh). Ngoài ra
Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá rộng là đầm Trà Ổ (Phù
Mỹ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi (Phù Mỹ-Phù Cát)và Thị Nại (Tuy
Phước-Quy Nhơn). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện thuận lợi cho

việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm
Thị Nại là đầm lớn rất thuận lợi cho việc phát triển cảng biển tầm cở
quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn Hội, đầm còn được
biết đến với cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam hiện nay.

Khí hậu

Khí hậu Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa. Do sự phức
tạp của địa hình nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng và
cường độ khá nhiều.
 Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến
đổi 20,1-26,1°C, cao nhất là 31,7°C và thấp nhất là 16,5°C. Tại
vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0°C,
cao nhất 39,9°C và thấp nhất 15,8°C.
 Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm: tại khu vực miền
núi là 22,5-27,9% và độ ẩm tương đối 79-92%; tại vùng duyên
hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm tương đối
trung bình là 79%.
 Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng
đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ tháng 5-8
do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài
tháng 1-8. Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung
bình năm 2.000-2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng
mưa trung bình năm là 1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình
có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải và có xu thế
giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
 Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là
miền thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn
bờ biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có
1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn nhất tháng

9-11.
Lịch sử

Bình Định xưa là đất thuộc Việt Thường Thị và nền văn hóa Sa
Huỳnh, sau đó người Chăm đã tới chiếm lĩnh vùng đất này. Đến đời
nhà Tần xứ này là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận, đời nhà Hán là
huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, năm Vĩnh Hoà 2 (137)
người trong quận làm chức Công Tào tên là Khu Liên đã giết viên
huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương. Đời nhà Tùy
(605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là Lâm
Ấp. Đời nhà Đường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu. Năm 803, nhà
Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm ra đời, đất
này được đổi là Đồ Bàn, Thị Nại. Đời nhà Lê năm Hồng Đức 2 (1471)
vua Lê Thánh Tông đánh phá Chiêm Thành tới núi Thạch Bi chiếm
đất này và chia thành 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn của phủ
Hoài Nhơn thuộc thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1602 Chúa Nguyễn
Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành Phủ Quy Nhơn thuộc dinh
Quảng Nam. Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần, đã đổi tên phủ Quy
Nhơn thành phủ Quy Ninh.

Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn.
Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng
cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng
Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ dời ra phía
Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay là xã Nhơn Thành,
huyện An Nhơn). Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt các chức quan
trông coi: Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư
ký, mỗi chức đặt một người; mỗi huyện đặt cai tri, thư ký, mỗi chức
một người và 2 viên lục lại; mỗi tổng có cai tổng. Từ 1773 đến 1797,
nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn Ánh

đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu
trấn thủ và đặt quan cai trị gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục. Năm 1808
đổi dinh Bình Định thành Trấn Bình Định. Năm 1825 đặt tri phủ Quy
Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn.

Năm 1832 tách huyện Tuy viễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy
Phước, tách huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng
thời Bình Định và Phú Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên
tỉnh này. Năm 1888 đặt huyện Bình Khê. Vào năm 1885 Bình Định là
một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai-Kon Tum còn
thuộc về Bình Định. Năm 1890, thực dân Pháp sát nhập thêm Phú
Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn.
Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình Phú. Ngày 4 tháng
7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh tự
trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleikan Derr của dân tộc Gia Lai.
Địa bàn tỉnh Pleikou Derr bao gồm các vùng cư trú của đồng bào
thiểu số Xơ đăng, Bana, Gialai tách từ tỉnh Bình Định ra. Ngày 25
tháng 4 năm 1907 xoá bỏ tỉnh Pleikou Derr.

Toàn bộ đất đai của tỉnh này chia làm hai phần: một là Đại lý Kontum
cho sát nhập trở lại tỉnh Bình Định và đặt dưới sự cai trị của Công sứ
Bình Định; một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sát nhập vào tỉnh Phú Yên
và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Phú Yên. Năm 1913, thực dân
Pháp lại sát nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú và
thành lập tỉnh Kontum làm tỉnh riêng; địa bàn tỉnh Kontum bao gồm
Đại lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh
Phú Yên và Đại lý Đắc Lắc. Ngày 28 tháng 3 năm 1917 cắt tổng Tân
Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, sát
nhập vào tỉnh Kontum. Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra
khỏi tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945. Thời chính quyền

Sài gòn đổi các huyện thành quận, tỉnh Bình Định có 11 quận, 1 thị
xã, trong đó có 4 quận miền núi. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra nghị định về việc giải thể
khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam theo đó hai tỉnh Quảng
Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình. Năm 1989 Bình
Định tách ra từ tỉnh Nghĩa Bình để tái lập lại tỉnh và kéo dài như vậy
cho đến nay.

Hành chính

Bình Định bao gồm 1 thành phố trực thuộc và 10 huyện:
 Thành phố Qui Nhơn
 Huyện An Lão
 Huyện An Nhơn
 Huyện Hoài Ân
 Huyện Hoài Nhơn
 Huyện Phù Cát
 Huyện Phù Mỹ
 Huyện Tuy Phước
 Huyện Tây Sơn
 Huyện Vân Canh
 Huyện Vĩnh Thạnh
Dân số, dân tộc

Theo số liệu niên giám thống kê năm 2005, toàn tỉnh có 1.562.400
người, trong đó nam là (761.000 người) chiếm 48,7%, nữ là
(801.400 người) chiếm: 51,3%. Dân số ở thành thị là (393.000
người) chiếm 25,2%, nông thôn là (1.169.400 người) chiếm 74,8%,
mật độ dân số là 259,4 người/km2 và dân số trong độ tuổi lao động
chiếm khoảng (793.687 người) chiếm: 50,8% dân số toàn tỉnh.

Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác nhưng chủ yếu là Chăm,
Ba Na và Hrê, bao gồm khoảng 2,5 vạn dân.

Văn hóa

Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh,
từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành
Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây cũng
là nơi xuất phát phong trào nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với
tên tuổi của anh hùng Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân
như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Trung Trực, Đào Tấn,
Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan Bình Định còn nổi
tiếng bởi truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong
phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây
Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển cùng với các lễ hội như: lễ hội
Đống Đa, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi
Thành phố Qui Nhơn có trường Đại học Qui Nhơn, Trường Cao Đẳng
sư phạm Bình Định, Trường Đại học Quang Trung (tư thục), Trường
Cao Đẳng Kỹ thuật, hàng năm đào tạo hàng ngàn sinh viên khoa học
kỹ thuật cho tỉnh và khu vực miền trung Tây Nguyên .

Tuồng Bình Định

Bình Định là nơi có nghệ thuật tuồng rất phát triển gắn liền với tên
tuổi của Đào Duy Từ (Hiện Nay đền thờ danh nhân Đào Duy Từ ở tại
xã Hoài Thanh Tây huyện Hoài Nhơn, cách quốc lộ 1A 2km), Đào
Tấn. Các đoàn hát tuồng trong tỉnh được hình thành ở khắp các
huyện. Với sự giao lưu của nghệ thuật tuồng và võ Bình Định đã đưa
tuồng Bình Định lên một tầm cao mới khác lạ hơn so với các đoàn
tuồng của Huế hay Nguyễn Hữu Dỉnh của Quảng Nam. Tuồng còn gọi

là "hát bội" hay hát bộ sở dĩ nó có tên gọi như thế là vì ngoài việc hát
thì yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một vở tuồng hay và đặc sắc
là hành động điệu bộ của các đào kép. Việc kết hợp võ thuật vào các
màng nhào lộn, đánh trận ở mỗi đoàn có khác nhau tùy theo trình độ
của đào kép. Trước kia khi hát bội còn thịnh hành thì có nhiều đoàn
hát nhưng những năm gần đây dưới sự biến động của kinh tế thị
trường thì nhiều đoàn dần giải tán. Lúc còn thịnh hành các đoàn hát
bội thường được các làng, những gia chủ giàu có hay các lăng, đình
ven biển mời về biểu diễn.Sau những đoạn diễn hay người cầm chầu
ném tiền thưởng lên sân khấu. Vì thế mới có câu "Ở đời có bốn cái
ngu làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu" Thường thì sau đêm hát cuối
cùng các đoàn hay hát màn "tôn vương" để chúc tụng gia chủ, làng
xóm gặp nhiều may mắn và cuối màn "tôn vương" thì thường hát
câu: "rày mừng hải yến Hà Thanh-nhân dân an lạc thái bình âu ca"
hay "ngũ sắc tường vân khai bắc khuyết-nhất bôi thọ tửu chúc nam
sang".

Đặc sản

Ngoài các đặc sản về lâm, thổ, thuỷ, hải sản của duyên hải miền
Trung nói chung, Bình Định còn nổi tiếng có: rượu Bàu Đá (An
Nhơn), cá chua nước lợ (Phù Mỹ, Đề Gi), bánh tráng nước dừa (Tam
Quan. Ngày nay ở huyện Hoài Nhơn còn có thêm đặc sản Cá Ngừ Đại
Dương dân địa phương gọi là cá "Bò Gù" )

×