Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Khái quát Địa lý tỉnh Tiền Giang pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.84 KB, 15 trang )

Khái quát Địa lý tỉnh Tiền Giang

* Giới thiệu chung:
Tiền Giang là tỉnh vừa thuộc Vùng đồng bằng sông Cửu Long, vừa
nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nằm cách thành phố
Hồ Chí Minh 70 km về hướng Nam và cách thành phố Cần Thơ 90
km về hướng Bắc, nằm trong tọa độ 105050’ – 106045’ độ kinh
Đông và 10035’ - 10012’ độ vĩ Bắc. Phía Bắc và Đông Bắc giáp Long
An và TP. Hồ Chí Minh , phía Tây giáp Đồng Tháp, phía Nam giáp Bến
Tre và Vĩnh Long, phía Đông giáp biển Đông. Tiền Giang nằm trải dọc
trên bờ Bắc sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) với chiều dài
120km. Tiền Giang có diện tích tự nhiên là 2.481,77 km2, chiếm
khoảng 6% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 8,1% diện tích Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, 0,7% diện tích cả nước; dân số năm
2009 là 1,67 triệu người (mật độ dân số 672,9 người/km2), chiếm
khoảng 9,8% dân số Vùng đồng bằng sông Cửu Long, 11,4% dân số
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và 1,9% dân số cả nước. Tiền
Giang có 10 đơn vị hành chính cấp huyện (8 huyện, 01 thành phố, 01
thị xã) và 169 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó, thành phố Mỹ Tho
là đô thị loại 2.
Tiền Giang có địa hình tương đối bằng phẳng, đất phù sa trung
tính, ít chua dọc sông Tiền, chiếm khoảng 53% diện tích toàn tỉnh,
thích hợp cho nhiều loại giống cây trồng và vật nuôi. Bờ biển dài
32km với hàng ngàn ha bãi bồi ven biển, nhiều lợi thế trong nuôi
trồng các loài thủy hải sản (nghêu, tôm, cua…) và phát triển kinh tế
biển. Khí hậu Tiền Giang chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa khô bắt đầu từ
tháng 12 và mùa mưa từ tháng 5. Nhiệt độ trung bình hàng năm
khoảng 270C; lượng mưa trung bình hằng năm 1,467mm.

Khoáng sản Tiền Giang có mỏ đất sét Tân Lập với trữ lượng hơn 6
triệu m3, chất lượng tốt, có thể sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp,


đồ gốm xuất khẩu; và trên 1 triệu m3 than bùn có thể làm phân vi
sinh hữu cơ. Ngoài ra, còn trữ lượng cát dọc sông Tiền phục vụ cho
san lắp mặt bằng và tài nguyên nước khoáng, nước nóng

Năm 2009 khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản chiếm tỷ
trọng 48,3%, công nghiệp - xây dựng 23,4% và thương mại - dịch vụ
28,3%. GDP bình quân đầu người đạt 969 USD.
Sản phẩm nông lâm ngư nghiệp gồm cây lương thực có hạt đạt sản
lượng trên 1,3 triệu tấn; khóm sản lượng gần 100.000 tấn; dừa trên
79.000 tấn, cây ăn quả trên 800.000 tấn (không tính cây khóm). Tiền
Giang có diện tích trồng cây ăn quả lớn nhất so với các địa phương
trong cả nước với nhiều giống cây có giá trị xuất khẩu như: xoài cát
Hòa Lộc, vú sữa Vĩnh Kim, sầu riêng Ngũ Hiệp, thanh long Chợ Gạo,
nhãn xuồng cơm vàng, sơri Gò Công, bưởi long Cổ Cò và nhiều loại
cây có múi khác… Sản lượng từ nuôi và khai thác thủy sản năm 2009
đạt 189.000 tấn, trong đó khai thác đạt 80.000 tấn.
Năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đạt trên
7.200 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt 416 triệu USD, nhập khẩu
92,8 triệu USD.

Tiền Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng về du lịch. Hàng năm,
lượng du khách đến hàng năm đều tăng, riêng năm 2009 mặc dù
chịu tác động của suy thoái kinh tế thế giới nhưng lượng khách đến
Tiền Giang vẫn đạt 866.400 lượt người. Thế mạnh của du lịch Tiền
Giang chủ yếu nhờ vào các di tích văn hóa lịch sử và sinh thái như: di
tích văn hóa Óc Eo, Gò Thành từ thế kỷ I đến thế kỷ VI sau công
nguyên); di tích lịch sử Rạch Gầm - Xoài Mút, di tích Ấp Bắc, lũy Pháo
Đài; nhiều lăng mộ, đền chùa: lăng Trương Định , lăng Hoàng Gia,
lăng Tứ Kiệt, chùa Vĩnh Tràng, chùa Bửu Lâm, chùa Sắc Tứ… các
điểm du lịch sinh thái mới được tôn tạo như: vườn cây ăn quả ở cù

lao Thới Sơn, Ngũ Hiệp, Trại rắn Đồng Tâm, khu sinh thái Đồng Tháp
Mười, biển Gò Công

Mạng lưới viễn thông Tiền Giang được hiện đại hóa và triển khai
đồng loạt trong toàn tỉnh, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt
trong nước và quốc tế. Điện lưới quốc gia đến toàn bộ trung tâm các
xã, phường, thị trấn. Lượng nước sạch cung cấp cho sản xuất và sinh
hoạt đạt 55.000m3/ngày đêm cho các khu đô thị và nhiều vùng nông
thôn. Mạng lưới giao thông đường bộ khá hoàn chỉnh - đặc biệt là
tuyến đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh-Trung Lương vừa mới
đưa vào vận hành đã giúp rút ngắn đáng kể khoảng cách thời gian từ
thành phố Mỹ tho đến thành phố Hồ Chí Minh. Mạng lưới đường
thủy thuận lợi. Trục chính là sông Tiền, chiều dài 120km chảy ngang
qua tỉnh về phía Nam và 30km sông Soài Rạp ở phía Bắc, tạo điều
kiện cho Tiền Giang trở thành điểm trung chuyển về giao thông
đường sông từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đi TP. Hồ Chí Minh
và các tỉnh miền Đông. Về phía Đông, đường biển từ huyện Gò Công
Đông đến Bà Rịa- Vũng Tàu khoảng 40km.

* Tổng quan:
Tỉnh Tiền Giang nằm về phía Đông Bắc Đồng bằng sông Cửu Long và
cách thành phố Hồ Chí Minh 70 km, có diện tích tự nhiên là 2,481.8
km2. Có 32 km bờ biển và là cửa ngõ ra biển Đông.

Toạ độ địa lý Tiền Giang giới hạn bởi
- 105o49'07'' đến 106o48'06''kinh độ Đông.
- 10o12'20'' đến10o35'26''vĩ độ Bắc.

Ranh giới hành chính
- Phía Đông giáp biển Đông,

- Phía Tây giáp tỉnh Đồng Tháp,
- Phía Nam giáp tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long,
- Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Long An. TP.Hồ Chí Minh


* Tiền Giang: Điều kiện tự nhiên

* Địa hình:
Tỉnh Tiền Giang có địa hình bằng phẳng, với độ dốc nhỏ hơn 1% và
cao trình biến thiên từ 0m đến 1,6m so với mặt nước biển, phổ biến
từ 0,8m đến 1,1m. Nhìn chung, toàn vùng không có hướng dốc rõ
ràng, tuy nhiên có những khu vực có tiểu địa hình thấp trũng hay gò
cao hơn so với địa hình chung như sau:

- Khu vực đất cao ven sông Tiền (đê sông tự nhiên) phân bố dọc theo
sông Tiền và kéo dài từ xã Tân Hưng (Cái Bè) đến xã Xuân Đông
(Chợ Gạo). Cao trình phổ biến từ 0,9 - 1,3m, đặc biệt trên dãy đất cao
ven sông Nam quốc lộ 1 từ Hoà Hưng đến thị trấn Cái Bè do hầu hết
đã lên vườn nên có cao trình lên đến 1.6 - 1.8 m.

- Khu vực thuộc địa bàn huyện Cai Lậy, Cái Bè, giới hạn giữa kinh
Nguyễn Văn Tiếp và dãy đất cao ven sông Tiền có cao trình phổ biến
từ 0,7 - 1,0m và có khuynh hướng thấp dần về kinh Nguyễn Văn
Tiếp. Trên địa bàn có hai khu vực giồng cát và vùng lân cận giồng cát
có cao trình lớn hơn 1.0m là giồng Cai Lậy (bao gồm Bình Phú,
Thanh Hoà, Long Khánh, thị trấn Cai Lậy, Tân Bình, Nhị Mỹ) và giồng
Nhị Quý (kéo dài từ Nhị Quý đến gần Lonh Định). Do đó, khu vực
nằm giữa hai giồng này là dãy đất cao ven sông Tiền (bao gồm khu
vực Long Tiên, Mỹ Long, Bàn Long, Bình Trung) có cao trình thấp
hơn nên khó tiêu thoát nước.


- Khu vực trũng phía Bắc Đồng Tháp Mười (bao gồm hầu hết huyện
Tân Phước) có cao trình phổ biến từ 0,60 - 0,75m, cá biệt tại xã Tân
Lập 1 và Tân Lập 2 có cao trình thấp đến 0,4 - 0,5m. Do lũ hàng năm
của sông Cửu Long tràn về Đồng Tháp Mười cộng với cao trình mặt
đất thấp nên đây là khu bị ngập nặng nhất của tỉnh .

- Khu vực giữa Quốc lộ 1 và kinh Chợ Gạo có cao trình từ 0,7 - 1,0m
bao gồm vùng đồng bằng bằng phẳng 0,7 - 0,8m nằm kẹp giữa giồng
Phú Mỹ, Tân Hương, Tân Hiệp (Châu Thành) phía Tây và giồng Bình
Phục Nhất, Bình Phan (Chợ Gạo) phía Đông .

- Khu vực Gò Công giới hạn từ phía Đông kinh Chợ Gạo đến biển
Đông, có cao trình phổ biến từ 0,8 và thấp dần theo hướng Đông
Nam, ra đến biển Đông chỉ còn 0,4 - 0,6m Có hai vùng trũng cục bộ
tại xã Thạnh Trị, Yên Luông, Bình Tân (Gò Công Tây) và Tân Điền,
Tân Thành (Gò Công Đông). Do tác động bồi lắng phù sa từ cửa Xoài
Rạp đưa ra, khu vực ven biển phía Bắc (Tân Trung, Tân Phước, Gia
Thuận, Vàm Láng) có cao trình hơn hẳn khu vực phía Nam .
Trên địa bàn còn có rất nhiều giồng cát biển hình cánh cung có cao
trình phổ biến từ 0,9 - 1,1m nổi hẳn lên trên các đồng bằng chung
quanh.

* Đất đai:
Tổng quỹ đất tự nhiên của tỉnh là 236.663ha, trong đó có các nhóm
đất chính như sau:

+ Nhóm đất phù sa: Chiếm 53% tổng diện tích tự nhiên 125.431 ha,
chiếm phần lớn diện tích các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ
Gạo, thành phố Mỹ Tho và một phần huyện Gò Công Tây thuộc khu

vực có nguồn nước ngọt. Đây là nhóm đất thuận lợi nhất cho nông
nghiệp đã sử dụng toàn diện tích. Trong nhóm đất này có loại đất
phù sa bồi ven sông có thành phần cơ giới tương đối nhẹ hơn cả nên
thích hợp cho trồng cây ăn trái.

+ Nhóm đất mặn: Chiếm 14,6% tổng diện tích tự nhiên 34.552ha,
chiếm phần lớn diện tích huyện Gò Công Đông, thị xã Gò Công, Gò
Công Tây và một phần huyện Chợ Gạo. Về bản chất đất đai thuận lợi
như nhóm đất phù sa, nhưng bị nhiễm mặn từng thời kỳ hoặc
thường xuyên. Nếu được rửa mặn loại đất này sẽ rất thích hợp cho
việc sản xuất nông nghiệp với chủng loại cây trồng tương đối đa
dạng.

+ Nhóm đất phèn: Chiếm diện tích 19,4% diện tích tự nhiên
45.912ha, phân bố chủ yếu ở khu vực trũng thấp Đồng Tháp Mười
thuộc phía Bắc 3 huyện Cái bè, Cai Lậy, Tân Phước. Đây là loại đất
hình thành trên trầm tích đầm lầy mặn ven biển thành tạo trong quá
trình biển thoái, nên loại đất này giàu hữu cơ và phèn. Đất phèn tiềm
tàng và hoạt động sâu (phèn ít) có diện tích ít hơn so với đất phèn
tiềm tàng và hoạt động nông (phèn nhiều) với tỷ lệ 6,82% so với
12,19%.
Hiện nay, ngoài tràm và bàng là hai loại cây cố hữu trên đất phèn
nông, đã tiến hành trồng khóm và mía có hiệu quả ổn định trên diện
tích đáng kể. Ngoài ra, một số diện tích khác cũng đã bước đầu được
canh tác có hiệu quả với một số mô hình như trồng khoai mỡ và các
loại rau màu, trồng hai vụ lúa và cả trồng cây ăn quả trên những diện
tích có đủ nguồn nước ngọt và có khả năng chống lũ.
Đất phèn nặm chiếm diện tích nhỏ phân bổ dọc bờ đất thấp (đất
biền) bị ngập triều ven các lạch triều bưng trũng.


+ Nhóm đất cát giồng: Chiếm 3,1% diện tích tự nhiên với 7.336ha,
phân bổ rải rác ở các huyện Cai Lậy, Châu Thành, Gò Công Tây và tập
trung nhiều nhất ở huyện Gò Công Đông do đất cát giồng có địa hình
cao, thành phần cơ giới nhẹ, nên chủ yếu làm đất thổ cư và canh tác
cây ăn trái, rau màu.
Nhìn chung, đất đai của tỉnh phần lớn là nhóm đất phù sa (chiếm
53%), thuận lợi nguồn nước ngọt, từ lâu đã được đưa vào khai thác
sử dụng, hình thành vùng lúa năng suất cao và vườn cây ăn trái
chuyên canh của tỉnh; còn lại 19,4% (45.912ha) là nhóm đất phèn và
14,6% (34.552ha) là nhóm đất phù sa nhiễm mặn trong thời gian
qua được tập trung khai hoang, mở rộng diện tích, cải tạo và tăng vụ
thông qua các chương trình khai thác phát triển vùng Đồng Tháp
Mừơi, chương trình ngọt hoá Gò Công, đã từng bước mở rộng vùng
trồng lúa năng suất cao, vườn cây ăn trái sang các huyện phía Đông
và vùng chuyên canh cây công nghiệp thuộc huyện Tân Phước.
Đến nay, trên 90% diện tích đã được đưa vào khai thác sử dụng cho
các mục đích như sau:



* Biển:
Tiền Giang có khu vực giáp biển Đông thuộc huyện Gò Công Đông
với bờ biển dài 32km nằm kẹp giữa các cửa sông lớn là Xoài Rạp
(sông Vàm Cỏ) và cửa Tiểu, cửa Đại (sông Tiền).

Sóng biển có độ cao cực đại (bình quân 1,25m và tối đa 3m) vào các
tháng 10 đến tháng 02 khi có ảnh hưởng rõ nét của gió Đông Bắc
(gió chướng). Ngoài ra, chế độ thủy triều khu vực biển Gò Công Đông
chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều biển Đông.


Vùng ven biển, thuộc hệ thống các cửa sông giáp biển nên từ lâu đã
thiết lập được hệ thống rừng trồng ngập mặn với diện tích 2.028ha
gồm các loại bần, đước, mắm, dừa nước, phi lao. Thực vật dưới tán lá
rừng ngập mặn rất phong phú gồm 75 loài thuộc 35 họ.

Khu vực ven biển được phù sa bồi đắp quanh năm, hiện quá trình
bồi đắp đang hình thành các cồn ven biển:

- Cồn Vân Liễu - cồn Ông Mão: nằm tiếp giáp với vùng đất liền thuộc
xã Tân Thành (Gò Công Đông), có chiều dài 7km, rộng 5km với diện
tích 4.055ha. Độ cao đường bình độ từ 0,6 đến -6,0m, vùng ven bờ
nổi lên khi triều kém.

- Cồn Ngang: nằm tiếp giáp phía Đông cù lao Tân Thới thuộc xã Phú
Tân (Gò Công Đông), có chiều dài 5,5km, rộng 2,5km với diện tích
1.617ha. Độ cao dường bình độ từ -1,1 đến -0,6m, nổi một phần diện
tích khi triều kém. Hiện một số khu vực cao trên cồn đã trồng được
phi lao, mắm

- Cồn Vượt: nằm cách 1,5km về phía Đông Nam cồn Ngang, có chiều
dài 10km, rộng 3km, với diện tích 3.188ha. Độ cao đường bình độ từ
-2,3 đến - 6,1m, ngập hoàn toàn.

Với điều kiện nằm giữa các cửa sông nên rất thuận lợi cho nuôi trồng
và đánh bắt thủy hải sản. Thủy sản nước lợ: gồm con giống và con
non sinh sản và di chuyển vào sâu trong bờ, trữ lượng hàng năm ước
tính về tôm, cua, cá, sò, nghêu tại các vùng cửa sông là 156.000 tấn.
Hải sản, tiềm năng hải sản khá dồi dào với trữ lượng hàng năm về
sinh vật nổi lên đến 12.000 triệu tấn thực vật phiêu sinh, 5,96 triệu
tấn động vật phiêu sinh, 4,7 triệu tấn sinh vật đáy và hơn 1 triệu tấn

cá.

* Sông ngòi:
Tiền Giang có mạng lưới sông, rạch chằng chịt, bờ biển dài thuận lợi
cho việc giao lưu trao đổi hàng hoá với các khu vực lân cận đồng thời
là môi trường cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản:

- Sông Tiền: là nguồn cung cấp nước ngọt chính, chảy 115km qua
lãnh thổ Tiền Giang, cao trình đáy sông từ -6m đến -16m, bình quân
-9m, độ dốc đáy đoạn Cái Bè - Mỹ Thuận khá lớn (10 - 13%) và lài
hơn về đoạn hạ lưu (0,07%). Sông có chiều rộng 600 - 1.800m, tiết
diện ướt vào khoảng 2.500 - 17.000m2 và chịu ảnh hưởng thủy triều
quanh năm. Lưu lượng mùa kiệt (tháng 4) khoảng 130 - 190m3/s .

- Sông Vàm Cỏ Tây: là một sông không có nguồn, lượng dòng chảy
trên sông chủ yếu là từ sông Tiền chuyển qua. Sông Vàm Cỏ Tây là
nơi nhận nước tiêu lũ từ Đồng Tháp Mười thoát ra và là 1 tuyến xâm
nhập mặn chính. Tại Tân An cao trình đáy sông -21,5m, độ dốc đáy
0,02%, rộng 185m, tiết diện ướt 1.930m2, lưu lượng bình quân các
tháng kiệt 9m3/s, lưu lượng lũ tối đa gần 5.000m3/s .

- Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có một số sông, rạch nhỏ thuộc lưu
vực sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây góp phần rất quan trọng trong
việc lưu thông, vận chuyển hàng hoá và phục vụ sản xuất như: Cái
Cối, Cái Bè, Ba Rài, Trà Tân, Phú Phong, Rạch Rầm, Bảo Định, Kỳ Hôn,
Vàm Giồng, Long Uông, Gò Công, sông Trà v.v

Hầu hết sông, rạch trên địa bàn tỉnh chịu ảnh hưởng chế độ bàn nhật
triều không đều. Đặc biệt vùng cửa sông có hoạt động thủy triều rất
mạnh, biên độ triều tại các cửa sông từ 3,5 - 3,6m, tốc độ truyền

triều 30km/h (gấp 1,5 lần sông Hậu và 3 lần sông Hồng), tốc độ độ
chảy ngược trung bình 0,8 - 0,9m/s, lớn nhất lên đến 1,2m/s và tốc
độ chảy xuôi đến 1,5 - 1,8m/s. Trên sông Tiền, tại Mỹ Thuận (cách
cửa sông 102km) biên độ triều lớn nhất từ 121 - 190 cm, ở hai lũ lớn
nhất (tháng 9 và 10) biên độ triều nhỏ nhất khoản 10 - 130cm và hai
tháng mùa cạn (tháng 4 và 5) biên độ triều lớn nhất là 190 - 195cm.
Đỉnh triều (max) tại Mỹ Thuận : 196cm (17/10/1978), chân triều
(min) : -134cm (30/04/1978).

* Thời tiết - Khí hậu:
Khí hậu Tiền Giang mang tính chất nội chí tuyến - cận xích đạo và khí
hậu nhiệt đới gió mùa nên nhiệt độ bình quân cao và nóng quanh
năm. Nhiệt độ bình quân trong năm là 27 - 27,9oC; tổng tích ôn cả
năm 10.183oC/năm.

Có 2 mùa: Mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau ;
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 (thường có hạn Bà chằng vào
tháng 7, tháng 8).
Tiền Giang nằm trong dãy ít mưa, lượng mưa trung bình 1.210 -
1.424mm/năm và phân bố ít dần từ bắc xuống nam, từ tây sang
đông; Độ ẩm trung bình 80 - 85%.

Gió: có 2 hướng chính là Đông bắc (mùa khô) và Tây nam (mùa
mưa); tốc độ trung bình 2,5 - 6m/s.

* Tài nguyên - Khoáng sản:

- Than bùn: tìm thấy ở Phú Cường, Tân Hoà Tây - Cai Lậy (mỏ Tân
Hoà) và tân Hoà Đông - Tân Phứơc (mỏ Tràm Sập). Các mỏ bị phủ
một lớp sét, mùn thực vật dày 0-0,7m; trung bình là 0,3m. Tuổi

Holocen.
Mỏ Tràm Sập có thành tạo kiểu lòng sông cổ, dài hàng km, rộng 50 -
70m, dày trung bình 1,7m. Trữ lượng tương đương 125.000 tấn. Sử
dụng làm nhiên liệu, nguyên liệu nền cho sản xuất phân vi sinh.Đang
có doanh nghiệp khai thác.
Mỏ Tân Hoà có thành tạo kiểu đầm lầy, phân bố rãi rác, đẳng thứơc.
Độ dày 0,5-2,2m, trung bình 1,6m. Trữ lượng khoảng 900.000 tấn.
Sử dụng làm nhiên liệu, nguyên liệu nền cho sản xuất phân bón.

- Sét: tìm thấy ở Tân Lập - Tân Phước.
Mỏ sét Tân Lập có nguồn gốc trầm tích hổn hợp sông biển, tuổi
Holocen, có lớp phủ dầy 0,2 - 3m, phân bố trên diện tích 2 - 3km2
với chiều dày 15 - 20m. Trữ lượng tương đương 6 triệu m3. Sét có
màu xám tối, có nhiễm phèn. Sét có chất lượng tốt, có khả năng làm
nguyên liệu để sản xuất ra các mặt hàng gốm xây dựng như gạch,
ngói Đang có doanh nghiệp đầu tư khai thác.

- Cát sông: Phân bố chủ yếu trên lòng sông Tiền
Các mỏ cát được xác định, phân lớp tập trung tại địa bàn các huyện
Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành với 9 thân cát có trữ lượng lớn với chiều
dài 2 - 17km, rộng 300 - 800m, dày 2,5-6,9m, có chất lượng đáp ứng
nhu cầu vật liệu san lấp. Thành phần hạt chủ yếu là hạt tập trung và
hạt nhỏ; độ hạt giảm dần về phía hạ lưu. Tổng lượng mỏ thuộc địa
bàn tỉnh hơn 93 triệu m3. Đang có 13 doanh nghiệp đầu tư khai thác.


- Nước dưới đất: trên phạm vi tỉnh có 3 tầng chứa nước có triển
vọng, có độ giàu nước từ lớn đến trung bình, có chất lượng tốt, đủ
điều kiện khai thác với qui mô lớn và vừa gồm các phân vị Pliocen
trên, Pliocen dưới và Miocen. Các phân vị này phân bố tập trung ở

Mỹ Tho, Cai Lậy; độ sâu dao động từ 150 - 400m. Tại các nơi khác,
khả năng khai thác hạn chế. Tại Mỹ Tho, lưu luợng đang khai thác
hơn 40.000m3/ngày đêm. Loại hình nước chủ yếu là Bicarbonat -
Natri, Clorua- Natri ; nhiệt độ 28 -30oC; pH6 - 8,3.

×