ĐỊA LÝ NÂNG CAO: VỊ TRÍ CỦA
VIỆT NAM TRONG PHÂN CÔNG LAO
ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC
1. Những lợi thế của Việt Nam.
● Về vị trí địa lý (VTĐL)
VTĐL ở đây không chỉ giới hạn trong toạ độ địa lý đơn thuần, mà bản
chất kinh tế của VTĐL là “địa tô chênh lệch”. VTĐL càng thuận lợi thì
cho phép thu được địa tô chênh lệch cao, (và ngược lại) VTĐL không
thuận lợi chỉ đem lại “địa tô chênh lệch” thấp, thậm chí không có “địa tô
chênh lệch”, như vậy VTĐL thuận lợi chính là “lợi thế so sánh”. Nước
ta, VTĐL thuận lợi được thể hiện ở các mặt sau:
- Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á; Ở ngã tư nơi gặp
gỡ của các luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quan. Vì vậy, tự
nhiên của nước ta rất đa dạng và phong phú. Đặc điểm này có tác động
sâu sắc đến quy mô, cơ cấu và hướng phát triển kinh tế, xã hội.
- Nằm ở rìa đông bán đảo Đông Dương; gần trung tâm Đông Nam Á.
Nước ta trở thành một đầu mối giao thông quan trọng từ TBD-ÂĐD và
châu Úc-Đại Dương (hoặc ngược lại). Vùng biển chủ quyền nước ta
rộng lớn giàu tiềm năng. Vị trí này cho phép Việt Nam có thể dễ dàng
phát triển các mối quan hệ kinh tế - thương mại; văn hoá, KH - KT với
các nước trong khu vực và TG.
- Nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nhất
trên thế giới trong thế kỷ XXI này; trong đó “Bốn con rồng” của châu Á
(Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Công, Singapo) cùng với Thái Lan,
Malaixia cũng đang phát triển mạnh trên con đường đó; các nước khác
cũng đang có những bước phát triển đáng kể. Như vậy, ASEAN đang
chiếm vị trí cao hơn trong khu vực C.Á-THD và trên thế giới.
- Việt Nam là nơi xuất hiện loài người sớm cùng với nền văn minh đi
theo nó; Có mối quan hệ lâu đời với các quốc gia có nền văn minh sớm
như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia. Mặt khác, Việt Nam còn nằm ở ngã
ba của các tuyến đường bộ, đường hàng không và đường hàng hải quốc
tế. Vì vậy, Việt Nam cũng sớm có mối quan hệ với các nước phương
Tây.
● Tài nguyên thiên nhiên.
Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong
đó có nhiều loại có giá trị kinh tế lớn (than, sắt, đầu mỏ, bôxit, aptit ).
Tuy nhiên, một số tài nguyên vẫn chưa được đưa vào khai thác (hoặc
khai thác ở mức độ thấp), việc sử dụng cũng chưa thật hợp lý. Đây chính
là những nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời còn là đối
tượng đầu tư với các nước trên thế giới.
● Tài nguyên nhân văn.
Tài nguyên này rất phong phú (bao gồm con người cùng với hệ thống
giá trị do con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử dân tộc), đây
cũng là đối tượng đầu tư phát triển rất quan trọng của các nước tư bản.
Tuy nhiên, nguồn tài quí giá nguyên này cũng chưa được động viên,
khai thác đầy đủ để phát triển KT-XH. Việt Nam là một nước đông dân,
một thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ rộng lớn, đây cũng là tiền đề
và là yếu tố kích thích thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại.
● Về đường lối, chính sách.
Việt Nam đã tiến hành đổi mới toàn bộ nền KT-XH, công cuộc đổi mới
này được thực hiện từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đánh dấu một
bước ngoặt lớn đối với đời sống kinh tế - chính trị của đất nước.
Đại hội VII (1991), tiếp tục phát triển và cụ thể hoá thêm về đường lối
mà đại hội VI đề ra. Thông qua “Cương lĩnh chính trị xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH và chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế-xã hội đến năm 2000”.
Đại hội VIII (1996) đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời
kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH’, HĐH’. Xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có CSVC-KT hiện đại; Có cơ cấu kinh tế
hợp lý; Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng
cao; An ninh-quốc phòng vững chắc; Dân giàu-nước mạnh-xã hội công
bằng-văn minh.
Đại hội IX (2001) lại đánh dấu một bước ngoặt mới khi đất nước bước
sang Thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI). Khởi đầu của Thiên niên kỷ này là
những thành công trong công cuộc đổi mới nền KT-XH trước đó đã đạt
được. Điều này càng khẳng định con đường đổi mới là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với tình hình thực tế đất nước, tiếp cận được với những
tiến bộ của cách mạng KH-KT-CN hiện đại trên thế giới.
Những kết quả đã đạt được từ sau đổi mới: Tốc độ tăng trưởng trung
bình của nền kinh tế trong cơ cấu GDP > 7,5%; Cả công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ phát triển ổn định và tương đối toàn diện; Một số sản
phẩm công nghiệp quan trọng (điện, than, dầu khí, vật liệu xây dựng )
tăng nhiều so với trước; Nhập siêu giảm. Giá cả ổn định; Lạm phát về cơ
bản đã được đẩy lùi, có tích luỹ nội bộ; Vấn đề lao động việc làm cơ bản
đã khắc phục được; GD-YT-VH và các chính sách xã hội có bước phát
triển mới; An ninh-chính trị ổn định; Quan hệ đối ngoại mở rộng, đầu tư
của nước ngoài tăng mạnh, vị trí của nước ta được nâng cao hơn trên
trường quốc tế.
● Vị trí của Việt Nam trong tổng thể kinh tế thế giới được xếp như
sau:
Theo báo cáo của UNDP phân các nước thành 3 nhóm theo chỉ tiêu
GNP/người (1992, có 173 nước thống kê): Nhóm thu nhập cao (
6.000USD -38 nước). Nhóm có thu nhập trung bình (từ 651 USD-
6.000USD -82 nước). Nhóm có thu nhập thấp ( 651USD -53 nước). Việt
Nam đứng thứ 150/173 nước. Theo trình độ phát triển CN: các nước CN
phát triển (46 nước); đang phát triển, trong đó có một số nước chậm phát
triển (LDC) là 127 nước. Việt Nam thuộc nhóm TB (không thuộc LDC).
Về chỉ số HDI: Nhóm cao (0,8-1,0) có 53 nước; nhóm TB (0,5-0,79) có
65 nước và nhóm thấp (<0,5) có 55 nước. Việt Nam có chỉ số HDI là
0,514 (1992), xếp 116/173 (thuộc nhóm TB)
● Vị trí của Việt Nam trong khu vực ĐNÁ:
Việt Nam đứng thứ 2 về dân số (1992) và đứng thứ 4 về diện tích lãnh
thổ. GNP đứng thứ 6, GDP đứng thứ 5, bình quân GDP/ng và
GDP/người còn thấp (thứ 8 và 9). Qui mô xuất khẩu chỉ chiếm 2% tổng
giá trị xuất khẩu trong khu vực.
2. Một số hạn chế (hay thách thức) trong công cuộc đổi mới nền KT-
XH của nước ta trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế
và khu vực.
Do nhiều nguyên nhân cả (về chủ quan và khách quan), cho nên sự phát
triển KT-XH của nước ta còn chưa vững chắc; hiệu quả và sức cạnh
tranh chưa cao; còn nhiều yếu tố chưa đảm bảo tăng trưởng và phát triển
bền vững. Cụ thể: Trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng còn lãng phí
lớn; Tích luỹ nội bộ còn thấp; Tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài chậm lại
(điều này còn có nguyên nhân khách quan của cuộc khủng hoảng tài
chính-tiền tệ ở Đông Nam Á -1997); Phương hướng và cơ cấu đầu tư
chưa hợp lý, còn dàn trải, thất thoát lớn; Công nghiệp (nhất là CNCB’)
chưa phát triển; NSLĐ thấp, giá thành cao, công nghệ còn lạc hậu; Cơ
cấu kinh tế còn chậm thay đổi; Nhập siêu và bội chi ngân sách còn lớn,
nợ nước ngoài cao, dự trữ quốc gia còn mỏng; Việc xây dựng và củng cố
quan hệ quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN bị buông lỏng; Điều
hành nền kinh tế thị trường vẫn còn lúng túng; Công bằng trong xã hội
còn nhiều bất hợp lý (đất nước thì nghèo - tiêu dùng quá khả năng làm
ra); Chưa ngăn chặn kịp thời những thủ đoạn làm ăn bất chính (tệ tham
nhũng, quan liêu, sử dụng ngân sách, công quĩ chung còn phổ biến và
nghiêm trọng, dân chủ trong xã hội còn hạn chế); Sự chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các vùng và các tầng lớp dân cư có xu hướng ngày
càng mở rộng; Việc làm và những vấn đề xã hội còn gay gắt Tất cả
những vấn đề trên ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh tế, làm giảm nhịp
độ tăng trưởng; đồng thời chứa đựng những tiềm ẩn gây nguy cơ mất ổn
định KT-XH.
3. Một số quan điểm và giải pháp.
a. Quan điểm chung.
Muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, hội nhập nhanh chóng vào
khu vực và thế giới. Trong những năm tiếp theo cần: Tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa các nguồn nội lực; Nâng
cao hiệu quả về hợp tác quốc tế; Cần kiệm và đẩy nhanh quá trình CNH'
và HĐH'; Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Kết hợp
chặt chẽ với phát triển VH - YT - GD, thực hiện xã hội công bằng văn
minh; Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất song song với hoàn thiện
quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng XHCN; Nâng cao ý thức tự
lực, tự cường, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong tiến trình hội nhập
quốc tế; Bảo đảm an ninh - quốc phòng vững chắc; Kết hợp chặt chẽ
giữa đổi mới KT - XH với cải tiến bộ máy quản lý hành chính nhà nước;
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới.
b. Giải pháp:
Thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chính việc chuyển
dịch cơ cấu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH', HĐH' và
hợp tác hoá, dân chủ hoá. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có
hiệu quả các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá
hệ thống tài chính - tiền tệ, thực hiện tiết kiệm. Tích cực giải quyết việc
làm, xoá đói, giảm nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân về KT-XH.